Trường THPT Xuân Lộc
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Trường THPT Xuân Lộc

Trường THPT Xuân Lộc - Đồng Nai
 
Trang ChínhTrang Chính  WebsiteWebsite  Tra CứuTra Cứu  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng Nhập  
Top posters
♪-Peter-♪ (1229)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Vote_rcap 
Admin (730)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Vote_rcap 
JabbaWocKeez (342)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Vote_rcap 
whitehat (313)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Vote_rcap 
RongK9 (204)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Vote_rcap 
Blogsoft (171)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Vote_rcap 
lightspeed (154)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Vote_rcap 
kosak1213 (112)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Vote_rcap 
thaikiet (54)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Vote_rcap 
kidpro1409 (44)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Vote_rcap 
THÔNG ĐIỆP YÊU THƯƠNG:

Share|

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full)

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down
Chuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10  Next
Tác giảThông điệp
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 EmptySat Dec 25, 2010 8:16 am

First topic message reminder :

Vâng !! Nếu có thời gian thì Mời các bạn nên đọc tác phầm này Smile


Vâng và mình giới thiệu tác phẩm này luôn :

Chiến tranh và hòa bình ([You must be registered and logged in to see this link.]: Война и мир, Voyna i mir) là một bộ [You must be registered and logged in to see this link.] sử thi của [You must be registered and logged in to see this link.], được nhà xuất bản Russki Vestnik in lần đầu từ năm [You must be registered and logged in to see this link.] đến [You must be registered and logged in to see this link.]. Đây là tác phẩm phản ánh một giai đoạn bi tráng của toàn xã hội [You must be registered and logged in to see this link.],
từ giới quý tộc đến nông dân, trong thời đại Napoléon, và được coi là
một trong hai kiệt tác chính của Tolstoy (tác phẩm thứ hai là [You must be registered and logged in to see this link.]). Chiến tranh và hòa bình cũng đồng thời được đánh giá là một trong những tiểu thuyết vĩ đại nhất của [You must be registered and logged in to see this link.].


Nội dung

[You must be registered and logged in to see this link.]: Phần sau đây có thể cho bạn biết trước nội dung của tác phẩm.

Tác phẩm mở đầu với khung cảnh một buổi tiếp tân, nơi có đủ mặt các nhân vật sang trọng của giới quý tộc [You must be registered and logged in to see this link.] của [You must be registered and logged in to see this link.]. Bên cạnh những câu chuyện thường nhật của giới quý tộc, người ta bắt đầu nhắc đến tên của [You must be registered and logged in to see this link.] và cuộc [You must be registered and logged in to see this link.]
sắp tới mà Nga sắp tham gia. Trong số những tân khách hôm ấy có công
tước Andrei Bolkonsky một người trẻ tuổi, đẹp trai, giàu có, có cô vợ
Liza xinh đẹp mới cưới và đang chờ đón đứa con đầu lòng. Và một vị khách
khác là Pierre người con rơi của lão bá tước Bezoukhov, vừa từ nước
ngoài trở về. Tuy khác nhau về tính cách, một người khắc khổ về lý trí,
một người hồn nhiên sôi nổi song Andrei và Pierre rất quý mến nhau và
đều là những chàng trai trung thực, luôn khát khao đi tìm lẽ sống.
Andrei tuy giàu có và thành đạt nhưng chán ghét tất cả nên chàng chuẩn
bị nhập ngũ với hy vọng tìm được chỗ đứng của một người đàn ông chân
chính nơi chiến trường. Còn Pierre từ nước ngoài trở về nước Nga, tham
gia vào các cuộc chơi bời và bị trục xuất khỏi Sankt-Peterburg vì tội du
đãng. Pierre trở về [You must be registered and logged in to see this link.],
nơi cha chàng đang sắp chết. Lão bá tước Bezoukhov rất giàu có, không
có con, chỉ có Pierre là đứa con rơi mà ông chưa công nhận. Mấy người bà
con xa của ông xúm quanh giường bệnh với âm mưu chiếm đoạt gia tài.
Pierre đứng ngoài các cuộc tranh chấp đó vì chàng vốn không có tình cảm
với cha, nhưng khi chứng kiến cảnh hấp hối của người cha lúc lâm chung
thì tình cảm cha con đã làm chàng rơi nước mắt. Lão bá tước mất đi để
lại toàn bộ gia sản cho Pierre và công nhận chàng làm con chính thức.
Công tước Kuragin không được lợi lộc gì trong cuộc tranh chấp ấy bèn tìm
cách dụ dỗ Pierre. Vốn là người nhẹ dạ, cả tin nên Pierre rơi vào bẫy
và phải cưới con gái của lão là Hélène, một cô gái có nhan sắc nhưng
lẳng lơ và vô đạo đức.
Về phần Andrei chàng quyết định gởi vợ cho cha và em chăm sóc sau đó
gia nhập quân đội. Khi lên đường Andrei mang một niềm hy vọng có thể có
thể tìm thấy ý nghĩa cuộc sống cũng như công danh trên chiến trường.
Chàng tham gia trận đánh [You must be registered and logged in to see this link.]
lừng danh, thương nặng, bị bỏ lại chiến trường. Khi tỉnh dậy chàng nhìn
dậy chàng nhìn thấy bầu trời xanh rộng lớn và sự nhỏ nhoi của con
người, kể cả những mơ ước, công danh và kể cả Napoléon người được chàng
coi như thần tượng. Andrei được đưa vào trạm quân y và được cứu sống.
Sau đó, chàng trở về nhà chứng kiến cái chết đau đớn của người vợ trẻ
khi sinh đứa con đầu lòng. Cái chết của Lisa, cùng với vết thương và sự
tiêu tan của giấc mơ Tulông đã làm cho Andrei tuyệt vọng. Chàng quyết
định lui về sống ẩn dật. Có lần Pierre đến thăm Andrei và đã phê phán
cách sống đó. Lúc này, Pierre đang tham gia vào hội Tam điểm với mong
muốn làm việc có ích cho đời.
Một lần, Andrei có việc đến gia đình bá tước Rostov. Tại đây, chàng
gặp Natalia (Natasha) con gái gia đình của bá tước Rostov. Chính tâm hồn
trong trắng hồn nhiên và lòng yêu đời của nàng đã làm hồi sinh Andrei.
Chàng quyết định tham gia vào công cuộc cải cách ở triều đình và cầu hôn
Natasha. Chàng đã được gia đình bá tước Rostov chấp nhận, nhưng cha
chàng phản đối cuộc hôn nhân này. Bá tước Bolkonsky (cha của Andrei)
buộc chàng phải đi trị thương ở nước ngoài trong khoảng thời gian là một
năm. Cuối cùng, chàng chấp nhận và xem đó như là thời gian để thử thách
Natasha. Chàng nhờ bạn mình là Pierre đến chăm sóc cho Natasha lúc
chàng đi vắng. Natasha rất yêu Andrei, song do nhẹ dạ và cả tin nên nàng
đã rơi vào bẫy của Anatole con trai của công tước Vassili, nên Natasha
và Anatole đã định bỏ trốn nhưng âm mưu bị bại lộ, nàng vô cùng đau khổ
và hối hận. Sau khi trở về Andrei biết rõ mọi chuyện nên đã nhờ Pierre
đem trả tất cả những kỷ vật cho Natasha. Nàng lâm bệnh và người chăm sóc
và người thông cảm cho nàng lúc này là Pierre.
Vào lúc này, nguy cơ chiến tranh giữa [You must be registered and logged in to see this link.][You must be registered and logged in to see this link.]
ngày càng đến gần. Cuối năm 1811, quân Pháp tiến dần đến biên giới Nga,
quân Nga rút lui. Đầu năm 1812, quân Pháp tiến vào lãnh thổ Nga. Chiến
tranh bùng nổ. Vị tướng già Mikhail Koutouzov được cử làm tổng tư lệnh
quân đội Nga. Trong khi đó, quý tộc và thương gia được lệnh phải nộp [You must be registered and logged in to see this link.]
và dân binh. Pierre cũng nộp tiền và hơn một ngàn dân binh cho quân
đội. Andrei lại gia nhập quân đội, ban đầu vì muốn trả thù tình địch,
nhưng sau đó chàng bị cuốn vào cuộc chiến, bị cuốn vào tinh thần yêu
nước của nhân dân. Trong trận [You must be registered and logged in to see this link.],
dưới sự chỉ huy của vị tướng Koutouzov quân đội Nga đã chiến đấu dũng
cảm tuyệt vời. Andrei cũng tham gia trận đánh này và bị thương nặng.
Trong lán quân y, chàng gặp lại tình địch của mình cũng đang đau đớn vì
vết thương. Mọi nỗi thù hận đều tan biến, chàng chỉ còn thấy một nỗi
thương cảm đối với mọi người. Chàng được đưa về địa phương. Trên đường
di tản, chàng gặp lại Natasha và tha thứ cho nàng. Và cũng chính Natasha
đã chăm sóc cho chàng cho đến khi chàng mất.
Sau trận Borodino, quân Nga rút khỏi Moskva. Quân Pháp chiếm được
Moskva nhưng có tâm trạng vô cùng lo sợ. Pierre trở về Moskva giả dạng
thành thường dân để ám sát Napoléon. Nhưng âm mưu chưa thực hiện được
thì chàng bị bắt. Trong nhà giam, Pierre gặp lại Platon Karataev, một
triết gia nông dân. Bằng những câu chuyện của mình, Platon đã giúp
Pierre hiểu thế nào là cuộc sống có nghĩa.
Quân Nga bắt đầu phản công và tái chiếm Moskva. Quân Pháp rút lui
trong hỗn loạn. Nga thắng lợi bằng chính tinh thần của cả dân tộc Nga
chứ không phải do một cá nhân nào, đó là điều Koutouzov hiểu còn
Napoléon thì không.
Trên đường rút lui của quân Pháp, Pierre đã trốn thoát và trở lại
Moskva. Chàng hay tin Andrei đã mất và vợ mình cũng vừa mới qua đời vì
bệnh. Chàng gặp lại Natasha, một tình cảm mới mẻ giữa hai người bùng nổ.
Pierre quyết định cầu hôn Natasha. Năm 1813, hai người tổ chức đám
cưới. Bảy năm sau, họ có bốn người con. Natasha lúc này không còn là một
cô gái vô tư hồn nhiên mà đã trở thành một người vợ đúng mực. Pierre
sống hạnh phúc nhưng không chấp nhận cuộc sống nhàn tản. Chàng tham gia
vào những hội kín - đó là các tổ chức cách mạng của những người tháng
Chạp.
!!wikipedia




Dịch giả: Cao Xuân Hạo, Nhữ Thành, Hoàng Thiếu Sơn, Thường Xuyên
nguồn : vnthuquan


Phần I

- Chương 1 -


- Đấy công tước thấy chưa:
Genes và Lucque nay chỉ còn là những thái ấp, những điền trang của dòng
họ Buônapáctê(1) mà thôi. Này, tôi xin báo trước: hễ công tước còn cho
rằng hiện nay chúng ta chưa ở trong tình trạng chiến tranh, hễ công
tước còn dám bào chữa cho những hành động nhơ nhuốc và tàn bạo của tên
Ma vương phản Cơ đốc ấy (quả tình tôi cũng tin rằng hắn chính là Ma
vương - thì tôi không có quen biết, không có bạn bè gì với công tước
nữa đâu, công tước không còn là "kẻ nô lệ trung thành" của tôi như công
tước vẫn nói. Nào, thôi, phải hỏi thăm sức khoẻ công tước đã chứ! Tôi
làm cho công tước đâm hoảng sợ thì phải, công tước ngồi xuống đi, rồi
kể chuyện cho tôi nghe.
Anna Pavlovna Serer, ngự tiền phu nhân có
tiếng, rất thân cận với hoàng hậu Maria Feodorovna, nói như vậy khi phu
nhân ra đón công tước Vaxili, một nhân vật quan trọng và có chức vị
cao, và là người đầu tiên tối hôm nay đến dự buổi tiếp tân của phu
nhân. Bấy giờ là vào tháng bảy năm 1805. Anna Pavlovna ho đã mấy hôm
nay, phu nhân bị bệnh cúm - phu nhân nói thế (hồi ấy cúm là một danh từ
mới, rất ít người dùng). Buổi sáng một gia nhân mặc áo dấu đỏ đi phân
phát những tấm thiếp mời nhất loạt viết:
"Thưa bá tước hay (thưa công tước), nếu bá tước không có việc gì hay
hơn và không có ý quá lo sợ phải ngồi suốt cả buổi tối với một ngưòi
đàn bà đau ốm tội nghiệp, thì tôi sẽ rất vui sướng được tiếp bá tước
tại nhà từ 7 đến 10 giờ. Annette Scherer".
Lúc này công tước vừa bước vào phòng, mình mặc phẩm phục thêu kim
tuyến, chân đi giày có bít tất cao, ngực đeo huân chương, khuôn mặt
phẳng đẹp trông rất tươi tỉnh. Công tước đáp, không hề mảy may lúng
túng trước cách tiếp đón của nữ chủ nhân:
- Trời, nhiếc móc độc địa thế!
Công tước nói một thứ tiếng Pháp cầu kỳ, thứ tiếng mà cha ông chúng ta
không nhũng dùng để nói chuyện, mà còn để suy nghĩ nữa; công tước lại
có một gióng nói dìu dịu và khoan dung đặc biệt của một người quyền quí
đã lõi đời trong xã hội thượng lưu và trong cung đình. Công tước lại
gần Anna Pavlovna, cúi cái đầu hói bóng nhoáng, xức nước hoa thơm phức
xuống hôn tay phu nhân rồi thoải mãi buông người xuống đi-văng.
- Trước hết, xin bà bạn cho biết sức khoẻ ra sao? - công tước lại nói - Xin phu nhân nói rõ cho tôi được yên lòng?
Công tước cũng vẫn nói với giọng như trước nhưng trong cái giọng nhã
nhặn và đượm vẻ ái ngại vẫn để lộ sự thờ ơ, thậm chí cả sự mỉa mai.
Anna Pavlova nói:
- Tinh thần đã đau khổ thì người còn mạnh khoẻ sao được? Thời buổi này,
là người có tâm huyết ai có thể bình thản được? Công tước ở lại chơi cả
buổi tối nhé!
- Thế còn buổi dạ hội của đại sứ Anh thì sao? Hôm nay là thứ tư. Tôi
cần phải đi đến đấy cho có mặt. Con gái tôi nó sẽ ghé lại đây đưa tôi
đi.
- Tôi vẫn tưởng buổi dạ hội đã hoãn rồi kia đấy. Tôi xin thú thật những
trò hội hè và bắn pháo hoa ấy đã bắt đầu trở thành nhạt thếch.
- Họ mà biết phu nhân muốn thế, thì họ đã hoãn buổi dạ hội rồi - công
tước nói theo thói quen, như một chiếc đồng hồ đã lên dây sẵn, nói
những điều mà mình cũng không muốn người ta tin là thật.
- Thôi xin ông đừng làm khổ tôi nữa… Này, về cái tin cấp báo của
Novoxilxov người ta quyết định gì? Việc gì ngài cũng biết kia mà.
Công tước nói, giọng lạnh nhạt và chán chường:
- Tôi biết nói thế nào đây? - Người ta quyết định gì ư? Người ta cho
rằng Buônapáctê đã đi nước liều, và tôi tin ta cũng làm như thế.
Công tước Vaxili bao giờ cũng nói giọng uể oải như một diễn viên đọc
một vai tuồng đã quá cũ. Anna Pavlovna Serer thì trái lại, tuy đã tròn
bốn mươi tuổi, nhưng văn hăng hái sôi nổi. Tỏ ra hăng hái đã thành một
chức vụ xã hội của phu nhân, và đôi khi, mặc dầu không muốn, phu nhân
cũng vẫn làm ra vẻ hăng hái để khỏi phụ lòng mong đợi của những người
quen biết. Nụ cười nửa miệng luôn luôn phảng phất trên gương mặt Anna
Pavlovna tuy không ăn khớp với những nét mặt đã tàn phai, nhưng cũng
nói lên rằng phu nhân chẳng khác gì đứa trẻ được nuông chiều, vẫn có ý
thức về cái tật đáng yêu của mình, một cái tật mà phu nhân không muốn,
không thể và không thấy cần phải sửa chữa.
Giữa chừng câu chuyện về lình hình chính trị, Anna Pavlovna bỗng hăng lên:
- Ồ, thôi đừng nói tới cái nước Áo ấy với tôi nữa! Có thể là tôi chẳng
hiểu tí gì, nhưng nước Áo xưa nay không hề muốn có chiến tranh. Nó phản
bội chúng ta. Một mình nước Nga sẽ phải cứu châu âu. Đấng ân chủ của
chúng ta biết rõ sứ mệnh cao cả của người và sẽ trung thành với sứ mệnh
đó. Tôi chỉ tin có thế mà thôi. Đức vua nhân từ và kỳ diệu của ta sẽ
phải lĩnh lấy cái trách nhiệm trọng đại nhất trên thế giới; người nhân
từ và quí hoá như vậy nên Thượng đế sẽ không bỏ người đâu, và Người sẽ
làm tròn sự phó thác của Trời là bóp chết con quái xà cách mạng nay đã
trở nên ghê tởm hơn bao giờ hết vì hiện thân của nó là cái tên sát nhân
kiêm đạo tặc kia. Chúng ta sẽ phải một mình trả thù cho máu của chính
nghĩa đã đổ. Còn biết hy vọng vào ai nữa, thưa ngài? Nước Anh với cái
đầu óc con buôn của nó sẽ không bao giờ hiểu nổi cái độ lượng như trời
bể của hoàng đế Alecxandr. Nó đã từ chối không chịu rút khỏi đảo Malta.
Nó muốn tìm xem phía sau các hành động của chúng ta có thâm ý gì. Người
Anh đã nói gì với Novoxilxov?… Chẳng nói gì cả. Họ không hiểu, mà cũng
không thể hiểu nổi cái lòng vị tha cao cả của Đức hoàng thượng, là
người không bao giờ làm gì cho bản thân mình, mà sẵn lòng làm tất cả
cho hạnh phúc của thiên hạ. Họ hứa những gì nào? Không hứa gì cả. Mà dù
có hứa thì họ cũng chẳng làm gì đâu! Nước Phổ đã tuyên bố rằng
Bonaparte là vô địch và toàn thể châu Âu không còn có cách gì chống lại
hắn nữa… Tôi không tin một lời nào của Hardenberg hay của Haugevits.
Cái nền trung lập trứ danh của nước Phổ chẳng qua là một cái bẫy. Tôi
chỉ tin ở Thượng đế và tin vào sự thụ mệnh thiêng liêng của vị hoàng đế
kính yêu của chúng ta. Người ta sẽ cứu được châu Âu…
Anna Pavlovna bỗng dừng lại, mỉm cười như để tự chế giễu cái thái độ bồng bột của mình.
Công tước mỉm cười nói:
- Tôi trộm nghĩ giá phu nhân được cử làm sứ giả thay ông Vin
Vintxengherod thân mến của chúng ta thì phu nhân đã bắt vua Phổ ưng
thuận đứt đi rồi. Phu nhân hùng biện thế kia mà. Phu nhân cho tôi chén
đí chứ?
- Sắp có đấy ạ- Anna Pavlovna bấy giờ đã bình tĩnh lại. Phu nhân nói thêm:
- À này, trong các vị tân khách của tôi hôm nay sẽ có hai nhân vật rất
thú vị; đó là tử tước Mortenmar, ông ta là thông gia với họ Montmorency
qua họ Rohans, một trong những dòng dõi quý phái bậc nhất ở Pháp. Đó là
một người Pháp lưu vong hạng chân chính đấy(2). Sau nữa là giáo sĩ
Moriot, chắc ngài cũng có biết con người trí tuệ uyên thâm ấy chứ?
Moriot đã được hoàng thượng tiếp, chắc ngài có biết?
- Ô tôi sẽ rất lấy làm hân hạnh. - Rồi công tước nói thêm, giọng đặc
biệt lơ đễnh như vừa sực nhớ ra điều gì, nhưng thực ra công tước đến
đây hôm nay mục đích chính cũng chỉ là để hỏi việc ấy. - Có phải Hoàng
thái hậu muốn bổ nhiệm nam tước Funke làm bí thư thứ nhất ở Viên không?
Hình như cái ông nam tước ấy **c lắm thì phải.
Số là công tước Vaxili muốn tiến cử con mình nhưng lúc bấy giờ trong
triều người ta lại đang xin Hoàng thái hậu lo chức ấy cho nam tước.
Anna Pavlovna lim dim đôi mắt, ý muốn nói phu nhân hay ai cũng đều có
quyền phê phán những điều mà đủc Hoàng thái hậu đã thích làm hay muốn
làm. Phu nhân chỉ nói gọn một câu, giọng buồn và xẵng:
- Nam tước Funke là do bà chị của Hoàng thái hậu gửi gắm đấy!
Khi Anna Pavlovna nói đến Hoàng thái hậu, gương mặt của phu nhân chợt
lộ vẻ sùng kính và ngưỡng mộ chân thành, pha lẫn với vẻ buồn rầu: cứ
mỗi lần nhắc đến Hoàng thái hậu là phu nhân như vậy.
Phu nhân nói rằng đức Hoàng thái hậu có lòng trọng nể nam tước Funke
lắm, - rồi khoé mắt của phu nhân lại đượm vẻ buồn rầu như cũ.
Công tước lặng thinh, vẻ thản nhiên, Anna Pavlovna vốn có đủ cái khéo
léo tế nhị và nhạy bén của một người đàn bà và một nữ quan quen ra vào
chốn cung đình; phu nhân muốn châm chích công tước một tí, vì ông ta đã
dám nghĩ như vậy về một nhân vật được tiến cử với Hoàng thái hậu, nhưng
đồng thời phu nhân cũng muốn an ủi công tước. Phu nhân nói:
- À này, để nói đến việc cửa nhà công tước một thể, chắc công tước cũng
biết là quý tiểu thư, từ khi bước chân vào cuộc đời giao tế, được mọi
người rất yêu chuộng. Ai cũng bảo là tiểu thư đẹp như ánh thái dương.
Công tước nghiêm mình để tỏ ý kích cẩn và cảm kích.
Sau một phút yên lặng, Anna Pavlovna nhích đến gần công tước và dịu
dàng mỉm cười, dường như để tỏ rằng câu chuyện về chính trị và xã giao
đã chấm dứt, và bây giờ đến lượt những mẩu chuyện tâm tình:
- Tôi thường nghĩ rằng đôi khi hạnh phúc trên đời được phân phối thật
bất công. Tại sao số phận lại cho ngài hai người con đáng yêu như vậy.
Trừ Anatol, cậu con út của ngài, mà tôi không ưa - phu nhân nói thêm,
lông mày nhướn cao lên, giọng quyền hành và dứt khoát - Mà công tước
lại là người ít biết giá trị của con mình hơn cả, vì vậy công tước quả
không đáng được hai người con như thế.
Và phu nhân mỉm cười, nụ cười phấn khởi.
Công tước nói:
- Phu nhân bảo tôi làm thế nào được? Nếu có Lavater ở đây thì ông ta sẽ bảo tôi không có cái u làm cha(3).
- Thôi đừng đùa nữa. Tôi đang nói chuyện đứng đắn kia mà. Công tước ạ,
tôi không vừa lòng về cậu con trai út của ngài cho lắm. Cái này ta cũng
nói riêng với nhau thôi (gương mặt của phu nhân lại lộ vẻ buồn rầu),
trong cung đức hoàng thái hậu họ có nói đến cậu ta đấy, và lấy làm ái
ngại cho công tước.
Công tước không đáp lại, nhưng phu nhân vẫn lặng thinh nhìn công tước,
vẻ tư lự, chờ đợi công tước trả lời. Công tước Vaxili cau mày. Cuối
cùng, công tước nói:
- Tôi còn biết làm thế nào được? Phu nhân biết đấy, tôi đã làm tất cả
những gì mà một người cha có thể làm để dạy dỗ chúng nó, thế mà rốt cục
cả hai đứa lớn lên vẫn thành hai thằng ngốc như thường. Thằng Ippolit
thì ít nhất cũng còn là một thằng ngốc hiền lành, chứ thằng Anatol thì
thật là một thừng ngốc ngỗ ngược. Đấy chỉ là khác nhau có thế.
Trong khi nói, công tước mỉm cười không được tự nhiên như thường ngày,
nhưng lại có vẻ phấn khởi hơn, rồi đột nhiên hai bên mép nhăn lại để lộ
cái gì thô bỉ và khả ố.
- Những ngưởi như công tước thì có con làm gì? Giá công tước không làm
cha, thì tôi thật không thể có điều gì chê bai công tước được nữa, -
Anna Pavlovna nói, mắt ngước nhìn lên có vẻ đăm chiêu suy nghĩ.
- Tôi là kẻ nô lệ trung thành của phu nhân, và chỉ với phu nhân tôi mới
có thế thú nhận điều này, con tôi - nó là mối luỵ của đời tôi - nó quả
là cây thập tự mà tôi phải vác lên vai. Tôi tự cắt nghĩa cho mình như
vậy đấy. Biết làm thế nào được?
Công tước ngừng nói và khoát tay một cái, ngụ ý là mình đành cam chịu phục tùng số mệnh ác nghiệt.
Anna Pavlovna trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Ngài chắc chưa bao giờ nghĩ đến việc cưới vợ cho cậu Anatol phá gia
chi tử của ngài nhỉ. Người ta thường bảo là gái quá thời thì hay có cái
thói làm mai mối. Tôi chưa cảm thấy mình có cái thói ấy, nhưng tôi có
biết một tiểu thư phải chịu khổ sở nhiều vì ông bố, đó là một người họ
hàng của chúng tôi, một công tước tiểu thư họ Bonkonxki.
Công tước Vaxili không đáp, nhưng với cái trí xét đoán và cái ký ức rất
nhạy của những người thuộc giới xã giao, công tước liền khẽ nghiêng đầu
để chứng tỏ mình đã lãnh hội và đã quan tâm đến những điều mách bảo của
phu nhân.
- Phu nhân có hiết không, cái thằng Anatol ấy tiêu của tôi mỗi năm đến
bốn vạn rúp, - công tước nói, hẳn là ông ta không đủ sức kìm hãm dòng
tâm tư buồn bã của mình. Công tước im lặng một lúc:
- Cứ như thế này, rồi năm năm nữa không biết sẽ ra sao đây?
- À làm cha thì hơn người ta ở chỗ đấy.
- Thế công tước tiểu thư của phu nhân có giàu không?
- Ông bố cô ta rất giàu nhưng rất hà tiện. Ông cụ hiện nay ở thôn quê.
Đó chính là công tước Bolkonxki nổi tiếng, đã về hưu từ thời tiên đế,
mà người ta thường gọi đùa là ông vua nước Phổ. Ông ta là người rất
thông minh, nhưng có nhiều cái gàn dở rất kỳ quặc, lại rất khó tính.
Tội nghiệp cho con bé, nó thật đến khổ, công tước tiểu thư có một người
anh cách đây ít lâu vừa kết hôn với cô Liza Mainen, và làm sĩ quan phụ
tá cho Kutuzov. Hôm nay người anh cũng đến đây.
Công tước bỗng dưng cầm lấy tay Anna Pavlovna và không hiểu tại sao kéo phu nhân cúi thấp xuống, rồi nói:
- Này, bạn Annet thân mến, bạn dàn xếp hộ tôi việc ấy, tôi sẽ suốt đời
là kẻ nô lệ trung thành của bạn, là kẻ nô lệ, như lão trưởng thôn của
tôi thường viết trong báo cáo, cô ấy con nhà thế gia, cô ấy giàu: tôi
chỉ cần có thế.
Với những cử chỉ thoải mái, thân mật và đẹp mắt mà ông vẫn có, công
tước cầm bàn tay của ngự tiền phu nhân đưa lên môi hôn, và lắc lắc, rồi
ngồi người trên ghế bành, đưa mắt nhìn phía khác.
Anna Pavlovna nghĩ ngợi một lát rồi nói:
- Được, để tôi sẽ nói chuyện với Liza (vợ công tước Bolkonxki trẻ tuổi)
ngay hôm nay. Có lẽ rồi việc này sẽ thành. Gia đình nhà ông sẽ là nơi
tôi tập sự làm gái già.

-------------------------------------------------------------------------

Chú thích:
(1) Họ của Napoleon Bonaparte phát âm theo giọng Corse để tỏ ý khinh miệt.
(2) Sau cuộc cách mạng Pháp 1789, một số quí tộc phản cách mạng trốn
hoặc bị trục xuất ra nước ngoài. Số người đó gọi là những người lưu
vong (emigré)
(3) Lavater (1741-1801) Nhà văn và giáo sĩ Thuỵ Sỹ đã lập ra một thuyết
cho rằng năng khiếu của con người là do hình dáng và đặc biệt là cái u
ở trên đầu quy định. Thành ngữ, có nghĩa là "đó là một tai ách mà số
phải chịu".

Share


Được sửa bởi petterpacker ngày Wed Jan 05, 2011 9:13 pm; sửa lần 2. (Reason for editing : Edit nội dung của truyện)
Về Đầu Trang Go down

Tác giảThông điệp
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 EmptyWed Jan 05, 2011 9:33 pm

Phần XI

Chương - 2 -

Lực lượng kết hợp của mấy dân tộc châu Âu đã tràn vào nước Nga. Quân
đội và cư dân Nga rút lui, tránh cuộc xung đột, rút cho đến Smolensk
rồi từ Smolensk đến Borodino rầm rộ tiến nhanh về phía Moskva, mục đích
của cuộc chuyển dộng của nó. Càng đến gần đích, thế nó tiến tới lại càng
mạnh, cũng như một vật thể càng rơi xuống đến gần đất thì tốc độ rơi
lại càng lớn. Nó bỏ lại sau lưng hàng nghìn dặm đất đói nghèo và thù
địch; phía trước mặt chỉ còn mấy mươi dặm nữa là đến đích. Điều đó, mỗi
người lính trong quân đội của Napoléon đều cảm biết, và cuộc xâm lăngg
cứ tự nó tiến triển chỉ do cái sức mạnh của đà thúc đẩy cũ.
Trong quân đội Nga thì càng rút lui, tinh thần căm thù địch lại càng
bốc cháy hừng hực: Trong khi rút lui nó tập trung lại và tăng cường
lên. Ở Borodino đã xảy ra một cuộc chạm trán. Trong hai đội quân không
có bên nào tan rã, nhưng quân đội Nga ngay sau cuộc xung đột đã rút lui,
cũng một cách tất nhiên như một quả cầu tất nhiên phải lăn ngược trở
lại khi va phải một quả cầu lăn về phía nó mạnh hơn và nhanh hơn; và
cũng tất nhiên như thế, tuy đã mất hết sức lực lượng trong cuộc va chạm,
quả cầu tấn công kia cũng sẽ theo đà mà lăn một quãng nữa.
Quân Nga rút về phía sau, qua Moskva và dừng lại ở đây. Sau đó
suốt năm tuần lễ không xảy ra một trận đánh nào. Quân Pháp không xê
dịch. Giống như một con ác thú bị thương nặng mất nhiều máu đang liếm
những vết thương của mình, họ ở lại Moskva năm tuần lễ, không tiến hành
một công việc gì cả, và bỗng nhiên, chẳng có nguyên do gì mới, họ bỏ
chạy trở lại: Họ đổ ra con đường Kaluga (tuy đã thắng trận, vì sau khi
đánh chiến trường Maly Yaroxlav nằm trong tay họ), và không mở một trận
nào quan trọng, họ chạy càng nhanh về phía Smolensk rồi vượt qua
Smolensk chạy về Vilna vượt sông Berezina rồi tiếp tục chạy mãi.
Tối ngày mồng hai tháng tám, Kutuzov cũng như toàn quân đều đã tin
chắc rằng trận Borodino là một trận thắng. Trong thư của Kutuzov gửi
hoàng đế cũng nói như vậy. Kutuzov ra lệnh chuẩn bị một trận chiến đấu
nữa để tiêu diệt quân địch không phải vì ông muốn lừa dối ai mà là vì
ông biết rằng quân địch đã bại trận và bất cứ người nào tham gia trận
chiến đấu cũng đều biết như vậy.
Nhưng cũng tối hôm ấy và ngày hôm sau bắt đầu có những tin tức dồn
dập đưa về, cho biết là binh lính bị thương vong nhiều chưa từng thấy,
rằng quân đội đã tổn thất mất một nửa, và thực tế không thề nào mở một
trận mới được nữa.
Không thể nào tác chiến trong khi chưa thu thập được tin tức, chưa thu
nhặt được thương binh, chưa bổ sung đạn được, chưa đem hết số quân sĩ tử
trận, chưa chỉ định những sĩ quan chỉ huy mới thay cho những sĩ quan đã
thương vong, trong khi binh sĩ chưa được ăn, ngủ cho lại sức. Nhưng
đồng thời ngay sau trận đánh, vừa mới sáng hôm sau, quân đội Pháp (do
cái sức mạnh thúc đẩy kia bây giờ dường như đã tăng lên theo tỷ lệ ngược
với số bình phương của khoảng cách) đã tự nó tấn công vào quân đội Nga.
Kutuzov đang muốn tấn công vào ngày hôm sau và toàn quân cũng đều muốn
như vậy Nhưng không phải cứ muốn là có thể tấn công được, cần phải có
khả năng tấn công, mà bây giờ thì chưa có cái khả năng đó.
Không thể nào không rút lui thêm một chặng. Rồi lại một chặng nữa,
và cuối cùng, vào ngày mồng một tháng chín, - khi quân đội đã rút về gần
Moskva - mặc dầu trong hàng ngũ lòng căm thù đã lên rất mạnh, hoàn cảnh
vẫn bắt buộc phải rút quá Moskva. Và quân đội đã rút lui thêm một chặng
nữa, chặng cuối cùng, và để cho Moskva rơi vào tay quân địch.
Những người quen nghĩ rằng các tướng lĩnh ngồi vạch ra kế hoạch các
cuộc chiến tranh và các trận đánh cũng y như bất cứ người nào trong
chúng ta, khi ngồi trong thư phòng trước một tấm bản dồ, suy nghĩ xem
trong trận này trận kia mình sẽ điều binh khiển tướng như thế nào, ắt
phải thắc mắc không hiểu tại sao trong khi rút lui, Kutuzov lại không
hành động như thế này, như thế nọ, tại sao ông ta lại không chiếm lĩnh
vị trí trước khi đến Fili, tại sao ông ta lại không rút ngay ra con
đường Kaluga sau khi bỏ Moskva v.v… Những người quen nghĩ như vậy thường
quên mất hoặc không biết đến những điều kiện tất yếu bao giờ cũng chi
phối hoạt động của bất cứ nhà cầm quyền nào.
Hoạt động của một vị tổng tư lệnh không hề có chút gì giống như cái
hoạt động mà ta vẫn tưởng tượng ra trong khi ngồi thoải mái trong thư
phòng, nghiên cứu một chiến dịch nào đó trên tấm bản đồ, với một số quân
nhất định bên này bao nhiêu bên kia bao nhiêu, và ở một địa phương nhất
định, và bắt đấu xuất phát từ một thời điểm nhất định nào đó. Một vị
tổng tư lệnh không bao giờ ở trong cái hoàn cảnh khởi điểm của một biến
cố như chúng ta thường hình dung khi xét một sự kiện. Một vị tổng thống
tư lệnh bao giờ cũng ở vào giữa một loạt những biến cố đang tiến triển
thành thử không bao giờ, không có phút nào ông ta có thể ngẫm nghĩ về ý
nghĩa của biến cố đang tiến triển. Biến cố đó vẫn từng lúc một lộ rõ ý
nghĩa của nó, và ở mỗi giai đoạn trong cái quá trình bộc lộ nhất quán,
liên tục đó, vị tổng tư lệnh đều đang ở vào trung tâm của một hoạt động
phức tạp, đầy những thủ đoạn, những âm mưu, những nỗi lo lắng, những mối
lệ thuộc, những uy quyền, những dự định, những lời khuyên răn, những
câu hăm doạ, những sự lừa phỉnh, ông ta luôn luôn buộc phải trả lời vô
số những câu hỏi đề ra cho ông ta, những câu hỏi nhiều khi mâu thuẫn
nhau.
Các nhà lý luận quân sự thông thái nói với chúng ta một cách rất
nghiêm trang rằng lẽ ra Kutuzov phải chuyển quân ra con đường Kaluga từ
lâu trước khi Fili, và thậm chí còn nói rằng có người đề ra ý kiến với
ông ta. Nhưng trước mắt vị tổng tư lệnh nhất là trong giờ phút gay go,
không phải chỉ có một ý kiến, mà bao giờ cũng có hàng chục ý kiến trong
một lúc. Và mỗi ý kiến như vậy, vốn căn cứ trên chiến lược và chiến
thuật lại dẫn đến mâu thuẫn lẫn nhau. Có thể tưởng đâu công việc của vị
tổng tư lệnh chẳng qua là chọn lấy một trong những ý kiến đó. Nhưng dù
chỉ có thế thôi, thì ông ta cũng không thể làm được. Sự việc và thời
gian không đợi ai hết. Chẳng hạn có người đề nghị với ông ta là đến ngày
hai mươi tám cho chuyển quân ra đường Kaluga; nhưng khốn nỗi ngay lúc
đó lại có một viên sĩ quan phụ tá của Miloradovite phi ngựa đến hỏi xem
nên giao chiến ngay với quân Pháp hay là nên rút lui. Thế là ngay lúc ấy
ngay phút ấy ông ta phải ra lệnh. Mà lệnh rút lui lại làm cho quân ta
phải rời xa các chỗ ngoặt đưa đến con đường Kaluga.
Rồỉ tiếp theo viên sĩ quan phụ tá lại có viên quản lý quân nhu đến
hỏi xem phảì chở lương đi đâu, rồi một viên thủ trưởng bệnh xá hỏi phải
chở thương binh đi đâu; cũng ngay lúc ấy lại có thư của nhà vua từ
Petersburg gửi đến, một mực không chấp nhận ý định bỏ Moskva, còn kẻ
tranh quyền với vị tổng tư lệnh, kẻ đang cố tìm cách ngầm hại ông ta
(những kẻ như vậy thì lúc nào cũng có, và không phải chỉ một, mà khá
nhiều) thì để ra nột kế hoạch mới, ngược hẳn với kế hoạch tiến ra đường
Kaluga. Trong khi đó thì bản thân vị tổng tư lệnh đang cần ngủ và cần
bồi dưỡng cho lại sức, thế nhưng lại có một viên tướng già không được
khen thưởng đến khiếu nại; rồi dân sở tại đến van xin ông che chở cho,
rồi một viên sĩ quan được phái đi xem xét địa thế trở về báo cáo những
điều trái hẳn với viên sĩ quan được phái đi lần trước, rồi người trinh
sát, tên tù binh và viên tướng phụ trách việc kiểm tra trận địa. - mỗi
người đã quên không hiểu hoặc quên những hoàn cảnh thực tế tất yếu đó
của bất cứ vị tổng tư lệnh nào, có thể trình bày cho ta biết vị trí các
đạo quân ở Fili và bảo răng ngày một tháng chín vị tổng tư lệnh có thể
hoàn toàn tự do giải quyết vấn đề bỏ hay giữ Moskva trong khi vấn đề này
không thể đặt ra được vì quân đội Nga đang ở cách Moskva năm dặm. Vậy
thì vấn đề này được giải quyết vào lúc nào? Nó được giải quyết ở Drissa,
cũng như ở Smolensk, và rõ hơn cả là ngày hai mươi bốn ở Sevardino cũng
như ngày hai mươi sáu ở Borodino, cũng như ở bất cứ ngày nào, giờ nào,
phút nào trong khi rút từ Borodino đến Fili.
hết: Chương - 2 -, xem tiếp: Chương - 3 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 EmptyWed Jan 05, 2011 9:34 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XI

Chương - 3 -

Quân đội Nga rút từ Borodino đến đóng ở Fili. Yermolov vừa cưỡi ngựa đi xem địa thế về, đến gặp vị tổng soái nói:
- Không thể nào chiến đấu trên địa thế này được.
Kutuzov ngạc nhiên nhìn ông ta và bảo ông ta nhắc lại câu vừa nói. Nghe xong, Kutuzov chìa tay ra bảo:
- Anh đưa tay đây tôi xem nào, - Kutuzov nói đoạn cầm lấy tay Yermolov
để bắt mạch, rồi tiếp: - Anh ốm rồi đấy anh bạn ạ. Bận sau nói gì phải
suy nghĩ nhé.
Trên đồi Poklonny, cách cửa ô Dorogomilov sáu dặm, Kutuzov xuống xe
và đến ngồi trên một chiếc ghế dài bên vệ đường. Một đám tướng tá rất
đông xúm lại quanh ông. Bá tước Raxtopsin mới ở Moskva đến cũng nhập bọn
với họ. Cả đám người sang trọng ấy phân ra làm mấy nhóm, đang bàn tán
về những lợi hại của địa thế, về vị trí các đạo quân, về các kế hoạch
được đề ra, về tình hình Moskva, về các vấn đề quân sự nói chung. Mọi
người đều cảm thấy rằng đây là một phiên họp hội đồng quân sự, tuy không
ai nói rõ như vậy, và tuy họ được triệu tập đến đây cũng không phải để
họp hội đồng quân sự. Nhưng câu chuyện vẫn xoay quanh các vấn đề
chung. Nếu có ai cho biết hay hỏi han những tin tức cá biệt, thì cũng
chỉ nói thì thầm rất khẽ, rồi lại chuyển ngay sang các vấn đề chung
chung; trong đám người đó không hề thấy có ai nói đùa hay cười cợt gì
cả, dù chỉ là cười mỉm thôi cũng vậy. Rõ ràng là mọi người đều hết sức
cố gắng có một thái độ xứng đáng với tình hình. Và trong khi nói chuyện
với nhau, tất cả nhóm đều cố gắng nghe và thỉnh thoảng lại bảo nhắc lại
một câu họ vừa nói, nhưng bản thân ông ta thì không góp chuyện và không
phát biểu ý kiến gì cả. Thường thường, sau khi nghe câu chuyện trao đổi
trong một nhóm nào đấy ông ngoảnh mặt đi có vẻ thất vọng, dường như họ
không nói đến những điều mà ông muốn biết. Nhóm thì bàn tán về địa thế
đã chọn, phê phán chính cái địa thế đó thì ít, mà phê phán trí thông
minh của những người đã chọn nó thì nhiều, một nhóm khác thì lại chứng
minh rằng sai lầm là sai lầm từ trước kia; lẽ ra phải khai chiến cách
đây ba hôm mới phải; một nhóm thứ ba thì bàn về trận đánh ở Xlanmanca mà
một người Pháp mặc quân phục Tây Ban Nhan là Croxa vừa kể lại (cùng với
một hoàng thân Đức phục vụ trong quân đội Nga, người Pháp này đang phân
tích cuộc vây hãm thành Xaragossa có ý muốn đề nghị dùng chiến thuật ấy
để phòng thủ Moskva). Trong nhóm thứ tư, bá tước Raxtopsin đang nói
rằng ông ta sẵn sàng hy sinh tính mệnh dưới thành Moskva cùng với đội
dân vệ, nhưng dù sao ông ta cũng không thể không phàn nàn rằng người ta
đã không cho ông biết rõ tình hình, vì giá ông được biết từ trước, thì
đâu đến nỗi như thế này. Nhóm thứ năm thì đang phô trương những tư tưởng
chiến lược uyên thâm của mình, cho biết quân đội phải chuyển về hướng
nào. Nhóm thứ sáu thì bàn toàn chuyện nhả. Gương mặt của Kutuzov mỗi lúc
một thêm lo âu và phiền muộn. Qua tất cả những câu chuyện bàn tán qua
lại ấy, Kutuzov chỉ thấy có một điều là không hề có một khả năng vật
chất nào để phòng thủ Moskva, mà cái nghĩa trọn vẹn nhất của chữ này,
nghĩa là đến cái mức mà giả sử có một vị tổng tư lệnh điên rồ nào ra
lệnh xung trận, thì sẽ xảy ra một tình trạng hỗn loạn ghê gớm rốt cục
trận đánh sẽ vẫn không diễn ra. Trận đánh sẽ không diễn ra bởi vì tất cả
chỉ huy cao cấp không những đều cho rằng địa thế này không thể nào giữ
được, mà trong khi nói chuyện họ lại chỉ bàn đến những việc sẽ xảy ra
sau khi rút quân ra trận địa, trong khi chính họ cho rằng trận địa ấy
không sao giữ nổi? Các sĩ quan chỉ huy cấp dưới, và ngay cả quân lính
nữa (họ cũng biện luận), đều cho rằng vị trí này không thể giữ được, cho
nên họ không thể chiến đấu trong khi đang tin chắc là sẽ thất bại. Nếu
Benrigxen nằng nặc đòi giữ vị trí này và có những người còn bàn về
chuyện ấy, thì vấn đề tự bản thân nó cũng chẳng còn có ý nghĩa nào nữa,
mà chỉ là một cái cớ để gây gổ và kèn cựa nhau thôi.
Những điều đó Kutuzov hiểu cả.
Benrigxen, người đã chọn vị trí này, hăng hái phô trương lòng ái
quốc Nga la tư của mình (mỗi lần nghe cái giọng ái quốc này Kutuzov
không thể không cau mặt) và khăng khăng đòi giữ Moskva. Kutuzov thấy rõ
như ban ngày cái thầm ý của Benrigxen nếu việc phòng thủ thất bại, thì
sẽ đổ tội cho Kutuzov, là người đã đưa quân rút về đến tận dãy núi
Vorobiov mà không mở một trận nào; nếu thắng lợi thì sẽ nhận công trạng
về mình; còn nếu bị bác đi thì sẽ trút bỏ được trách nhiệm vể tội bỏ
Moskva. Nhưng bấy giờ vị tướng già không bận tâm nghĩ đến những mánh
khoé ấy. Ông còn mải nghĩ đến một vấn đề duy nhất và đáng sợ. Mà vấn đề
đó thì ông chẳng nghe ai đưa ra một lời giải đáp nào cả. Bây giờ đối với
ông chỉ có một vấn đề là: có phải chính ông ta đã để cho Napoléon tiến
tận đến Moskva, và ta đã làm việc đó từ lúc nào? Việc đó được định đoạt
từ lúc nào?
Phải chăng từ hôm qua, khi ta ra lệnh cho Plotov rút lui, hay là
từ chối ngày hôm kia, khi ta ngủ gật và ra cho Benrigxen tuỳ tiện xử
trí? Hay là từ trước nữa?. Nhưng cái việc khủng khiếp ấy định đoạt từ
bao giờ, từ bao giờ? Thế nào cũng phải bỏ Moskva. Quân đội phải rút lui,
ta phải ra lệnh rút lui". Ông có cảm tưởng là cái lệnh kinh khủng này
cũng chẳng khác nào từ bỏ chức vụ chỉ huy quân đội. Thế nhưng, không
những ông thích quyền hânh và đã quen với quyền hành (hồi ông phục vụ ở
Thổ Nhĩ Kỳ, danh vọng của công tước Prozorovxki làm cho ông bực tức),
ông lại còn tin tin chắc rằng mình là con người tiến định để cứu nước
Nga. và chỉ vì vậy mà ông ta đã được cử làm tổng tư lệnh theo ý nguyện
của nhân dân và trái với ý nguyện của Sa hoàng. Ông tin chắc rằng trong
hoàn cảnh khó khăn này chỉ có một mình ông có thể cầm đầu quân đội, rằng
trong thiên hạ chỉ có một mình ông có thể không run sợ khi phải đương
đầu với tướng Napoléon bách chiến bách thắng kia; và ông thấy kinh hãi
khi nghĩ đến cái lệnh mà ông buộc lòng phải ban ra. Nhưng phải quyết
định một cái gì chứ, phải chấm dứt những cái chuyện bàn tán ở xung quanh
đi: những câu chuyện đó đã bắt đầu quá tự do.
Ông gọi các vị tướng thâm niên nhất lại, nói:
- Trí óc của tôi, dù khôn dù dại, cũng chỉ biết mong chờ vào mình nữa mà thôi!
Ông vừa nói vừa đứng dậy ra xe đi về Fili.
hết: Chương - 3 -, xem tiếp: Chương - 4 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 EmptyWed Jan 05, 2011 9:34 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XI

Chương - 4 -

Trong một căn nhà gỗ rộng rãi, căn nhà đẹp nhất của bác mu-gich Andrey
Xovoxtyanov. Lúc hai giờ có phiên họp hội đồng quân sự. Bao nhiêu đàn
ông đàn bà và trẻ con trong cái gia đình nông dân đông đúc ấy đều chen
chúc cả trong gian nhà phụ sát phòng ngoài.
Chỉ có một mình con bé Malasa, đứa cháu gái lên sáu của bác Andrey
vừa được đức ông âu yếm vuốt ve và cho một miếng đường khi dùng trà, là ở
lại trong gian nhà lớn. Ngồi trên lò sưởi, Malasa bẽn lẽn và vui mừng
ngắm nghía mặt mày, quân phục và huân chương của các vị tướng bấy giờ
đang lần lượt bước vào nhà và ngồi lên mấy chiếc ghế dài rộng rãi đặt ở
góc thờ, dưới các tượng thánh. Còn ông cụ (Malasa thầm gọi Kutuzov như
vậy) thì ngồi riêng ra, trong các góc tối bên lò sưởi. Ông ngồi thụt sâu
vào chiếc ghế bành xếp đằng hắng luôn mồm và xốc mãi chiếc cổ áo tuy đã
mở phanh ra nhưng vẫn có vẻ như đang chẹn ngang cổ. Những người mới vào
lần lượt đến chào vị thống soái, và có người thì ông bắt tay, có người
thì ông gật đầu chào lại. Viên sĩ quan phụ tá Kaixarov định vén bức màn
trên cửa sổ, cạnh chỗ Kutuzov ngồi, nhưng ông giận dữ khoát tay một cái,
và Kaixarov hiểu rằng đức ông không muốn cho ai trông thấy mặt mình.
Chung quanh chiếc bàn gỗ mộc mạc đặt đầy những bản đồ, giấy má, bút
chì, có nhiều người đứng đến nỗi những người lính hầu phải mang thêm
một chiếc ghế dài đến đặt bên bàn. Ba người mới đến là Yermolov,
Kaixadov và Toll ngồi xuống chiếc ghế ấy. Ngay phía dưới các bức ảnh
thánh, Barclay de Tolly ngồi ở chỗ danh dự, cổ đeo huân chương Georges,
khuôn mặt xanh xao ốm yếu, vầng trán cao lẫn với mái đầu hói. Đã hai
ngày nay ông ta bị sốt, và lúc bấy giờ ông cứ run từng cơn. Ngồi cạnh
ông ta là Uvatov, đang nói khẽ lúc bấy giờ (mọi người đều nói khẽ) với
Barclay điều gì, lay hoa lên lia lịa. Tướng Dokhturov người bé nhỏ và
tròn trĩnh, lông mày giương cao, hai tay đặt trong bụng, đang chăm chú
lắng nghe.
Ở phía bên kia, bá tước Oxtemlan Toletoy hai tay chống đầu, khuôn
mặt rộng có những đường nét táo bạo và đôi mắt sáng quắc, đang ngồi im
có vẻ trầm ngâm suy nghĩ. Raievxki, vẻ sốt ruột, lấy tay vê mớ tóc đen
láy phủ lên thái dương với một cử chỉ quen thuộc. khi thì nhìn Kutuzov,
khi thì nhìn ra cửa. Khuôn mặt rắn rỏi, tuấn tú và hiền hậu của
Konovnitxyn sáng bừng lên trong một nụ cười dịu dàng và ranh mãnh. Ông
ta bắt gặp mắt Malasa đang nhìn lại liền nháy mắt ra hiệu, khiến cho con
bé mỉm cười.
Mọi người đang chờ đợi Benrigxen, bấy giờ đang lấy cớ là đi xem
xét lại địa thế để ăn nốt bữa ăn chiều ngon lành. Họ đợi ông ta, từ bốn
đến sáu giờ, và suốt trong thời gian đó không thảo luận gì chỉ khe khẽ
nói chuyện riêng.
Mãi đến khi Benrigxen bước vào nhà gỗ, Kutuzov mới từ trong góc nhích
ghế đến gần bàn, những vẫn chú ý ngồi sao cho ánh sáng của mấy ngọn nến
vừa đặt trên bàn đừng soi vào mặt.
Benrigxen khai mạc cuộc hội nghị bằng một câu hỏi: "Nên bỏ thủ đô
thiêng liêng và cổ kính của nước Nga hay nên cố giữ lấy?"
Tiếp theo đó mọi người đều im lặng một hồi lâu. Tất cả các gương
mặt đều cau lại, và trong không khí im lặng có thể nghe rõ tiếng ho hắng
và tiếng hừ hừ bọc dọc của Kutuzov. Mắt mọi người đều đổ dồn về phía
ông ta. Malasa cũng nhìn ông cụ của nó. Nó ngồi gần ông hơn cả và thấy
rõ mặt ông đang nhăn nhó: hệt như ông sắp khóc. Nhưng đều đó chỉ thoáng
trong một lát.
- Thủ đô thiêng liêng và cổ kính của nước Nga - Kutuzov bỗng nói, giọng
bực tức, ông nhắc lại lời của Benrigxen, khiến cho mọi người rõ cái
giọng giả dối của câu này. - Thưa đại nhân, xin đại nhân cho phép tôi
thưa rằng câu hỏi đó đối với một người Nga không có nghĩa gì cả. (ông
chồm cả cái thân hình nặng nề của mình ra phía trước). Đó là một câu hỏi
không thể đặt ra được một câu hỏi vô nghĩa. Sở dĩ tôi mời các ngài đây
đến họp là để giải quyết một vấn đề khác, một vấn đề quân sự. Vấn đề đó
như sau: "Cứu tinh của nước Nga là quân đội. Khởi chiến để rồi có cơ mất
cả quân đội lẫn Moskva lợi hơn, hay là bỏ Moskva không khởi chiến lợi
hơn? Đây, tôi muốn biết được ý kiến của các ngài về vấn đề đấy". (ông
ngả người ra phía sau dựa vào lưng ghế).
Cuộc tranh luận bắt đầu. Benrigxen chưa chịu thua. Tuy vẫn chấp nhận
ý kiến của Barclay và của một số người khác rằng không thể mở một trận
chiến dấu phòng ngự ở Fili được, nhưng ông ta vì quá thấm nhuần lòng ái
quốc Nga và vì quá yêu Moskva nên đề nghị đang đêm điều quân từ sườn
phải sang sườn trái và đến hôm sau đánh mạnh vào cánh phải của quân
Pháp. Ý kiến các tướng chia làm hai phe, phe thì bênh vực phe thì phản
đối. Yermolov, Dokhturov và Raievexki đứng về phía Benrigxen.
Không biết vì họ cảm thấy phải hy sinh ít nhiều trước khi rời bỏ
thủ đô, hay vì những lý do riêng nào khác, nhưng các vị tướng ấy đường
như không hiểu rằng phiên họp hội đồng này không thể nào thay đổi được
hướng diễn biến tất yếu của sự việc và ngay từ bây giờ Moskva đã bị bỏ
ngỏ rồi. Các vị tướng khác đều hiểu rõ điều đó, nên gác vấn đề Moskva
sang một bên và bàn đến hướng đi của quân đội khi rút lui. Malasa chăm
chú theo dõi những việc đang diễn ra trước mắt nó: nó hiểu ý nghĩa của
phiên họp hội đồng này một cách khác. Nó tưởng rằng đây chỉ là một cuộc
cãi vã riêng giữa "ông cụ" và "cái ông mặc áo vạt dài kia". Nó thấy hai
người có vẻ rất hằn học khi nói với nhau, và trong khi lòng nó đứng về
phía ông cụ: Giữa chừng cuộc tranh cãi, nó để ý thấy anh cụ đưa nhanh về
phía Benrigxen một cái nhìn ranh mãnh, rồi nó lại vui mừng nhận thấy
ông cụ nói một câu gì làm cho cái "ông mặc áo vạt dài" kia rất bẽ:
Benrigxen đề nghị nhằm chuyển quân từ sườn phải sang sườn trái để tấn
công cánh hữu của quân Pháp.
Giọng bình tĩnh và nhẹ nhàng. Kutuzov nói:
- Thưa các ngài, tôi không thể tán thành kế hoạch của bá tước đại nhân
đây được. Chuyển quân ở sát cạnh quân địch bao giờ cũng nguy hiểm, lịch
sử quân sự đã xác minh điều đó. Chẳng hạn… (Kutuzov làm ra vẻ như đang
ngẫm nghĩ để tìm một dẫn chứng, mắt đưa về phía Benrigxen một cái nhìn
trong sáng và ngây ngô). Ta, ta hẵng cứ lấy trận Fridland chẳng hạn, tôi
chắc trận này thì bá tước nhớ rõ lắm; kết quả trận này không được… mỹ
mãn cho lắm chỉ vì quân ta bố trí lại trong khi đang ở gần quân địch
quá… - Tiếp theo là một phút im lặng mà mọi người đều có cảm giác là rất
dài.
Cuộc tranh luận lại tiếp diễn, nhưng chốc chốc lại có những
khoảng im lặng, và mọi người đều cảm thấy chẳng có gì để mà nói nữa.
Trong một khoảng im lặng như thế, Kutuzov thở dài một tiếng nặng
nề như sắp nói điều gì. Mọi người đều nhìn về phía ông ta.
- Ấy thế thưa các ngài! Tôi biết rằng cốc vỡ thì chính tôi phải đền -
Kutuzov nói, đoạn chậm rãi đứng dậy và bước lại gần bàn. - Thưa các
ngài, tôi đã được nghe ý kiến của các ngài. Trong số các ngài sẽ có
những người không đồng ý với tôi. Nhưng tôi… (ông dừng lại một lúc) xin
sử dụng cái quyền hạn - mà hoàng thượng và tổ chức giao cho tôi, tôi ra
lệnh lui quân. - Các tướng bắt đầu giải tán với cái vẻ thận trọng, lặng
lẽ và trang nghiêm như khi người ta giải tán sau một đám tang.
Vài viên tướng đến nói khẽ với vị tổng tư lệnh điều gì, giọng nói khác hẳn khi họ thảo luận trong phiên họp hội đồng.
Malasa, đáng lẽ phải về ăn tối từ lâu, thận trọng trườn từ trên
giàn lò xuống, đôi chân bé nhỏ để trần bám vào những cái u trên lò sưởi
và luồn qua chân các vị tướng mà chạy ra cửa.
Sau khi các tướng đã ra về, Kutuzov vẫn ngồi chống khuỷu tay lên bàn hồi
lâu. Ông vẫn nghĩ tới cái vấn đề kinh khủng ấy: "Việc bỏ ngỏ Moskva đã
được định đoạt từ lúc nào? Cái việc có tác dụng quyết định vấn đề này đã
xảy ra từ lúc nào? Ai là người có lỗi trong việc này?"
Đêm đã khuya. Khi viên sĩ quan phụ tá Snaider bước vào phòng, Kutuzov nói với ông ta:
- Thật không ngờ, thật tôi không ngờ như vậy? Tôi không thể ngờ!
Snaider nói:
- Thưa đại nhân, ngài cần nghỉ ngơi một chút.
Kutuzov không đáp, dang nắm tay phốp pháp đặt lên bàn quát dập lên bàn quát:
- Ồ không đâu! Rồi chúng nó sẽ phải ngốn thịt ngựa như bọn Thổ Nhĩ Kỳ, chúng nó sẽ phải ăn cho mà xem, miễn là…
hết: Chương - 4 -, xem tiếp: Chương - 5 - 6-
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 EmptyWed Jan 05, 2011 9:34 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XI

Chương - 5 - 6-


Cùng lúc ấy, trong một sự kiện còn quan trọng hơn việc rút quân không chiến đấu, là việc bỏ ngỏ và đốt cháy Moskva.
Raxtovsin, mà chúng ta xem là người chỉ đạo sự việc này, đã hành động trái hẳn với Kutuzov.
Sự việc ấy - bỏ ngỏ và đốt cháy Moskva - cũng tất yếu như việc rút quân về phía sau Moskva, không đánh trận nào.
Mỗi người Nga, không phải trên cơ sở suy luận, mà trên cơ sở cái
tình cảm vẫn sống trong lòng chúng ta và trong lòng cha ông chúng ta,
chắc cũng đã tiên đoán được những điều ấy diễn ra.
Bắt đầu từ Smolensk trong tất cả các thành phố và làng mạc của đất
nước Nga, không hề có sự tham dự của bá tước Raxtovsin và những lời
tuyên cáo của ông ta, thế mà sự việc đều diễn ra đúng như ở Moskva. Nhân
dân điềm tĩnh đợi quân thù đến, không nổi loạn, không nhốn nháo, không
hành hung người nào cả. Họ bình tĩnh chờ đợi vận mệnh, cảm thấy rằng đến
giờ phút khó khăn nhất họ sẽ có thể biết rõ mình phải làm gì, và hễ
quân địch gần đến nơi, là những người giàu có nhất trong dân cư bỏ đi,
để của cải lại; những người nghèo nhất thì ở lại, phá huỷ và đốt cháy
những gì còn sót.
Trong tâm hồn của người Nga, xưa kia cũng như bây giờ, đều có ý
thức rằng sự thể sẽ như thế nào, và bao giờ cũng vẫn như thế. Và cả xã
hội Nga ở Moskva năm 1812 đều có ý thức đó, hơn nữa, còn có cái tình cảm
rằng Moskva bị chiếm. Những người đang lục tục rời bỏ Moskva ngay từ
tháng bảy và đầu tháng tám đã chứng tỏ rằng họ đã đoán trước việc đó.
Khi ra đi với những thứ có thể vơ theo, bỏ nhà cửa và một nửa tài sản,
họ hoạt động theo một lòng yêu nước tiềm tàng, một lòng yêu nước không
biểu lộ bằng lời nói, bằng việc hy sinh con cái để dâng lên bàn thờ tổ
quốc hay những hoạt động giả tạo tương tự thế, mà là một lòng yêu nước
bộc lộ ra một cách thầm lặng, đơn giản hữu cơ và vì vậy bao giờ cũng có
những kết quả rất mạnh.
"Chạy trốn trước nguy cơ là một điều đáng hổ thẹn: chỉ có những kẻ
hèn nhát mới bỏ Moskva và chạy trốn" - người ta bảo vậy. Trong các tờ
tuyên cáo, Raxtovsin cũng gợi ý cho họ thấy rằng rời bỏ Moskva là nhục
nhã. Họ rất hổ thẹn khi phải nhận cái danh hiệu là kẻ hèn nhát, họ rất
hổ thẹn khi phải ra đi, nhưng họ vẫn cứ ra đi, vì biết rằng cần phải làm
như vậy. Tại sao họ phải ra di? Không thể nói rằng họ khiếp sợ vì tin
lời Raxtovsin kể lại về những chuyện kinh khủng mà Napoléon đã làm trong
các vùng bị chinh phục. Họ ra đi, và những người ra đi trước nhất là
những người giàu sang, có học thức, vốn biết rất rõ ràng Viên và Berlin
vẫn nguyên vẹn và khi Napoléon chiếm đóng hai thành này thì dân cư ở đây
sống rất vui vẻ với người Pháp, những con người rất có duyên mà thời ấy
người Nga rất thích, nhất là phụ nữ Nga.
Họ ra đi vì đối với người Nga không thể có vấn đề: dưới quyền cai
trị của Pháp thì ở lại Moskva sướng hay khổ. Dưới quyền cai trị của Pháp
thì không thể nào sống được: đó là điều tệ hơn cả. Trước trận Borodino
họ đã bỏ đi, và sau trận Borodino họ còn bỏ đi nhanh chóng hơn nữa, bất
chấp những lời kêu gọi phòng thủ, bất chấp những lời tuyên bố của quan
tư lệnh Moskva là sẽ rước ảnh Đức Bà Iverya ra đánh giặc, bất chấp những
quả khinh khí cầu mà người ta định dùng để tiêu diệt quân Pháp và bất
chấp tất cả những lời lẽ nhảm nhí mà Raxtovsin viết trong các bản tuyên
các của ông ta.
Họ biết rằng quân đội có nhiệm vụ phải chiến đấu, và một khi quân
đội đã không làm được việc đó thì không thể đem các cô tiểu thư cùng các
gia nhân lên khu Trigorư đánh nhau với Napoléon được, cho nên họ đành
phải bỏ đi, mặc dù rất xót xa khi phải vứt của cải lại. Họ ra đi, không
hề nghĩ đến cái ý nghĩ lớn lao của việc rời bỏ chốn thủ đô giàu có, đồ
sộ này, phó mặc nó cho mồi lửa (một thành phố lớn nhà cửa toàn bằng gỗ
mà dân cư bỏ đi thì thế nào cũng phải cháy); mỗi người ra đi như vậy vì
bản thân mình, nhưng đồng thời chỉ riêng việc họ bỏ đi thôi cũng đã làm
nên cái sự kiện lớn lao mãi mãi sẽ là sự kiện vẻ vang nhất của dân tộc
Nga. Một bà lớn đã cùng mấy người đầy tớ da đen và mấy anh hề rời Moskva
đi về vùng quê Xaratov từ hồi tháng sáu, với một ý thức mơ hồ là mình
không thể ở lại làm đầy tớ cho Bonaparte vừa đi vừa sợ bị chặn lại giữa
đường theo lệnh của bá tước Raxtovsin, con người cũng có lúc thoá mạ
những ai bỏ đi, đã có lúc cho các cơ quan hành chính phân tán ra ngoài
thành, đã từng phát những vũ khí không còn dùng được nữa cho kẻ say
rượu, đã từng cho dỡ các tượng thánh ra, đã có lúc cấm cha Auguxtin đưa
các thánh tích và các ảnh tượng ra khỏi Moskva, đã từng sung công tất cả
các xe tải của tư nhân, đã dùng một trăm ba mươi sáu chiếc xe tải chở
quả kinh khí cầu do Leppich làm ra, lại đã từng nói bóng gió rằng mình
sẽ đốt cháy Moskva, đã từng kể lại rằng mình đã đốt nhà riêng và đã thảo
ra một bản tuyên cáo gửi cho quân Pháp, long trọng trách móc họ đã phá
mất cái cô nhi viện của mình, đã từng đứng ra nhận lấy cái vinh quang
của việc đốt Moskva, rồi lại chối rằng mình không làm việc đó, đã ra
lệnh cho nhân dân bắt hết bọn do thám giải đến cho mình, rồi lại trách
móc nhân dân đã làm theo lệnh ấy, đã trục xuất tất cả các Pháp kiều ra
khỏi Moskva. nhưng lại để bà Ober Salme ở lại thành phố, trong khi bà ta
là trung tâm của cái xã hội Pháp ở Moskva, đồng thời lại vô cớ ra lệnh
bắt và đày biệt xứ viên giám đốc bưu chính Klustarev, một con người già
cả và đáng kính, đã từng triệu tập dân chúng lên khu Trigorư đánh nhau
với Pháp, rồi để thoát khỏi đám dân chúng này, lại ẩy ra một người để
cho họ đánh chết còn mình thì chuồn ra cửa sau, đã có lúc nói rằng
Moskva mà rơi vào tay giặc thì mình cũng không sống sót lại làm gì, đã
từng viết vào album những câu thơ bằng tiếng Pháp để chứng tỏ rằng mình
tham gia vào việc này - con người đó không hiểu được ý nghĩa của sự việc
xảy ra, lại cứ muốn tự mình làm một việc gì, muốn tự làm cho mọi người
ngạc nhiên, muốn hoàn thành một cái gì cho thật xứng đáng với một trang
anh hùng cứu quốc, và như một đứa trẻ con, người đó chơi đùa với những
biến cố lớn iao và tất yếu là việc bỏ ngỏ và đốt cháy Moskva, và cứ đưa
bàn tay nhỏ bé của mình ra, khi thì thúc dẩy, khi thì ngăn chặn luồng
nước lũ ồ ạt của nhân dân đang cuốn mình theo.

6.
Khi cùng với triều đình từ Vilna trở về Petersburg, Elen lâm vào một tình cảm gay go khó xử.
Ở Petersburg, Elen được một vị đại thần vào bậc nhất trong nước đặc
biệt che chở cho. Còn ở Vilna thì nàng lại kết thân với một hoàng thân
ngoại quốc trẻ tuổi. Khi nàng trở về Petersburg thì vị hoàng thân và vị
đại thần đều đang ở đấy, cả hai đều đòi hưởng quyền được nàng chiếu cố,
thế là Elen đứng trước một bài tính chưa từng gặp trên bước đường sự
nghiệp của nàng: làm thế nào để duy trì quan hệ gần gũi với cả hai
người, mà không ngưòi nào phật ý.
Cái việc mà một người đàn bà khác sẽ thấy là một khó khăn và thậm
chí không thể nào làm được nữa, thì lại chẳng hề khiến bá tước phu nhân
Bezukhov phải bận tâm suy nghĩ gì: rằng được tiếng là người đàn bà thông
minh nhất, hẳn cũng không phải là không có căn cứ. Giả sử nàng giấu
giếm các hành tung của mình, cố dùng mưu mẹo để thoát ra khỏi tình thế
khó khăn này thì như vậy chẳng khác nào tự mình thú tội, và câu chuyện
sẽ hỏng bét. Nhưng nàng không làm như vậy; ngay từ đầu, như một vĩ nhân
chân chính có khả năng thực hiện tất cả những gì mình muốn, nàng đã tự
mình đặt mình vào địa vị của người chính trực và cũng thành thật tin
rằng mình chính trực, còn bao nhiêu người khác thì nàng đặt vào địa vị
của người có lỗi.
Lần đầu tiên khi nhân vật ngoại quốc trẻ tuổi kia dám đưa lời trách
móc nàng, nàng đã kiêu hãnh cất cao mái đầu tuyệt mỹ của nàng lên, và
chỉ hơi ngoảnh về phía ông ta, nàng nói giọng rắn rỏi:
- Đấy đàn ông họ ích kỷ và tàn nhẫn như vậy đấy! Tôi cũng biết từ trước.
Đàn bà người ta hy sinh cho các ông, người ta đau khổ, thế mà các ông
đều đáp lại như thế đấy. Thưa điện hạ, ngài có quyền gì chất vấn tôi về
những tình bạn, những tình quyến luyến của tôi? Người đó đối với tôi còn
hơn là người cha.
Nhân vật kia định nói lại một câu gì, nhưng Elen đã chặn lời nói tiếp:
- Phải, có thể đối với tôi, ông ta còn có những tình cảm khác hơn là
tình cảm của một người cha, nhưng đó không phải là một lý do để tôi cấm
cửa ông la. Tôi có phải là đàn ông đâu mà vong ân bội nghĩa như lậy. Xin
điện hạ biết cho rằng về tất cả những gì liên quan đến tình cảm sâu kín
của tôi thì chỉ có Thượng đế và lương tâm tôi chứng giám! - nàng kết
luận, tay đặt nhẹ lên bộ ngực đẹp đẽ đang phập phồng nâng cao, mắt ngước
nhìn trời.
- Nhưng xin phu nhân nghe tôi nói đã, tôi van phu nhân.
- Ngài hãy kết hôn với tôi đi, rồi tôi sẽ là nô lệ của ngài.
- Nhưng không thể được.
- Ngài không thèm hạ cố đến tôi, ngài… Elen vừa khóc vừa nói.
Nhân vật kia ra sức an ủi nàng: còn Elen thì vừa khóc sụt sùi vừa
nói như đã mất hết tự chủ, rằng không còn gì để ngăn trở nàng đi lấy
chồng, rằng có nhiều trường hợp hồi ấy cũng chưa có được mấy trường hợp,
nhưng nàng vẫn kể được Napoléon và một vài nhân vật quyền quý khác;
nàng nói nàng chưa bao giờ là người vợ thật sự của chồng nàng, rằng nàng
đã bị đưa ra làm vật hy sinh.
- Nhưng còn luật pháp, tôn giáo… - Nhân vật kia nói, trong lòng đã thấy xiêu xiêu.
- Pháp luật, tôn giáo… Những thứ đó bày ra để làm gì, nếu không phải là để thu xếp những chuyện như thế này? - Elen nói.
Nhân vật quan trọng kia ngạc nhiên, không hiểu sao một điều suy luận đơn
giản như thế mà mình lại không nghĩ ra, bèn đến hỏi ý kiến của dòng tu
sĩ Gia-tô(1) mà ông vẫn có quan hệ mật thiết.
Sau đó ít hôm, vào một buổi dạ hội rất nhã thú mà Elen tổ chức trong
biệt thự của nàng ở Jamenny Oxtrov, người ta giới thiệu nàng cho một
người đứng tuổi rất có duyên, tóc trắng như tuyết, măt đen và sáng: đó
là ông De Jober, một tu sĩ dòng Gia-tô mặc áo ngắn.
Trong khu vườn của toà biệt thự, dưới ánh đèn lồng và trong tiếng nhạc,
ông ta đã nói chuyện rất lâu với Elen về lòng kính yêu Đức Chúa trời,
kính yêu đấng Cơ đốc, kính yêu trái tim đức thánh của Đức mẹ Chúa trời,
và về những niềm an ủi mà chỉ có một chân lý duy nhất có thể đưa lại cho
ta trong cuộc sống hiện tại và cuộc sống sau này: chân lý của Công
giáo(2) - Elen nghe nói rất cảm động, và đã mấy lần nàng và ông De Jober
mắt đều rớm lệ và giọng nói run run.
Một khách đến mời Elen nhảy khiến cho câu chuyện giữa Elen và người chỉ
đạo lương tâm của nàng phải tạm ngừng; nhưng tối hôm sau ông De Jober
lại đến một mình gặp Elen và từ đấy cứ đến thăm nàng luôn.
Một hôm ông ta dẫn bá tước phu nhân vào nhà thờ công giáo; nàng
quỳ xuống trước bàn thờ. Người Pháp đứng tuổi rất có duyên kia để tay
lên đầu nàng, và về sau này nàng kể lại rằng lúc ấy nàng có cảm giác như
một làn gió mát rượi thổi vào tâm hồn. Người ta giảng giải cho nàng
hiểu đó là phước lành.
Rồi người ta dẫn đến cho nàng một giáo sĩ mặc áo chùng. Vị giáo sĩ nghe
nàng xưng tội và rửa sạch tội lỗi cho nàng. Ngày hôm sau họ mang lại cho
nàng một cái tráp đựng mình thánh và để lại cho nàng dùng lại gia. Được
mấy hôm Elen thích thú được biết rằng bây giờ mình đã gia nhập giáo hội
công giáo, giáo hội chân chính, và nay chính là giáo hoàng sẽ biết đến
trường hợp nàng, sẽ gửi cho nàng một thứ văn kiện gì đấy.
Tất cả những việc diễn ra ở xung quanh nàng và có nàng tham dự, tất cả
sự chăm sóc của những con người thông minh như vậy đối với nàng, một sự
chăm sóc biểu lộ dướí những hình thức thật dễ chịu, tinh tế, và cái
trạng thái trong sạch như chim bồ câu trắng của nàng bây giờ (suốt thời
gian nàng mặc toàn đồ trắng, thắt dải trắng), tất cả những điều đó làm
nàng thích thú: nhưng không giây phút nào nàng vì sự thích thú đó mà sao
nhãng mục đích của nàng.
Về mưu mẹo thì thường người ngu vẫn lừa được người khôn hơn mình,
do đó nàng hiểu rằng mục đích của tất cả những lời lẽ, những việc lo
toan ấy chủ yếu để nàng theo công giáo rồi quyên tiền của nàng cho các
tổ chức của dòng Gia-tô (người ta cũng nói xa nói gần với nàng về việc
này). Trước khi có tiền, Elen một mực đòi họ phải tiến hành những thủ
tục cần thiết để giải thoát nàng khỏi cuộc hôn nhân cũ. Trong quan niệm
của nàng, ý nghĩa của bất cứ tôn giáo nào cũng thế, chẳng qua là làm thế
nào giữ được một số nghi thức bề ngoài cho tươm tất trong khi thoả mãn
những dục vọng của con người. Và với mục đích ấy, trong một buổi nói
chuyện với một vị giáo sĩ nàng một mực đòi ông ta phải cho nàng biết rõ
cuộc hôn nhân cũ của nàng có thể ràng buộc nàng đến mức nào.
Họ đang ngồi trong phòng khách, bên cạnh cửa sổ. Trời sâm sẩm tối. Từ
cửa sổ đưa vào những mùi hoa thơm ngát. Elen mặc áo đài trắng, ngực và
hoa thêu rua. Vị giáo sĩ là một người béo tốt phương phi, râu cạo nhẵn,
có cái miệng rắn rỏi dễ yêu và hai bàn tay trắng trẻo đặt lên đầu gối
một cách rất hiền lành, ngồi gần sát Elen và môi mỉm cười một nụ cười tế
nhị, chốc chốc lại nhìn khuôn mặt nàng, cái nhìn tán thưởng một cách
điềm tĩnh sắc đẹp của nàng, và trình bày cho nàng nghe quan điểm của ông
ta về vấn đề đang khiến hai người quan tâm. Elen mỉm cười băn khoăn,
đưa mắt nhìn bộ tóc quăn và đôi má phinh phính cạo nhẵn có ánh biêng
biếc của ông ta và từng phút chờ đợi ông ta đổi hướng câu chuyện. Nhưng
vị giáo sĩ mặc dầu có vẻ rất hân thưởng sắc đẹp của người tiếp chuyện,
vẫn say sưa với cát nghệ thuật điêu luyện của mình trong những công việc
như thế này.
Lý luận của vị chỉ đạo lương tâm là như sau: vì không hiểu rõ ý nghĩa
của việc mình làm, phu nhân đã phát thệ làm người vợ trung thành của một
người; nhưng người này, vì trong khi kết hôn không tin vào ý nghĩa tôn
giáo của hôn nhân, đã phạm tội báng bổ. Cuộc hôn nhân đã không có được
cái ý nghĩa hai mặt mà lẽ ra nó phải có. Nhưng tuy thế, lời thề của phu
nhân vẫn ràng buộc phu nhân. Phu nhân đã vi phạm lời thề ấy. Làm như vậy
có phạm tội gì Tội nhẹ hay tội trọng? Tội nhẹ, là bởi vì trong khi làm
như vậy phu nhân không có ý định gì xấu. Nếu bây giờ, vì muốn có con,
phu nhân bước đi bước nữa, thì tội của phu nhân có thể tha thứ được.
Nhưng vấn đề lại tách ra làm hai: thứ nhất là…
- Nhưng tôi thiết tưởng. - Elen nghe đã thấy chán bỗng nói xen, với nụ
cười mê hồn của nàng, - tôi thiết tưởng rằng sau khi đã theo một tôn
giáo chân chính thì tôi không còn bị một tôn giáo sai lầm ràng buộc nữa.
Vị chỉ đạo lương tâm kinh ngạc trước cách đặt vấn đề đơn giản như
chuyện dựng đứng quả trứng của Colombo(3) đó. Ông ta rất thán phục sự
tiến bộ nhanh chóng không ngờ của cô học trò, nhưng cũng không thể từ bỏ
toà lâu đài luận chứng mà ông đã dầy công bóp óc xây dựng nên.
- Chúng ta phải thoả thuận với nhau mới được, bá tước phu nhân ạ, - và
ông ta bắt đầu phản bác những lý luận cuả người con gái tinh thần của
ông ta.

Chú thích:
(1) Một dòng tu sĩ công giáo thành lập vào thế kỷ XVI một công cụ đắc
lực của Giáo hoàng để chống lại phái cải cách và các lực lượng tiến bộ
khác. Vốn chủ trương rằng "mục đích biện hộ cho phương tiện", dòng này
dùng những biện pháp tôn giáo để tổ chức do thám ám sát và hủ hoá
(2) Cơ đốc giáo (Christianisme) gồm có nhiều tôn giáo khác nhau trong đó
có công giáo (catholisme) của một số nước Tây Âu và Chính giáo
(orthodoxie), tôn giáo của người Nga.
(3) Quả trứng của Columbo thường dùng để chỉ những sáng kiến hay và đơn giản nhưng không ai nghĩ đến
hết: Chương - 5 - 6-, xem tiếp: Chương- 7 - 8 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 EmptyWed Jan 05, 2011 9:34 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XI

Chương- 7 - 8 -


Elen hiểu rõ rằng theo quan điểm Giáo hội mà nói thì vấn đề này rất
đơn giản và dễ giải quyết, nhưng sở dĩ những người chỉ đạo cho nàng làm
khó dễ như vậy chỉ là vì họ lo sợ không biết rồi chính quyền thế tục(1)
sẽ có thái độ như thế nào đối với việc này.
Cho nên Elen quyết định rằng cần phải chuẩn bị dư luận cho việc này
mới xong. Nàng kiếm cách làm cho lão đại thần phát ghen lên và cũng nói
với ông ta đúng như đã nói với nhân vật kia, nghĩa là nàng đặt câu đề
thế nào để cho ông ta nói với nhân vật kia, nghĩa là nàng đặt vấn đề thế
nào để cho ông ta thấy rằng chỉ còn cách cưới nàng làm vợ thì mới có
thể có quyền đối với nàng được. Thoạt tiên nhân vật già này thấy nàng
nói đến việc kết hôn trong khi chồng nàng hãy còn sống thì cũng lấy làm
kinh ngạc không kém gì nhân vật trẻ kia; nhưng Elen có vẻ tin tưởng chắc
chắn như bàn thạch rằng việc này cũng đơn giản và tự nhiên như việc một
cô gái đi lấy chồng, nên ông ta cũng thấy xiêu lòng. Giá Elen có một
dấu hiệu cỏn con nào tỏ ra lưỡng lự, ngượng ngùng hay e ấp, thì công
chuyện của nàng chắc chắn là mười phần thất bại: nhưng chẳng những nàng
không hề có lấy một dấu hiệu nào tỏ ra e ấp và ngượng ngùng, mà trái
lại, nàng còn kể lại một cách ngây thơ, tự nhiên và hiền lành với các
bạn thân (tức là tất cả thành phố Petersburg), rằng cả vị hoàng thân và
vị đại thần đều ngỏ lời cầu hôn với nàng, rằng nàng yêu cả hai người và
sợ mất lòng cả hai.
Lập tức có tin đồn lan ra khắp thành Petersburg - nhưng không phải
là tin Elen muốn ly hôn với chồng (nếu như vậy thì đã có rất nhiều người
phản đối cái ý định phi pháp này), mà lại là tin đồn trực tiếp rằng
nàng Elen phong nhã và bất hạnh đang có điều phân vân khó xử là trong
hai nhân vật kia không biết nên lấy ai bây giờ. Vấn đề bây giờ không còn
là ở chỗ việc này hợp pháp đến mức nào, mà chỉ là ở chỗ đám nào hời hơn
và triều đình sẽ nhìn nhận việc này ra sao. Quả tình cũng có một số
người cố chấp không đủ năng lực để hiểu rõ vấn đề và cho rằng ý định này
là một sự báng bổ đối với thể chế hôn nhân thiêng liêng; nhưng những
người như thế thì rất ít, họ lại im lặng, còn số đông chỉ chú ý đến
những vấn đề quay xung quanh cái hạnh phúc mà Elen đã tìm và chỉ băn
khoăn cho nàng không biết chọn đám nào hơn. Còn về chuyện chồng còn sống
mà bước đi bước nữa là tốt hay xấu, thì họ không nói đến, bởi vì vấn đề
này hẳn là được giải quyết rồi đối với những người thông minh hơn anh
và tôi (như người ta vẫn nói), và nếu tỏ ra hoài nghi về cách giải quyết
vấn đề có tốt hay không thì nhỡ ra một cái có thể tỏ rằng mình ngu ngốc
và không biết cách sống ở đời.
Chỉ có một mình bà Maria Dmitrievna mùa hè năm ấy về Petersburg để
gặp một người con trai của bà, bà dám nói thẳng ý kiến của mình ra, một ý
kiến trái ngược với công luận. Gặp Elen trong một cuộc khiêu vũ. Maria
Dmitrievna, với cái cử chỉ dữ tợn quen thuộc, xắn hai ống tay áo rộng
lên, đưa mắt nghiêm nghị nhìn nàng rồi bước ngang qua gian phòng bỏ đi.
Ở Petersburg, người ta có sợ Maria Dmitrievna thật, nhưng họ vẫn coi
bà như một người ngược đời, nên trong những câu bà vừa nói ra họ chỉ
chú ý đến cái danh từ tục tĩu kia mà họ thì thầm rỉ tai nhau, cho rằng
tất cả cái phong vị mặn mà của câu nói chỉ bao gồm trong danh từ đó.
Công tước Vaxili gần đây đặc biệt hay quên những điều mình đã nói
ra, cho nên hễ cứ gặp con gái là ông lại nhắc mãi đến hàng trăm lần, lần
nào cũng chỉ có từng ấy chuyện:
- Elen ạ, tôi có một câu chuyện cần phải nói với cô, - Vông tước Vaxili
kéo nàng ra một bên và kéo thấp tay nàng xuống. - Tôi có nghe phong
phanh là cô có những dự định về, về việc gì thì cô cũng biết đấy, con
yêu quý ạ, con cũng biết rằng lòng cha rất vui sướng khi được biết con…
Con đã đau khổ quá nhiều… Nhưng, con ạ, con chỉ nên theo tiếng gọi của
lòng con. Cha chỉ nói với con như vậy thôi! - Nói đoạn công tước Vaxili
cố che giấu nỗi xúc động (lần nào nỗi xúc động của ông cũng y hệt như
thế), áp má mình vào má cô con gái rồi bỏ đi.
Bilibin, bấy giờ vẫn nổi tiếng là con người thông minh nhất đời,
và vốn là một người bạn vô tư khảng khái của Elen, một trong số những
người bạn trai mà những người đàn bà đẹp thường vẫn có: hạng bạn trai
không bao giờ có thể chuyển sang vai trò người yêu được. Một hôm nhân
nói chuyện giữa một nhóm thân bằng cố hữu, ông ta giãi bày cho Elen rõ
quan điểm của ông ta về việc này.
- Anh Bilibin ạ. (Elen bao giờ cũng gọi những người bạn thuộc hạng
Bilibin bằng họ chứ không gọi tên riêng), - Nàng đưa bàn tay trắng nõn
đeo nhiều nhẫn khẽ chạm ống tay áo lễ phục của ông ta. - Anh hãy nói với
lôi như nói với một người em gái nhé, bây giờ tôi phải làm thế nào?
Trong hai người ấy nên chọn người nào?
Bilibin có làn da trên trán lại mỉm cười suy nghĩ một lát.
- Đây chẳng phải là một câu hỏi đột ngột gì đối với tôi đâu chị ạ! -
Bilibin nói - Với tư cách là một người bạn chân thành tôi đã suy nghĩ
lại việc của chị rồi. Thế này nhé, nếu chị lấy ông hoàng thân (ý nói
nhân vật trẻ tuổi) - ông ta gập một ngón tay lại, - thì chị mất hẳn cái
khả năng lấy được ông kia, mà lại làm cho triều đình phật ý. (Chị cũng
biết rằng ở đây có một mối liên hệ bà con thế nào đấy) Nhưng nếu chị lấy
ông bá tước già, thế rồi về sau với tư cách là quả phụ của đại thần… vị
hoàng thân kia lấy chị không còn là không môn đăng hộ đối nữa.
Nói đoạn Bilibin cho lớp da trán giãn ra.
- Như thế mới thật là một người bạn chân thành - Elen nói, vẻ mặt rạng rỡ, bàn tay lại giơ ra khẽ chạm vào ống tay áo Bilibin.
Nhưng khốn nỗi tôi yêu cả hai người, tôi không muốn làm cho họ buồn
phiền. Tôi sẵn sàng dâng cả cuộc đời cuả tôi để cho cả hai người được
hạnh phúc.
Bilibin nhún vai để tỏ ra rằng nỗi buồn phiền ấy thì đến như ông ta cũng không sao cứu chữa nổi.
"Thật là một người đàn bà cừ khôi! Như thế mới gọi là đặt vấn đề một
cách dứt khoát. Ý cô ta muốn lấy cả ba người cùng một lúc hẳn" - Bilibin
nghĩ thầm.
- Nhưng chị ạ, không biết chồng chị sẽ nhìn nhận việc này ra sao? -
Bilibin nói; vì tiếng tăm ông ta đã vững chắc cho nên mới dám hỏi một
câu ngây thơ như vậy mà không sợ mất uy tín trước mặt mọi người, - Liệu
chồng chị có thuận không?
- Ồ! Anh ấy yêu tôi lắm cơ - Elen nói, chẳng hiểu tại sao nàng có cảm
tưởng Piotr cũng yêu mình. - Vì tôi anh ấy sẽ làm bất cứ việc gì.
Bilibin co lớp da trán lại để báo hiệu rằng mình sắp nói một câu dí dỏm.
- Cả việc ly hôn nữa à? - Bilibin nói.
Elen cười.
Trong số những người dám hoài nghi tính chất hợp pháp của cuộc
hôn nhân đang dự định có công tước phu nhân Kuraghina, tức mẹ Elen. Lòng
ghen tị đối với con gái luôn luôn giày vò phu nhân mà bây giờ thì đối
tượng ghen tị lại là một điều thiết thân nhất đối với lòng phu nhân, nên
phu nhân không sao cam tâm để yên cho việc này tiến hành được. Bà đi
hỏi ý kiến một vị linh mục Nga xem tôn giáo có cho phép ly hôn và tái
giá trong khi chồng còn sống không. Vị linh mục trả lời rằng điều đó
không thể được và bà rất đỗi vui mừng khi vị linh mục chỉ cho bà xem một
đoạn Phúc âm nói hẳn ra rằng (ông ta có cảm tưởng như vậy) không thể
nào tái giá khi chồng còn sống được.
Được vũ trang bằng những luận chứng mà bà ta cho là không sao bác
bỏ được, một buổi sáng nọ công tước phu nhân vào phòng con gái thật sớm
để có thể gặp nàng một mình.
Sau khi nghe những lời khuyên răn của mẹ, Elen mỉm một nụ cười dịu dàng mà ngạo nghễ.
- Nhưng mà trong kinh Thánh có dạy là ai lấy một người đàn bà ly hôn làm vợ. - công tước phu nhân nói.
- Ôi thôi, mẹ đừng nói nhảm nữa. Mẹ chả hiểu gì cả. Ở địa vị tôi có
nhiều bổn phận phải làm - Elen nói, chuyển câu chuyện từ tiếng Nga sang
tiếng Pháp, vì khi nói tiếng Nga nàng cứ có cảm tưởng là trong công việc
của nàng có một cái gì không minh mạch.
- Nhưng cô bạn ạ….
- Ôi sao mẹ lại hiểu rằng Đức Thánh Cha người có quyền cho phép miễn…
Vừa lúc ấy tuỳ nữ ở với Elen vào gặp nàng để bảo rằng điện hạ đang ngồi ngoài phòng khách và mong được gặp nàng.
- Không, cô nói với điện hạ là tôi không muốn gặp, là tôi đang giận đức ông lắm, vì đức ông đã lỗi hẹn với tôi!
Ngay lúc ấy một người thanh niên tóc vàng, mặt dài, mũi cũng dài, bước vào nói:
- Thưa bá tước phu nhân, vạn tội, an xá!
Lão công tước phu nhân kính cẩn đứng dậy và nhún mình chào; người trẻ
tuổi mới vào không chú ý gì đến bà cả. Công tước phu nhân gật đầu chào
con gái và trang trọng đi ra cửa.
"Không, nó làm thế là phải, - lão công tước phu nhân nghĩ thầm: bây giờ
tất cả các định kiến của bà ta đều đã sụp đổ trước sự xuất hiện của điện
hạ. - Nó làm thế là phải; nhưng làm sao hồi còn trẻ ta lại không biết
nhỉ, mà tuổi trẻ có bao giờ trử lại nữa đâu? Mà làm như thế lại đơn giản
biết chừng nào", - công tước phu nhân tự nhủ khi bước lên xe.
Đến đầu tháng tám công việc của Elen đã quyết định xong xuôi đâu
và đấy. Nàng liền viết thư có báo tin rằng nàng có ý định kết hôn với
N.N., rằng nàng đã theo cái tôn giáo chân chính duy nhất, và yêu cầu
chồng cũ liệu tất cả những việc cần thiết để làm trọn thủ tục ly hôn -
người đưa thư này sẽ cho chàng biết rõ những điều cần thiết ấy.
"Đến đây tôi xin cầu nguyện Chúa đặt anh dưới sự che chở thần thánh và uy vũ của ngài. Bạn của anh. Elen".
Bức thư này được đưa đến nhà Piotr trong khi chàng đang ở trên chiến trường Borodino.

Chú thích:
(1) Tức chính phủ đối lập với giáo hội là chính quyền tinh thần

8.
Cuối trận Borodino, Piotr rời trận địa phận của Ratevxki chạy xuống
lần thứ hai rồi cùng một toán binh sĩ dọc theo khe núi đi về phía
Knyazkovo. Chàng đi ngang một trạm cứu thương, và khi trông thấy máu và
nghe những tiếng kêu rên liền vội vã len vào đám lính đi xa hơn.
Bây giờ Piotr thiết tha mong muốn có một điều, là làm sao chóng
thoát ra khỏi những ấn tượng khủng khiếp mà ngày hôm nay chàng đã trải
qua, chóng trở lại với hoàn cảnh sinh hoạt bình thường, về phòng lăn ra
ngủ một giấc cho yên. Chỉ trong hoàn cảnh sống bình thường, chàng mới
cảm thấy mình có thể hiểu nổi bản thân mình và hiểu tất cả những điều mà
chàng đã chứng kiến và thể hiện. Nhưng cái hoàn cảnh sinh hoạt bình
thường ấy thì chẳng nơi nào có.
Tuy trên con đường chàng đang đi không có tiếng réo của đạn và trái phá
nữa, nhưng khắp bốn phía quanh cảnh vẫn như trên bãi chiến trường. Vẫn
những khuôn mặt ấy. Những khuôn mặt đau khổ, phờ phạc và đôi khi lại
thản nhiên một cách kỳ dị, vẫn những vết máu ấy, những chiếc áo ca-pốt
của binh sĩ ấy, những tiếng súng trường ấy, tuy nay nghe đã xa, nhưng
vẫn làm cho người ta khiếp sợ: đã thế không khí lại nghẹt thở và bụi
bặm.
Đi được khoảng ba dặm trên con đường cái Mozaisk, chàng ngồi xuống bên vệ đường.
Bóng hoàng hôn đã buông xuống mặt đất và tiếng gầm của đại bác đã ngớt,
Piotr chống khuỷu tay nằm xuống. Chàng nằm như thế hồi lâu, đưa mắt nhìn
theo những bóng đen đang lũ lượt kéo qua trước mặt chàng, trong đêm
tối. Chàng cứ có cảm giác như một quả tạc đạn đang bay về phía chàng với
một tiếng rú ghê rợn. Chàng rùng mình ngồi dậy. Chàng không nhớ rõ
chàng ngồi ở đây bao nhiêu lâu. Vào khoảng nửa đêm có ba người lính mang
củi khô lại ngồi gần chỗ chàng và bắt đầu nhen lửa.
Họ lướt nhìn Piotr, đốt lửa và đặt một cái nồi trên bếp lửa, bẻ bánh
mì khô bỏ vào cho thêm mấy miếng mỡ. Mùi thơm dễ chịu của món ăn béo
bùi pha lẫn với mùi khói. Piotr nhổm dậy và thở dài. Ba người lính bắt
đầu ăn, không hề chú ý đến Piotr; họ vừa ăn vừa nói chuyện. Bỗng một
người trong ba người lính quay về phía Piotr nói:
- Này, đằng ấy là người ở đâu thế hả? - Hẳn trong khi hỏi như vậy người
lính muốn ngụ một điều mà Piotr cũng đang nghĩ đến: Nếu anh muốn ăn thì
chúng tôi sẽ cho ăn, nhưng phải nói rõ xem anh có phải là người lương
thiện không đã.
- Tôi, tôi ấy à?… Piotr nói; chàng cảm thấy cần phải hạ bớt cái địa vị
xã hội của mình đi chừng nào hay chừng ấy, để cho mấy người lính thấy
gần gũi và dễ hiểu mình hơn. - Thật tình tôi là một sĩ quan dân binh,
nhưng đơn vị của tôi không có đây; tôi vừa đi dự trận và lạc mất đội
ngũ.
- À ra thế! - Một người lính nói.
- Một người lính khác lắc đầu.
- Thôi được có đói thì ăn một ít. - Kavadas, người này nói đoạn lấy cái môi gỗ liếm cho sạch rồi đưa cho Piotr.
Piotr đến ngồi bên đống lửa và bắt đầu ăn. Trong khi chàng cúi lom
khom trên cái nồi múc từng môi lớn ăn lấy ăn để hết môi này đến môi
khác, ba người lính im lặng nhìn khuôn mặt của chàng chập chờn trong ánh
lửa.
- Bây giờ đằng ấy cần đi đâu hả? Nói đi! - một trong ba người lính lại hỏi.
- Tôi đi Mozaisk.
- Thế đằng ấy là một ông lớn à?
- Phải.
- Tên là gì?
- Piotr Kirilovit.
- Ta đi đi, chúng tôi sẽ dẫn ông đi Mozaisk.
Gà đã gáy sáng khi họ đã đến Mozaisk và bắt đầu leo lên cái dốc dẫn
vào thành phố, Piotr cùng đi với mấy người lính, quên bẵng đi rằng quán
trọ của chàng ở dưới chân dốc chàng đã đi quá mất một quãng. Trong tâm
trạng bàng hoàng như lúc bấy giờ, Piotr không thể nào nhớ ra được, nếu
mà không gặp người mã phu của chàng ở giữa dốc; anh ta đi tìm chàng khắp
cả thành phố và bây giờ đang trở về quán trọ. Người mã phu nhận ra
Piotr nhờ trông thấy cái mũ của chàng trăng trắng nhờ nhờ trong đêm tối.
Anh ta kêu lên:
- Bẩm ông lớn! Chà, thế mà chúng tôi đã tưởng không sao tìm ra nữa. làm
sao ông lớn lại đi bộ? Ông lớn đi đâu nữa thế, xin mời ông lớn về quán
trọ.
- Ờ nhỉ! - Piotr nói.
Ba người lính đứng lại.
- Thế nào, ông tìm ra đơn vị rồi đấy à? - Một người nói.
- Thôi, chào nhé! Chào ông Piotr Kirilovit, có đúng tên ông như thế không nhỉ? Chào Piotr Kirilovit nhé! Mấy người kia nói thêm.
- Chào các anh, - Piotr nói, rồi cùng người mã phu trở về quán trọ.
"Phải cho họ ít nhiều!" - Piotr nghĩ thầm, tay móc túi lấy ví tiền.
Nhưng có một tiếng nói nào đó ở bên trong nhủ chàng "Không, không nên."
Các phòng trọ đều đã có người thuê cả. Piotr đi ra sân, leo lên xe ngựa và trùm áo khoác lên đến đầu.
hết: Chương- 7 - 8 -, xem tiếp: Chương -9 - 10 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 EmptyWed Jan 05, 2011 9:35 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XI

Chương -9 - 10 -


Piotr vừa gối đầu lên chiếc nệm đã thấy mình bắt đầu thiêm thiếp
ngủ, nhưng chợt bên tai chàng lại văng vẳng những tiếng súng đì đùng
nghe rõ gần như thật, những tiếng rên la, những tiếng trái pháo nổ toác
trên mặt đất, đâu đây lại phảng phất mùi máu và mùi thuốc súng, và một
cảm giác kinh hãi, hoảng sợ chiếc cái chết lại tràn vào tâm hồn chàng.
Chàng hoảng hốt mở mắt và ló đầu ra ngoài trước áo khoác. Trong sân mọi
vật đều im lặng. Chỉ riêng ở cổng vào có một người cần vụ đang vừa nói
chuyện với bác gác cổng vừa đi di lại lại, chân giẫm lép bép lên bùn.
Phía trên đầu Piotr, dưới mái hiên lơp ván tối om, mấy con bồ câu thấy
phía dưới có tiếng động sợ hãi xao xác lên một lúc. Khắp sân phảng phất
cái mùi hăng hắc của những quán trọ, mùi rơm khô, mùi phân ngựa và mùi
hắc ín, một khí vị thanh bình khiến lòng Piotr vui tươi trở lại. Giữa
hai mái hiên tối sẫm hiện ra một mảng trời trong trẻo đầy sao.
"Tạ ơn thượng đế, bây giờ cảnh tượng đó không còn nữa rồi - Piotr
nghĩ, và kéo áo trùm lên đầu như cũ. - Ôi ghê gớm thay sự sợ hãi của con
người, và ta đã sợ hãi một cách thật là nhơ nhuốc? Còn họ… Họ thì từ
đầu chí cuối luôn luôn vững dạ bình tâm…" - chàng tự nhủ. Họ đây là binh
sĩ, là những người chiến đấu ở vị trí pháo binh, và cả những người đã
cho chàng ăn, cả những người đã cầu nguyện trước bức tượng thánh. Họ,
những con người xa lạ mà trước đây chàng không hề biết đến, trong tâm
trí của chàng họ đã nổi bật hẳn lên tất cả những người khác.
Phải làm lính, phải trở thành một người lính, một người lính thường
thôỉ, Piotr nghĩ trong khi chìm dần vào giấc ngủ. - Phải đem hết con
người mình thâm nhập vào cuộc sống này, phải thấm nhuần những cái gì đã
làm cho họ trở thành những con người như thế.
Nhưng làm sao cởi bỏ được tất cả những cái thừa thãi, những cái ma
quái tất cả những gánh nặng của con người bề ngoài? Đã có thời lẽ ra ta
có thể như vậy, ta có thể bỏ nhà trốn đi tuỳ ý. Sau trận đấu súng với
Dolokhov họ có thể bắt ta đi lính. Và trong trí tưởng tượng của chàng
lại thoáng hiện ra bữa yến hội ở câu lạc bộ, hôm chàng thách Dolokhov
đấu súng, và hình ảnh của vị ân nhân ở Torzk. Và Piotr lại thấy hiện ra
những gian phòng họp của hội. Buổi họp đó lại diễn ra trong câu lạc bộ
Anh. Có một người nào quen thuộc, gần gũi và thân thiết đang ngồi ở cuối
bàn. Thì chính là vị ân nhân đây rồi! "Nhưng ân nhân đã chết rồi kia
mà? Piotr nghĩ bụng, - Phải, đã chết rồi, nhưng người sống mà ta không
biết. Ta rất lấy làm đau xót rằng người đã chết và rất lấy làm mừng rằng
người còn sống"! Một bên là bàn có Anatol, Dolokhov, Nezvixki, Denixov
và những người khác cùng một giuộc với họ (trong giấc chiêm bao hạng
người này cũng được xác định rõ rệt trong tâm hồn Piotr như hạng người
mà chàng gọi là họ), và những người đó cũng như Anatol và Dolokhov, cao
giọng hò hét, hát xướng; nhưng qua tiếng la hét của họ, vẫn nghe rõ
giọng nói của vị ân nhân đang nói thao thao không ngớt. Và tiếng nói của
người cũng đầy ý nghĩa và liên tục như tiếng súng ầm ầm trên chiến
trường, nhưng nghe rất dễ chịu và mát lòng. Piotr không hiểu được những
lời nói của vị ân nhân, nhưng chàng biết (trong giấc mơ, phạm trù các ý
nghĩa cũng được xác định rất rõ) rằng vị ân nhân đang nói về điều thiện,
đang nói rằng có thể trở thành những người như họ. Và khắp bốn phía, họ
có những khuôn mặt hiền lành, giản dị và rắn rỏi, đang quây quần chung
quanh vị ân nhân. Nhưng tuy họ rất tốt, họ vẫn không nhìn Piotr, không
biết đến chàng, Piotr muốn nói một câu gì cho họ chú ý đến mình. Chàng
nhổm dậy, nhưng vừa lúc ấy chàng thấy lạnh ở chân và thấy chân mình hở
ra cả.
Chàng ngượng quá, liền lấy tay che chân. Quả thật chân chàng đã lòi
ra ngoài chiếc áo khoác mà chàng đã đắp. Trong giây lát Piotr đắp chân
lại, mở mắt ra và lại trông thấy những mái hiên, nhỡng chiếc cột ấy,
khoảng sân ấy, nhưng bây giờ mọi vật đã xanh mờ mờ trong ánh bình minh
và lấp lánh dưới một làn sương móc giá lạnh.
"Sáng rồi, - Piotr nghĩ. - Nhưng không phải thế. Ta còn phải nghe cho
hết và phải hiểu những lời của vị ân nhân". Chàng lại trùm chiếc áo
choàng lên đầu, nhưng không còn thấy gian phòng họp và vị ân nhân đâu
nữa. Chỉ có những ý nghĩ được thể hiện một cách rõ rệt ra thành từ ngữ,
không biết do một người nào nói ra hay do bản thân Piotr tự nhủ.
Về sau khi nhớ lại những ý kiến này, tuy là những ý nghĩ do những ấn
tượng ngày hôm trước gợi lên, Piotr vẫn tin chắc rằng đó là lời của một
người nào đó ở bên ngoài nói với chàng. Chàng có cảm tưởng là khi tỉnh
chàng không bao giờ có thể suy nghĩ và diễn đạt tư tưởng của mình ra như
vậy.
"Chiến tranh là một việc hết sức khó khăn, là việc bắt tự do của con
người phải phục tùng các đạo luật của Thượng đế, - tiếng nói ấy bảo
chàng. - Giản dị tức là phục tùng Thượng đế, không thể lẩn tránh Thượng
đế được. Mà họ thì giản dị. Họ không nói, mà chỉ làm. Một lời nói ra là
một nén bạc, mà một lời không nói ra một nén vàng. Con người không thể
làm chủ một cái gì hết, một khi hãy còn sợ chết. Người nào không sợ
chết, thì tất cả đều là sở hữu của người ấy Giá không có đau khổ thì con
người sẽ không biết giới hạn của mình, sẽ không biết bản thân mình. -
Piotr vẫn tiếp tục nghĩ, hoặc nghe ai nói trong giấc mơ. - Cái khó nhất
là làm sao hợp nhất được ý nghĩ của mọi vật trong tâm hồn mình. Hợp nhất
tất cả ư? - Piotr tự nhủ. - không, không phải là hợp nhất. Không thể
hợp nhất những tư tưởng được, mà phải liên kết tất cả những tư tưởng đó
cái đó mới cần! Phải, phải liên kết, phải liên kết!" - Piotr nhắc đi
nhắc lại, lòng mừng khấp khởi, cảm thấy rằng chính những lời ấy và chỉ
có những lời ấy mới diễn đạt được điều mà chàng muốn diễn đạt và giải
quyết được tất cả vấn đề đang giày vò chàng.
Phải, phải liên kết thôi, đã đến lúc phải liên kết rồi.
- Phải thắng xe thôi(1), đã đến lúc phải thắng xe rồi ạ, thưa đại nhân.
Thưa đại nhân, - có tiếng ai nói. - Phải thắng xe thôi ạ.
Đó là tiếng nói của một người mã phu đang thức Piotr dậy. Ánh nắng rọi
thẳng vào mặt Piotr. Chàng đưa mắt nhìn khoảng sân bẩn thỉu của quán
trọ. Ở giữa sân mấy người lính đang cho mấy con ngựa gầy uống nước bên
giếng. Mấy chiếc xe tải đang kéo ra cổng. Piotr ghê tởm ngoảnh mặt đi và
vội nhắm măt ngả người trên ghế xe như cũ. "Không, ta không muốn thế,
ta không muốn và hiểu cái đó, ta muốn hiểu những điều đã mở ra trước mắt
ta trong giấc ngủ. Giá chỉ thêm một giây nữa thôi thì ta đã hiểu được
hết rồi. Nhưng ta phải làm gì? Liên kết, nhưng làm thế nào liên kết được
tất cả?" và Piotr kinh hãi cảm thấy tất cả ý nghĩa của những điều mà
chàng thấy và nghĩ rằng trong giấc mơ đều đã tiêu tan.
Người mã phu, người đánh xe và người gác cổng kể lại cho Piotr hay
rằng vừa có một sĩ quan đến báo tin quân Pháp đã tiến đến gần Mozaisk và
quân ta đang rút lui.
Piotr đứng dậy, sai thắng ngựa vào xe và dặn khi nào thắng xong phải
cho xe đuổi theo mình, rồi ra khỏi quán đi bộ qua thành phố.
Quân đội đang rời Mozaisk, để lại chừng một vạn người bị thương. Họ
nằm, ngồi la liệt khắp các sàn nhà, thấp thoáng trong các khung cửa sổ
và chen chúc ngoài phố. Quanh những chiếc xe bò chở thương binh đi,
người ta kêu la, chửi bới và đấm đá nhau. Cỗ xe song mã lúc bấy giờ đã
theo kịp chàng.
Piotr mời một vị tướng quen biết vừa bị thương lên xe và cùng ông ta
đi Moskva. Dọc đường, Piotr được tin em vợ mình và công tước Andrey đã
chết.
Chú thích:
(1) Trong tiếng Nga chữ "liên kết" và chữ "thắng ngựa vão xe" là một (Xopryngat)

10.
Ngày ba mươi tháng tám, Piotr về đến Moskva. Gần trạm gác, chàng
gặp một viên sĩ quan phụ tá của bá tước Raxtovsin. Viên sĩ quan nói:
- Thế mà chúng tôi cứ tìm ngài khắp nơi. Bá tước đang cần gặp ngài lắm. Bá tước mời ngài đến ngay có việc rất quan trọng.
Piotr không ghé về nhà, gọi một chiếc xe thuê đi đến nhà vị tư lệnh thành phố.
Bá tước Raxtovsin sáng hôm ấy vừa mới ở ngôi biệt thự ngoại thành
của ông ta ở Xokolniki trở về thành phố. Phòng đợi và phòng khách của bá
tước chật ních những viên chức được ông ta triệu đến hoặc tự đến để xin
lệnh. Vaxilsikov và Platov đã có gặp bá tước và ông cho biết rằng không
còn cách gì phòng thủ Moskva được nữa, đành phải bỏ kinh thành cho giặc
vào. Tuy họ giấu giếm không cho dân cư biết tin này, nhưng các viên
chức, các thủ trưởng các cơ quan hành chính đều biết rõ không kém gì
Raxtovsin rằng Moskva sẽ lọt vào tay quân địch: và để trút bỏ trách
nhiệm, tất cả những người đó đều đến hỏi quan tư lệnh thành phố xem họ
nên xử trí như thế nào đối với những cơ quan được giao cho họ.
Trong khi Piotr bước vào phòng tiếp tân, viên tín sứ của quân đội từ
phòng bá tước đi ra. Viên tín sứ khoát tay có vẻ tuyệt vọng đáp lại các
câu hỏi và bước ngang qua gian phòng.

Trong khi ngồi đợi ở phòng tiếp khách, Piotr đưa mắt mệt mỏi nhìn
qua những viên chức hiện đang ở trong phòng, già có, trẻ con, quan võ
có, thượng cấp cũng có mạ hạ cấp cũng có. Mọi người có vể bất mãn và lo
lắng. Piotr lại gần một nhóm trong đó có một người quen của chàng.
- Cho tản cư đi rồi gọi về cũng chẳng sao: nhưng trong tình hình này thì chẳng biết đằng nào mà nói nữa.
Một người khác chỉ vào một tờ giấy chữ in đang cầm trong tay nói :
- Thì đây ông ấy viết thế này đây…
- Đó là chuyện khác. Đối với dân chúng cần phải thế, - người thứ nhất đáp lại.
- Giấy gì thế? - Piotr hỏi.
Một bản tuyên cáo mới.
Piotr cầm lấy một bản tuyên cáo và bắt đầu đọc:
"Để sớm có thể bắt liên lạc với đại quân, đang tiến về phía ngài,
Điện hạ Tối quang minh đã rút về phía sau Mozaisk và đóng ở một địa thế
vững mạnh, một nơi mà quân địch khó lòng có thể tấn công ngay được. Bốn
mươi tám khẩu đại bác có đủ đạn đã được chuyển về đây cho ngài, và công
tước điện hạ có nói rằng ngài sẽ bảo vệ Moskva cho đến giọt máu cuối
cùng và dù có phải giao chiến với địch ngay giữa các đường phố cũng
không từ. Anh em không nên hoang mang về việc các công sở đóng cửa, cần
phải thu xếp công việc, còn chúng tôi thì chúng tôi sẽ xét tội quân
gian. Đến khi động dụng, tôi sẽ cần đến những người trai tráng ở thành
thị và thôn quê. Tôi sẽ có lởi hiệu triệu trước hai ngày, còn bây giờ
thì chưa cần, cho nén tôi im lặng. Dùng rìu cũng tốt, dùng gây nhọn cũng
hay, nhưng tốt hơn cả là dùng nạng chĩa đinh ba: một tên giặc Pháp
không nặng hơn một bó lúa mì đen đâu. Ngày mai, sau bữa ăn chiều, tôi sẽ
cho rước ảnh Đức Bà Iverya đến nhà thương Ekaterina.
Ta sẽ làm phép cho nước ở đây linh thiêng đặng các thương binh
chóng lành. Bản thân tôi thì nay vẫn khoẻ mạnh: vừa rồi có bị đau một
bên mắt, nhưng nay cả hai đều trông rõ".
Piotr nói:
- Tôi có nghe mấy vị nhà binh nói rằng trong thành phố không thể nào chiến đấu được và các vị trí…
- Ừ thì chính chúng ta đang bàn chuyện ấy đó thôi, - người viên chức lúc nãy nói.
Thế còn, "vừa rồi có bị đau một bên mắt, nhưng nay cả hai đều thông rõ" nghĩa là thế nào? - Piotr hỏi.
- Bá tước vừa bị một cái mụn lẹo, - viên sĩ quan phụ tá mỉm cười nói -
và ngài rất lo khi tôi thưa với ngài là dân chúng đến hỏi thăm ngài mắc
bệnh gì. - Rồi bỗng dưng ông ta mỉm cười nói thêm với Piotr - À, bá tước
này, chúng tôi có nghe nói ngài có chuyện rầy rà trong gia đình thì
phải? Hình như bá tước phu nhân…
- Tôi thì chẳng nghe gì cả, - Piotr dửng dưng đáp. - Các ngài nghe nói thế nào?
- Thì ngài cũng biết rằng thiên hạ hay bày đặt… lắm chuyện. Tôi nghe thế nào thì cứ nói thế thôi.
- Thế ngài nghe họ nói thế sao?
- Thì họ bảo là… - viên sĩ quan phụ tá mỉm cười y như lúc nãy, - là bá tước phu nhân sắp ra nước ngoài. Chắc là chuyện nhảm nhí…
- Cũng có thể đúng, - Piotr nói, mắt lơ đễnh nhìn quanh, rồi chỉ một ông
già thấp bé mặc chiếc áo dài xanh sạch sẽ, da mặt đỏ hồng, có bộ râu
đen và rậm bạc trắng như tuyết, bộ lông mày cũng bạc chẳng kém, hỏi -
Thế còn ai đây?
- Ông kia ấy à? Ông ta là một ông lái buôn, nghĩa là một ông chủ quán
rượu, tên là Veressaghin. Chắc ngài có nghe câu chuyện bản tuyên cáo rồi
chứ?
- À thế ra đây là Veressaghin à? - Piotr nói, mắt nhìn khuôn mặt cương
quyết và điềm tĩnh của ông lái buôn, tìm xem có vẻ gì là một kẻ gian tặc
không. Viên sĩ quan phụ tá nói:
- Không phải ông này đâu. Ông này là cha của người đã viết ra bản tuyên cáo. Con ông ta đang ở trong ngục, có lẽ bị xử nặng lắm.
Một ông già nhỏ bé đeo huân chương bội tinh, và một viên quan người
Đức cổ đeo huân chương chữ thập lại gần nhóm người đang nói chuyện. Viên
sĩ quan phụ tá kể:
- Câu chuyện rắc rối lắm các vị ạ. Bản tuyên cáo ấy xuất hiện cách đây
hai tháng. Người ta báo cho bá tước biết. Bá tước liền ra lệnh điều tra.
Thế là Gavrilo Ivanyts đi điều tra: thì ra bản tuyên cáo đã chuyển qua
đúng sáu mươi ba bàn tay. Hễ tìm ra một người, ông ta lại hỏi: ai đưa
cho anh? Người này người nọ. Ông ta lại hỏi đến người ấy: ai đưa cho
anh? Và cứ thế mãi cho đến Veressaghin, một anh lái buôn chưa thành
nghề, một anh lái buôn rất dễ thương, - viên sĩ quan phụ tá vừa nói vừa
mỉm cười. - người ta hỏi hắn: ai đưa cho anh tờ giấy này? Cái chính là
chúng ta muốn biết rõ ai đưa cho hắn: chẳng có ai khác ngoài ông giám
đốc bưu vụ cả: Nhưng tình hình như giữa hai người đã có thoả thuận trước
với nhau thế nào đấy. Anh lái buôn nói: "Chẳng có ai cả, chính tôi viết
lấy". Người ta cứ thế mà báo cáo với bá tước ra lệnh gọi anh lái buôn
lại. "Ai trao cho anh tờ tuyên cáo?" - "Chính tôi viết ra". Thì các vị
cũng biết rõ bá tước rồi đấy. - Viên sĩ quan phụ tá mở một nụ cười kiêu
hãnh và vui tươi nói tiếp. - Ngài nổi giận đùng dùng; các ngài cứ thử
nghĩ xem: có đời ai lại xấc xược, dối trá và lì lợm đến thế…
- À! Trong khi đó bá tước lại đang cần anh ta vạch mặt chỉ tên Klutsarev kia, tôi hiểu rồi! - Piotr nói.
- Đâu có! Có cần gì đâu, - viên sĩ quan phụ tá hốt hoảng nói, -
Klutsarev thì không có việc này cũng đã lắm tội rơi, chính vì thế cho
nên mới bị đày. Nhưng có điều là bá tước rất công phẫn. "Mày làm thế
nào mà viết ra được? - bá tước nói xong lấy một tờ báo Hamburg để trên
bàn. - Đây này. Không phải là mày viết ra, mà là mày dịch ra, mà dịch
rất tồi, vì ngu dốt, dốt như mày, tiếng Pháp cũng chẳng biết". Thế mà
các ngài có biết hắn trả lời thế nào không? Hắn nói: "Không, tôi chẳng
đọc báo chí gì cả, chính tôi viết ra" - À nếu thế thì mày là một tên
gian tặc, tao sẽ đưa mày ra toà án và mày sẽ bị treo cổ. Nói đi, ai đưa
cho mày? - "Tôi không trông thấy báo trí gì cả, tôi tự vìết ra". Cứ như
thế. Bá tước cho gọi cả ông bố hắn lên: hắn vẫn khăng khăng một mực như
cũ. Thế là người ta đưa ra toà và hắn bị đày khổ sai thì phải. Bây giờ
ông bố đến xin cho hắn đấy. Cái thằng thật bất trị! Các ngài biết không,
cái thằng con cái nhà buôn ấy là một gã ăn diện, hay ve gái, có theo
học dăm ba chữ ở đâu ấy rồi cứ tưởng mình là ghê gớm lắm. Thằng cha thế
có lạ không chứ? Bố hắn có một quán rượu ở cầu đá gần đây trong quán có
một bức tượng ĐứcThánh Chúa Trời, tay phải cầm một quyển trượng và tay
trái cầm quả địa cầu; thế là hắn đem bức ảnh về nhà mấy ngày và cũng làm
một bức như thế! Hắn kiếm đâu ra được một thằng thợ vẽ chó chết.
hết: Chương -9 - 10 -, xem tiếp: Chương -11 -12 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 EmptyWed Jan 05, 2011 9:35 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XI

Chương -11 -12 -


Đang dở chừng câu chuyện mới này thì có người ra gọi Piotr vào gặp
quan tư lệnh Piotr vào phòng làm việc của bá tước Raxtovsin. Lúc ấy
Raxtovsin đang cau mặt lấy tay xoa trán và dụi mắt. Một người thấp bé
đang nói một câu gì, vừa thấy Piotr vào thì im bặt và bỏ ra ngoài.
- À! Chào anh chiến sĩ vĩ đại. - Raxtovsin nói khi người kia đã ra
ngoài. - Chúng tôi có nghe nói đến những chiên công oanh liệt của anh!
Nhưng vấn đề không phải ở chỗ đó. Anh bạn ạ, cái này ta nói riêng với
anh nhé, anh là hội viên Tam điểm phải không? - Bá tước Raxtovsin nói
với giọng điệu nghiêm khắc, tưởng chừng đó là một việc xấu xa, nhưng ông
ta vẫn sẵn lòng tha thứ, Piotr lặng thinh. - Anh bạn ạ, tôi biết rõ
lắm, nhưng tôi biết rằng anh không ở trong số những kẻ lấy cớ muốn cứu
toàn nhân loại để làm hại nước Nga.
- Phải, tôi là hội viên Tam điểm, - Piotr nói.
- Ấy thế, anh bạn nghe tôi nói nhé. Tôi thiết tưởng anh cũng biết rằng
ông Xepenranxki và Marvixki, đã được đưa đi một nơi xứng đáng với họ,
Klutsarev và tất cả những kẻ nào lấy cớ muốn xây ngôi đền Salomon để cố
phá hoại ngôi đền của tổ quốc mình đều được xử trí như thế. Anh có thể
hiểu rằng sở dĩ tôi phải làm như vậy là có lý do và giả sử viên giám đốc
bưu vụ ở đây không phải là một con người nguy hiểm thì tôi đã không thể
nào đưa hắn đi đày được Hiện nay tôi đã được biết rằng anh đã cho hắn
mượn xe để ra khỏi thành phố và thậm chí lại còn giữ hộ giấy tờ cho hắn
nữa. Tôi vốn mến anh và không hề có ý muốn làm hại anh, và bởi vì tuổi
anh chỉ bằng nửa tuổi tôi, cho nên tôi xin khuyên anh như một người cha
là hãy chấm dứt quan hệ với hạng người đó và bản thân anh thì hãy ra
khỏi chỗ này càng sơm càng tốt.
- Thưa bá tước, Klutsarev có tội gì? - Piotr hỏi.
- Đó là việc của tôi, anh không bận gì phải hỏi, - Raxtovsin quát.
- Họ buộc tội cho ông ta là đã truyền bá những tờ tuyên cáo cho Napoléon
nhưng đã có chứng cớ vì đâu, - Piotr nói, không nhìn Raxtovsin, - còn
Veressaghin.
- Ấy đấy! - Raxtovsin bỗng cau mặt mày và ngắt lời Piotr, quát to hơn cả
lúc nãy, - Veressnghin là một tên gian tặc và một thằng bán nước, đã
đền tội một cách xứng đáng, - Raxtovsin nói với cái giọng điệu hằn học
cay cú như người ta thường nói khi nhớ lại một điều sỉ nhục, - Nhưng tôi
mời anh đến đây không phải để bàn đến những việc làm của tôi, mà để
khuyên răn anh, hay ra lệnh cho anh, anh muốn hiểu thế nào thì hiểu. Tôi
yêu cầu anh cắt đứt quan hệ với những người như Klutsarev, và đi khỏi
nơi này. Tôi thì tôi sẽ cho họ một bài học, ai cũng thế, - Rồi có lẽ vì
chợt nhận thấy mình đã to tiếng với Bezukhov tuy anh ta chẳng có tội
tình gì, Raxtovsin thân mật cầm tay Piotr nói thêm: - Chúng ta đang sắp
trải qua một quốc nạn, nên tôi không có thì giờ ăn nói nhã nhặn với tất
cả những người nào có việc giao dich. Nhiều khi đấu tôi cứ váng lên ấy?
Thế nào, anh bạn, riêng bản thân anh thì hiện nay đang làm gì?
- Có làm gì đâu, - Piotr đáp, mắt vẫn không nhìn lên và vẻ mặt đăm chiêu vẫn không thay đổi.
Bá tước cau mặt.
- Anh bạn ạ, tôi xin lấy chỗ tình thân mà khuyên anh: anh nên chuồn
đi cho sớm, tôi chỉ nói với anh thế thôi. Khôn thì sống, mống thì chết.
Thôi chào anh, à, quên, - ông ta gọi với theo khi Piotr đã ra khỏi
phòng, - Có đúng là bá tước phu nhân đã lọt vào nanh vuốt các thanh cha
hội Gia-tô không thế hả?
Piotr lặng thinh không đáp. Chàng ra khỏi nhà Raxtovsin với vẻ mặt cau có, bực tức mà xưa nay chưa ai từng thấy chàng có.
Chàng về đến nhà thì trời đã xẩm tối. Ở nhà tối hôm ấy có tám
người đến tìm chàng: viên thư ký uỷ ban, viên đại tá ở tiểu đoàn chàng,
viên quản lý, viên quản gia và mấy người đến xin xỏ việc này việc nọ.
Người nào cũng có việc cần chàng giải quyết. Piotr chẳng hiểu đầu
đuôi thế nào, chàng không hề quan tâm đến các công việc đó, và họ hỏi gì
chàng cũng chỉ trả lời cốt làm sao tống họ đi nhanh cho rảnh. Cuối cùng
khi đã ngồi lại một mình, chàng bóc thư của vợ ra đọc.
"Họ - những người lính trên vị trí pháo; công tước Andrey đã tử
trận… Ông già… Giản dị là phục tùng Thượng đế. Cần phải đau khổ ý nghĩa
của mọi sự… cần phải liên kết… vợ ta đi lấy chồng… Cần phải quên đi và
hiểu rõ".
Chàng đến cạnh giường, và không cởi áo ngoài, chàng gieo mình xuống giường, và lập tức ngủ thiếp đi.
Sáng hôm sau, khi chàng thức dậy, người quản gia vào báo cáo là có
một nhân viên cảnh sát do bá tước Raxtovsin phái đến hỏi xem bá tước
Bezukhov đã đi chưa, hoặc có ý định đi không.
Khoảng mười người đủ các hạng có việc cần gặp Piotr đang dợi chàng
trong phòng khách. Piotr vội vào mặc áo ngoài, và đáng lẽ ra gặp những
người đợi, chàng lại đi ra cửa sau rồi từ dó bước ra cổng.
Kể từ đấy, mãi cho đến sau khi Moskva bị tàn phá, người nhà của
Piotr đã ra sức tìm kiếm nhưng vẫn không thấy Piotr đâu và không biết
chàng ở chỗ nào.

12.
Gia đình Roxtov ở lại Moskva cho đến ngày mồng một tháng chín, tức là còn cách ngày quân địch tiến vào thành có một hôm.
Sau khi Piotr vào trung đoàn cô-dắc của Obolenxki và đi đến
Belaya Txerkov là nơi thành lập trung đoàn này, bá tước phu nhân có nơm
nớp lo sợ. Lần đầu tiên ý nghĩ rằng cả hai đứa con trai của bà đều ở mặt
trận, rằng cả hai đều đã đi xa sự che chở của bà, rằng nay mai một
trong hai đứa, mà cũng có thể là cả hai, có thể tử trận như ba đứa con
một người quen của bà, ý nghĩ ấy đã đến với bá tước phu nhân rõ rệt đến
mức tàn nhẫn. Bà cố tìm cách gọi Nikolai về, bà đã định thân hành đi tìm
Petya, chạy cho cậu ta một chỗ làm nào ở Petersburg nhưng cả hai việc
ấy đều không thể thực hiện: Petya không thể nào về được, trừ khi nào cả
trung đoàn trở về, hoặc giả cậu có rời trung đoàn chăng nữa thì cũng chỉ
để thuyên chuyển sang một trung đoàn tham chiến khác. Nikolai bấy giờ
đang đóng quân ở một nơi nào đấy và sau bức thư vừa rồi, trong đó có kể
tỉ mỉ về cuộc gặp gỡ với công tước tiểu thư Maria thì không nhận được
tin gì của chàng nữa. Đêm đêm, bá tước phu nhân cứ thao thức không ngủ
được, và hễ chợp mắt là chiêm bao thấy hai con đã tử trận. Sau khi suy
nghĩ và được bạn bè mách bảo rất nhiều, bá tước đã tìm được một phương
sách để làm cho phu nhân yên lòng. Ông cho chuyển Petya từ trung đoàn
của Obolenxki sang trung đoàn của Bezukhov bấy giờ đang thành lập ở gần
Moskva. Mặc dầu Petya vẫn tại ngũ, nhưng thuyên chuyển như vậy thì bá
tước phu nhân cũng có được một niềm an ủi là ít nhất cũng còn được một
đứa con trai ở gần mình, và có thể hy vọng thu xếp thế nào cho thằng
Petya của bà đừng đi đâu xa và lo cho nó một chức vụ gì mà chẳng bao giờ
phải ra trận. Trong khi chỉ có một mình Nikolai ở trong vòng nguy hiểm,
bá tước phu nhân có cảm tưởng (thậm chí phu nhân còn lấy làm hối hận về
điều đó) là mình quý đứa con trai lớn hơn hết thảy các con: nhưng đến
khi thằng con út, đứa con nghịch ngợm biếng học, cái gì trong nhà cũng
làm vỡ làm gãy, ai trong nhà cùng quấy rầy, cái thằng Petya hếch mũi ấy,
với đôi mắt đen vui vẻ, đôi má hồng hào mơn mởn có lớp lông măng mới
chớm mọc, đã dẫn thân vào nơi ấy, nơi của những người đàn ông hung dữ,
tàn ác chẳng biết tại sao đang đánh nhau và lại lấy việc ấy làm vui, -
đến khi ấy người mẹ lại cảm thấy rằng chính nó mới là đứa con mình quý
hơn cả, quý hơn các con khác nhiều. Càng đến ngày Petya trở về Moskva
bao nhiêu bá tước phu nhân lại càng sốt ruột bấy nhiêu.
Bà đã bắt đầu nghĩ rằng hạnh phúc đó sẽ không bao giờ đến được.
Không những khi thấy Sonya trước mặt, mà ngay cả khi thấy Natasa
hay bá tước Ilya Andreyevich, bà cũng bực bội nghĩ: "Những người ấy thì ở
đây làm gì, ngoài Petya ra, tôi có cần đến ai đâu!".
Cuối tháng tám, gia đình Roxtov nhận được một bức thư thứ hai của
Nikolai. Thư gửi từ tỉnh Voronez là nơi chàng được cử đến để mua ngựa.
Bức thư này không làm cho bá tước phu nhân yên lòng.
Khi biết rằng một trong hai đứa con trai đã ra ngoài vòng nguy hiểm, bà lại càng lo thêm cho Petya.
Mặc dầu ngay từ ngày hai mươi, hầu hết những người quen của gia
đình Roxtov đã rời khỏi Moskva, mặc dầu mọi người đều khuyên nhủ bá tước
phu nhân đi cho sớm, bà một mực không chịu nghe theo ai nói đến chuyện
đi đứng gì cả, một khi Petya, đứa con cưng mà bà yêu quý như điên như
dại, vẫn chưa về. Thái độ âu yếm thiết tha một cách bệnh tật của người
mẹ không làm cho chàng sĩ quan mười sáu tuổi ấy vừa lòng. Tuy phu nhân
giấu không cho cậu ta biết ý định của bà là không để cho cậu đi xa nữa,
Petya vẫn hiểu những điều dự tính của mẹ, và tự bản năng vẫn sợ mình trở
nên mềm yếu như đàn bà trước mặt mẹ (cậu ta tự nhủ như vậy), nên cậu ta
đối xử với bá tước phu nhân rất lạnh nhạt, thường hay lánh mặt phu nhân
và trong thời gian ở Moskva chỉ gặp gỡ chuyện trò với Natasa, mà xưa
nay cậu vẫn quý mến đặc biệt, một tình trìu mến chị em gần giống như
tình yêu.
Do cái tính vô tư lự thường lệ của bá tước, mãi đến ngày hai mười tám
tháng vẫn chưa sửa soạn xong xuôi để ra đi, và những chiếc xe tải ở
thôn Ryazan và ở điền trang ngoại thành định dùng để chở toàn bộ tài sản
ở quê mãi đến ngày ba mươi mới thấy đến.
Từ ngày hai mươi tám đến ba mười mốt tháng tám, cả thành Moskva nhốn
nháo và rộn rịp hẳn lên. Ngày nào từ cửa Dorogomilov cũng có hàng nghìn
binh sĩ bị thương ở Borodino được đưa vào khắp thành phố qua những cửa ô
khác. Mặc đù có những tờ yết thị của Raxtovsin, hoặc chính vì có những
tờ yết thị đó nhưng tin tức hết sức trái ngược và kỳ quặc cứ truyền đi
khắp thành phố. Người thì bảo là đã có lệnh cấm không ai được ra khỏi
Moskva; người thì lại bảo là người ta đã dỡ tất cả những tượng thánh ở
các nhà thờ rồi, và sẽ cưỡng bức tất cả mọi người phải dọn; người thì
nói sau trận Borodino còn xảy ra một trận nữa, và trong trận này đã đánh
tan được quân Pháp, người thì bảo là dân binh Moskva sẽ cùng với các
linh mục tiến lên Trigorư, người thì nói rằng Natasa đã được lệnh ở lại,
rằng đã bắt được một bọn phản tặc, rằng nông dân đã nổi loạn và cướp
bóc những người chạy giặc, vân vân và vân vân. Nhưng người ta nói thế
thôi, chứ thật ra những người đi cùng cũng như những người ở lại (tuy
lúc bấy giờ chưa có buổi hội đồng ở Fili quyết định bỏ Moskva) - mọi
người đều cảm thấy, tuy không nói ra, rằng thế nào Moskva cũng lọt vào
tay quân địch và cần phải tháo người của đi cho nhanh. Người ta có cảm
tưởng mọi việc đều sẽ đột nhiên thay đổi và sụp đổ. Nhưng mãi đến ngày
mồng một tháng chín mọi việc vẫn y nguyên như cũ. Cũng như một phạm nhân
khi bị đưa đi hành hình biết rằng mình sắp chết đến nơi rồi, nhưng vẫn
đưa mắt nhìn quanh và sửa lại chiếc mũ đội không được chỉnh, Moskva cũng
vẫn bất giác tiếp tục cuộc sống quen thuộc, mặc dầu biết rằng giờ chết
đã sắp điểm, và lúc ấy tất cả những qui ước sinh hoạt mà người ta đã
quen phục tùng đều sẽ đổ vỡ.
Trong vòng ba ngày trước khi Moskva rơi vào tay giặc, cả gia đình
Roxtov luôn luôn lo lắng bận rộn việc này việc nọ. Người chủ gia đình là
bá tước Ilya Andreyevich luôn luôn đi đây đi đó trong thành phố thu
thập những tin đồn đại, và khi về nhà thì hối hả ra những mệnh lệnh mơ
hồ thu xếp việc chuẩn bị ra đi.
Bá tước phu nhân theo dõi công việc thu xếp đồ đạc, cái gì bà ta
cũng không vừa ý, và luôn lẽo đẽo theo sau cậu Petya bấy giờ vẫn cứ
tránh mặt mẹ, bà ghen với Natasa vì Petya cả ngày chỉ ngồi với nàng. Chỉ
một mình Sonya lo toan đến mặt thực tiễn của công việc, tức là việc xếp
đồ đạc lên xe. Nhưng suốt thời gian gần đây Sonya buồn rầu và lặng lẽ
khác thường. Bức thư của Nikolai, trong đó có nhắc đến nữ công tước
Maria, đã khiến bá tước phu nhân vui mừng nói ngay trước mặt nàng rằng
bà ta cho cuộc gặp gỡ giữa nữ công tước Maria và Nikolai là do Trời xếp
đặt trước. Phu nhân nói:
- Khi Bolkonxki đính hôn con Natasa tôi chẳng vui mừng gì, nhưng xưa nay
tôi vẫn ước mong và cũng tiên cảm thấy rằng Nikolenka sẽ lấy công tước
tiểu thư. Được như thế thì thật tốt quá!
Sonya cảm thấy rằng như vậy là đúng, rằng Nikolai chỉ có cách lấy
một người vợ giàu thì công việc tiền nong của gia đình Roxtov mới mong
cứu vãn được và nữ công tước Maria là một đám rất tốt. Nhưng nàng thấy
tủi lắm. Tuy nàng buồn khổ, hay có lẽ chính vì nàng buồn khổ, Sonya đã
lĩnh lấy tất cả những công việc xếp dọn đồ đạc rất vất vả, và suốt ngày
nàng bận rộn với những công việc đó. Cứ mỗi khi cần sai bảo gì người
nhà, bá tước và phu nhân lại nhớ đến nàng. Petya và Natasa thì ngược lại
không những không giúp đỡ cha mẹ mà còn làm vướng và quấy rầy mọi người
nữa. Và gần như suốt cả ngày bao giờ trong nhà cũng có tiếng reo, tiếng
chân chạy và tiếng cười vô cớ của hai chị em. Hai người cười đùa vui vẻ
vậy tuyệt nhiên không phải vì có chuyện gì đáng cho họ vui mừng; nhưng
trong tâm hồn họ đang vui, cho nên bất cứ chuyện gì cũng đều là một
nguyên nhân khiến họ cười đùa vui vẻ, Petya vui bởi vì cậu đang ở nhà,
vì cậu vừa ở Belaya Txerkov là một nơi mà chỉ nay mai đã đánh nhau và
nhất là vì Natasa cũng đang vui: xưa nay tâm trạng của cậu vẫn phục tùng
tâm trạng của chị. Còn Natasa vui là vì nàng đã buồn quá lâu, vì bây
giờ chẳng có gì nhắc nàng nhớ lại những nguyên nhân đã khiến nàng buồn,
và vì nàng đang khoẻ mạnh. Nàng vui cũng lại vì đang có một người thán
phục nàng (lòng thán phục của người khác đối với nàng là chất dầu nhờn
cần thiết để cho bộ máy chạy được trơn tru). Nhưng cái chính khiến họ
vui như vậy là hiện nay chiến tranh đã chuyển đến gần Moskva, là sẽ có
đánh nhau ở các cửa ô, người ta sẽ phân phát vũ khí, mọi người đều bỏ đi
nơi khác, nói chung là đang diễn ra một việc gì khác thường, và điều đó
bao giờ cũng làm cho người ta vui thích, nhất là khi người ta còn trẻ.
hết: Chương -11 -12 -, xem tiếp: Chương -13 -14-
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 EmptyWed Jan 05, 2011 9:35 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XI

Chương -13 -14-


Ngày thứ bảy ba mươi mốt tháng tám, trong nhà Roxtov mọi thứ đều như
đảo lộn cả lên. Tất cả các cửa đều mở toang, bàn ghế đều bị khuân đi
hay xếp ra một chỗ khác, gương soi, tranh ảnh đều được tháo cất. Trong
các phòng la liệt các rương hòm; rơm rạ, giấy gói và dây dợ bừa bãi giữa
nền nhà. Những người nông dân và gia nô bước nặng trên sàn gỗ vác đồ
đạc ra ngoài. Ngoài sàn ngổn ngang những chiếc xe tải của nông dân, có
chiếc đã chất đầy và đã ràng dây, có chiếc hãy còn bỏ không.
Ngoài sân và trong nhà rộn rịp những tiếng nói và tiếng chân đi lại
của đám gia đình của những người nông dân vừa đánh xe đến.
Từ sáng, bá tước đã đi đâu vắng. Bá tước phu nhân nhức đầu vì cảnh
ồn ào nhộn nhịp nên phải nằm trong phòng đi-văng mới, đầu chườm khăn tẩm
giấm, Petya không ở nhà (cậu ta đến nhà một người bạn bấy giờ đang cùng
cậu bàn cách chuyển từ dân binh sang bộ đội chủ lực). Sonya đứng trong
phòng lớn để trông coi người nhà dọn đồ pha lê và đồ sứ. Natasa ngồi bệt
giữa căn buồng tan hoang, giữa những chiếc áo dài, những chiếc khăn
choàng, những dải lụa vứt ngổn ngang, đôi mắt đờ đẫn nhìn xuống nền nhà,
tay cầm một chiếc áo dài khiêu vũ đã cũ, chính chiếc áo đài nàng đã mặc
hôm đi dự vũ hội lần đầu tiên ở Petersburg, kiểu áo này đã không còn
hợp thời trang nữa.
Natasa thấy ngượng vì trong khi cả nhà đều bận rộn mà nàng thì chẳng
làm gì, nên từ sáng nàng đã thử cố bắt tay vào làm việc.
Nhưng tâm hồn nàng cứ để đâu đâu, mà tính nàng thì không thể và
không biết làm một việc gì mà lại không đem lại hết tâm hồn và sức lực
dốc vào việc đó. Nàng đứng một lúc với Sonya trong khi xếp dọn các đồ
dùng bằng sứ, nàng cũng muốn giúp đỡ một tay, nhưng rồi lại bỏ đấy chạy
về phòng thu xếp dồ đạc của mình. Lúc đầu, nàng thấy vui vui khi ngồi
phân phát áo dài và dải lụa cho các cô hầu gái, nhưng về sau, khi thấy
rằng những thứ còn lại cũng vẫn phải xếp sắp nàng bắt đầu thấy chán.
Dunusia, chị xếp hộ tôi nhé! Chị nhé!
Và khi Dunusia vui lòng hứa với nàng là sẽ làm tất cả, Natasa ngồi
xuống sàn nhà, cầm chiếc áo khiêu vũ ngày trước và suy nghĩ miên man,
nhưng những ý nghĩa của nàng hoàn toàn không có liên quan đến những việc
lẽ ra bấy giờ phải khiến nàng bận tâm. Tiếng nói chuyện của những người
đầy tớ gái ở phòng bên và tiếng chân họ bước vội ra thềm sau đưa nàng
trở về cõi thực. Natasa đứng dậy và nhìn ra cửa sổ. Ngoài phố có một
đoàn xe rất dài chở đầy thương binh vừa dừng lại.
Những người đầy tớ gái, những người nô bộc, bà quản gia, bà u già,
mấy ông đấu bếp, mấy chủ xà ích, quản mã, mấy cô phụ bếp đều ra đứng ở
cổng xem thương binh.
Natasa trùm chiếc khăn vuông trắng lên đầu, hai tay cầm hai khăn mùi xoa và đi ra đường.
Bà già Mavra Kuzminisna, bà quản gia cũ của gia đình Roxtov, tách ra
khỏi đám gia nhân đứng ở cổng, lại gần một chiếc xe tải trên có phủ một
tấm diềm bằng thứ vỏ cây và nói chuyện với một viên sĩ quan trẻ tuổi
xanh xao nằm trong xe. Natasa bước mấy bước đến cạnh chiếc xe va rụt
rè dừng lại, tay vẫn giữ hai múi khăn, lắng tai nghe xem bà quản gia nói
những gì.
- Thế ông chẳng có ai thân thuộc ở Moskva cả à? - Mavra Kuzminisna nói. -
Giá ông vào nhà nào mà nằm thì hơn… Hay ông vào nhà tôi cũng được. Chủ
nhà sắp đi rồi.
- Không biết họ có cho không, - Viên sĩ quan nói, giọng yếu ớt. - Kìa
thủ trưởng của tôi kia kìa… bà thử hỏi xem. - nói đoạn viên sĩ quan chỉ
một ông thiếu tá to béo bấy giờ đang đi ngược trở lại dọc theo đoàn xe.
Natasa đưa mắt hoảng sợ nhìn vào mặt viên sĩ quan bị thương và lập tức đến gặp viên thiếu tá. Nàng hỏi:
- Cho thương binh ghé vào nhà chúng tôi được không?
Viên thiếu tá mỉm cười đưa tay lên vành lưỡi trai, nháy mắt hỏi:
- Thưa, tiểu thư có lòng chiếu cố đến ai ở đây ạ?
Natasa điềm tĩnh nhắc lại câu nói, và tuy hai bàn tay nàng vẫn cầm hai
dầu mũi chiếc khăn vuông, vẻ mặt và dáng điệu của nàng nghiêm trang đến
nỗi viên thiếu tá không cười nữa và im lặng suy nghĩ một lát như tự hỏi
xem có thể làm như vậy được không, và có thể làm đến mức nào, rồi đáp:
- Ô được chứ, sao lại không, được chứ.
Natasa khẽ cúi đầu rồi quay gót bước nhanh về phía Mavry Kuzminisna
đang đứng nói chuyện với viên sĩ quan, vẻ cảm thông và thương xót.
- Được đấy ông ấy bảo là được! - Natasa nói thầm.
Chiếc xe có diềm của viên sĩ quan được vào sân nhà Roxtov và mấy
chục chiếc xe chở thương binh, theo lời mời của dân phố cũng bắt đầu
được đánh vào các sân và đến đỗ ở trước thềm các nhà ở phố Povarxkaya.
Natasa hình như thấy làm vui thích được giao thiệp với những con người
mới lạ trong một hoàn cảnh khách thường. Cùng với bà Maria, nàng cố sức
đưa vào sân nhà hàng cho thật nhiều xe chở thương binh.
Mavra Kuzminisna nói:
- Dù sao cũng phải thưa với cụ nhà.
- Không sao, không sao, thì có mất gì đâu nào! Chỉ còn có một ngày nữa,
chúng tôi có thể dọn sang bên phòng khách mà ngủ cũng được. Có thể
nhường cho họ tất cả các gian của chúng tôi.
- Chà tiểu thư bày vẽ lắm trò thật! Dù là trong các dãy nhà dọc, trong phòng gia nhân, trong phòng u già cũng được xin phép.
- Được rồi tôi sẽ xin.
Natasa chạy vào nhà và kiễng chân đi qua cánh cửa hé mở vào phòng
đi-văng. Từ trong phòng đưa ra mùi giấm và mùi thuốc giọt Hoffman.
- Mẹ ngủ hở mẹ?
- Ờ mẹ vừa mê ngủ sợ quá! - bá tước phu nhân lúc bấy giờ vừa chợp mắt được một lúc, tỉnh dậy nói.
Natasa quỳ xuống bên cạnh mẹ và ghé mắt vào sát mặt bá tước phu nhân nói:
- Mẹ ạ, mẹ yêu dấu của con, con xin lỗi mẹ nhé, con đã làm mẹ thức giấc,
từ rày con sẽ không bao giờ làm như thế nữa, mẹ tha lỗi cho con nhé.
Marra Kuzminisna bảo con đến. Ngoài kia có mấy người thương binh, họ mới
chở đến, mấy người sĩ quan. Mẹ cho phép mẹ nhé? Họ chẳng có chỗ nào mà ở
cả; con biết mẹ sẽ cho phép… - Natasa nói nhanh một hơi không dừng lại
thở.
- Sĩ quan nào? Họ cho ai đến? Mẹ chẳng hiểu sao cả. - Bá tước phu nhân nói.
Natasa bật cười, bá tước phu nhân cũng mỉm cười yếu ớt.
- Con biết thế nào mẹ cũng cho… con sẽ bảo họ thế.
Natasa hôn mẹ, đứng dậy ra ngoài.
Trong phòng lớn nàng gặp bá tước nói với giọng bực bội.
- Câu lạc bộ thì đóng cửa rồi, cảnh sát thì đang rút lui.
- Ba ạ, con mời mấy người bị thương vào nhà, không việc gì chứ ba? - Natasa nói.
- Cố nhiên là không việc gì. - bá tước lơ đễnh trả lời con - nhưng việc
ấy chả có gì quan trọng, bây giờ thì ba yêu cầu con đừng có lo đi làm
những việc vớ vẩn như thế, phải lo giúp đưa đồ đạc lên xe, mai đã đi
rồi… Và bá tước cũng ra lệnh cho người quản gia và các gia nhân như vậy.
Đến bữa ăn chiều, Petya về nhà và cũng kể lại tin tức vừa nghe được.
Petya kể lại rằng hôm nay dân chúng đã đến nhận vũ khí ở điện
Kreml, rằng tuy trong tờ yết thị của Raxtovsin có nói là ông ta sẽ có
lời kêu gọi trước hai ngày, nhưng bây giờ chắc người ta đã thu xếp đến
ngày mai và toàn dân sẽ cầm khí giới lên Trigorư, và ở đấy sẽ diễn ra
một trận đánh lớn.
Trong khi Petya nói, bá tước phu nhân đưa mắt sợ hãi và e dè nhìn
khuôn mặt vui mừng, phấn khởi của đứa con trai. Bà biết rằng hễ mình
nói một lời nào để xin Petya đừng đi đánh trận (bà biết rằng cậu ta rất
vui mừng để trận đánh sắp tới này), thì cậu ta sẽ nói một cái gì về các
đấng trượng phu, về danh dự, về tổ quốc, - một cái gì rất vô nghĩa, rất
đàn ông, rất lì lợm mà bà không sao cãi lại được, và câu chuyện sẽ hỏng
bét. Cho nên bà hy vọng có thể thu xếp thế nào để ra đi trước khi xảy ra
trận đánh này và lừa cho Petya cũng đi theo với tư cách là kẻ bảo vệ và
che chở cho bà; sau bữa ăn chiều bà cho mời bá tước lại và khóc lóc van
xin bá tước cho bà đi ngay, đi ngay đêm nay nếu có thể được. Tuy từ
trước đến nay bá tước phu nhân không hề có chút sợ hãi về nỗi phải ở lại
Moskva, nhưng bây giờ, với cái tính đa mưu không tự giác của người mẹ
thương con, bà lại nói rằng mình sẽ khiếp sợ đến chết mất nếu không được
đi ngay đêm ấy. Và bây giờ bà đâm ra sợ tất cả, sợ thật chứ không phải
giả vờ nữa.

14.
Bà Schoss hôm đi thăm cô con gái về có kể lại những việc bà ta
trông thấy ở ty rượu ngoài phố Myasnixkaya lại càng làm cho bá tước phu
nhân hoảng sợ hơn nữa: đang đi về nhà qua phố ấy bà gặp phải một lũ say
rượu đang quấy phá ở trước cửa ty, bà phải thuê một chiếc xe chở khách
đi vòng vào một ngõ hẻm trở về nhà.
Người xà ích có kể cho bà nghe rằng dân chúng đã chọc thủng các
thùng rượu trong kho, rằng trên có lệnh cho họ làm như vậy.
Sau bữa ăn chiều, trong nhà Roxtov mọi người đều bắt tay vào
việc thu xếp đồ đạc và chuẩn bị ra đi một cách hối hả khác thường.
Lão bá tước, đột nhiên tháo vát hẳn lên, sau bữa ăn chiều cứ từ trong
nhà đi ra sân rồi lại từ ngoài sân đi vào nhà, mồm quát tháo huyên
thuyên làm cho gia nhân đã vội lại càng vội thêm. Petya đứng sai bảo ở
ngoài sân. Nghe những lời sai bảo mâu thuẫn lung tung của bá tước, Sonya
luống cuống chẳng còn biết làm gì nữa.
Các gia nhân cãi nhau, gọi nhau í ới, chạy ầm ầm trong các gian
phòng và trong sân. Natasa, với cái tính hăng say đặc biệt của nàng đối
với những việc nàng làm, cũng bắt tay vào sửa soạn thu xếp.
Thoạt tiên thấy nàng xông vào sắp xếp đồ đạc, mọi người đều có ý
nghi ngại. Ai cũng nghĩ rằng nàng chỉ biết đùa nghịch thôi, nên chẳng ai
chịu nghe những lời sai bảo của nàng; nhưng nàng kiên trì và say sưa
dòi hỏi mọi người phải phục tòng nàng; nàng nổi giận, suýt khóc lên vì
họ không chịu nghe nàng, và cuối cùng họ đã phải tin rằng nàng muốn làm
thật chứ không phải đùa. Kỳ công đầu tiên của nàng, một kỳ công đã khiến
nàng phải hao hơi tổn sức rất nhiều và đã làm cho nàng có uy tín, là
việc xếp sắp các tấm thảm. Trong nhà bá tước có nhiều tấm thảm Gôbơlah
và thảm Ba-tư rất đắt tiền.
Khi Natasa bắt tay vào việc, trong phòng lớn có hai chiếc thùng gỗ đang
mở nắp, một chiếc đã xếp đồ sứ đầy gần lên đến miệng, một chiếc thì đựng
thảm. Trên các bàn hãy còn nhiều đồ sứ, và họ vẫn còn bưng ở nhà kho ra
nhiều nữa. Cần phải xếp vào một chiếc thùng nữa mới đủ; người nhà đã
chạy đi kiếm thùng. Natasa nói:
- Khoan đã, Sonya ạ, ta sẽ xếp tất cả hai thùng này cũng đủ.
- Không được đâu, tiểu thư ạ, đã thu xếp rồi mà không được. - Người chủ thiện nói.
- Không, để yên tôi xem đã.
Và Natasa bắt đầu lấy những chiếc đã ăn và đã tách bọc giấy ở trong thùng ra. Nàng nói:
- Đĩa ăn phải để vào đây này, để vào giữa các tấm thảm ấy.
Chỉ riêng các tấm thảm không thôi cũng đã chiếm hết ba thùng rồi còn gì.
- Thì cứ để yên tôi xem nào.
Và Natasa bắt đầu dỡ đồ đạc ra với những động tác nhanh nhẹn và khéo
léo, - Cái này không cần, - Natasa nói khi đỡ mấy bộ đĩa Kiev, - cái
này thì cần, cho vào thùng đựng thảm, - nàng nói khi cầm đến mấy bộ đĩa
sứ Xacxoni.
- Thôi đi Natasa, để cho chúng tôi xếp, - Sonya nói giọng trách móc.
Người quản gia cũng nói:
- Thôi, tiểu thư ạ!
Nhưng Natasa không chịu thua. Nàng dỡ hết đồ đạc ra và bắt đầu xếp
lại rất nhanh, quả quyết gạt những tấm thảm và những bộ đĩa thừa ra. Và
quả nhiên, sau khi đã gạt bỏ bớt những đồ đạc rẻ tiền không đáng mang
theo, bao nhiêu đồ quý đều xếp gọn vào hai thùng. Nhưng cái thùng đựng
thảm không sao dậy nắp được. Lúc bấy giờ có thể lấy bớt ra một ít, nhưng
Natasa cứ một mực không chịu. Nàng đi xếp, xếp lại, giẫm, ấn, bắt người
quản gia và cậu Petya mà nàng huy động đến làm việc với nàng phải đè
thật mạnh lên nắp thùng, và chính nàng cũng đem hết sức lực ra ấn nó
xuống.
- Thôi Natasa ạ, - Sonya nói, - Mình thấy rồi, Natasa làm thế là phải, nhưng hãy bớt tấm thảm trên cùng đi.
- Không, - Natasa kêu lên, một tay đưa lên vén mái tóc xoã xuống khuôn
mặt ướt đẫm mồ hôi của nàng, một tay ấn nắp thùng - Ấn mạnh đi Petya!
Vaxitits, ấn mạnh đi nào!
Mấy tấm thảm đã ép chặt xuống. Nắp thùng đã đóng lại được.
Natasa vỗ tay reo lên mừng rỡ, ứa cả nước mắt ra. Nhưng chỉ một
lát sau nàng đã bắt tay vào một công việc khác. Bây giờ thì mọi người đã
hoàn toàn tin rằng, và bá tước không hề phật ý khi người nhà nói với
ông rằng Natasa đã bảo làm khác hẳn lời sai phái của ông, và các gia
nhân đã đều hỏi Natasa xem xe chất như đã đủ chưa và nên chằng dây chưa.
Nhờ những cách thu xếp của Natasa, mọi việc đều được giải quyết gọn
gàng: những đồ không cần dùng được bỏ lại, còn những đồ quý nhất thì
được sắp xếp thật chặt chẽ.
Tuy mọi người đã ra sức xếp đặt cho thật nhanh nhưng đến khuya
vẫn chưa xếp hết được. Bá tước phu nhân ngủ thiếp đi. Lão bá tước đành
hoãn đến sáng mai mới lên đường, và đi ngủ.
Natasa và Sonya để nguyên áo dài ngủ trong phòng đi-văng.
Đêm đó có thêm một người bị thương được chở qua phố Pavarkaya, và
bà Mavra Kizminisna bấy giờ đang đứng ở cổng, liền cho xe của họ rẽ vào
sân nhà Roxtov. Theo ý bà Mavra thì người bị thương này là một nhân vật
trọng yếu. Họ chở người ấy trên một chiếc xe song mã phủ diềm, mui trên
buông kín. Trên ghế đánh xe, bên cạnh người xà ích, có một người nội bộc
đã già trông rất oai vệ ở phía sau có một chiếc xe chở một viên bác sĩ
và hai người lính đi theo.
- Xin mời ngài vào nhà chúng tôi, xin mời quý vị. Chủ chúng tôi sắp đi rồi cả nhà bỏ trống, - bà Mavra nói với người lão bộc.
- Thôi cũng đành, - người hầu phòng thở dài đáp, - cũng không mong gì về
đến nhà được! Chúng tôi cũng có nhà ở Moskva, nhưng xa lắm, mà nay nhà
chẳng còn ai.
Mavra Kizminisna nói:
- Xin cứ vào nhà chúng tôi, chủ chúng tôi cái gì cũng có đủ, xin cứ vào - Rồi bà nói thêm - Thế nào, bị thương nặng lắm à?
Người lão bộc khoác tay ra dáng tuyệt vọng:
- Không mong gì đưa về đến nhà! Phải hỏi bác sĩ mới được - và lão bỏ ghế xà ích bước xuống. lại gần chiếc xe sau.
- Được! - viên bác sĩ nói.
Người hầu phòng lại trở về sau song mã, ghé mắt nhìn vào trong xe,
lắc đầu, rồi bảo người đánh xe quay vào sân, và đứng lại bên cạnh Mavra
Kizminisna.
- Trời ơi! Lạy chúa Jesus! - Bà Mavra thốt lên.
Bà đưa người bị thương vào nhà, nói:
- Các chủ nhân không nói gì đâu…
Nhưng không thể đem người bị thương lên gác được nên họ đưa vào dãy
nhà dọc và đặt người ấy nằm trong gian phòng cũ của bà Schoss. Người bị
thương ấy chính là công tước Andrey Bolkonxki.
hết: Chương -13 -14-, xem tiếp: Chương -15- 16-
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 EmptyWed Jan 05, 2011 9:36 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XI

Chương -15- 16-


Ngày cuối cùng của thành Moskva đã đến. Hôm ấy là một ngày chủ
nhật mùa thu quang đãng và tươi vui. Cũng như trong những ngày chủ nhật
bình thường, hôm ấy các nhà thờ cũng đánh chuông. gọi con chiên đến xem
lễ. Tưởng chừng như chưa ai có thể hiểu rõ cái gì đang chờ đợi Moskva.
Trong tình xã hội chỉ có hai dấu hiệu cho thấy cái tình trạng của
thành Moskva lúc bấy giờ: sự nhốn nháo của đám dân nghèo và giá cả các
làng hoa. Thợ thuyền, người ở, nông dân họp thành một đám rất đông,
trong đó có xen cả những người viên chức, những học sinh chủng viện và
những người quý tộc, sáng sớm hôm ấy kéo nhau lên Trigorư. Sau khi đứng
đợi một hồi lâu chẳng thấy Raxtovsin đến, và biết rõ rằng Moskva sẽ bỏ
ngỏ, đám đông bèn toả ra khắp thành phố, xông vào các ty rượu và các
quán rượu. Giá cả ngày hôm ấy cũng cho thấy rõ tình hình của thành phố.
Giá vũ khí, giá xe cột và giá ngựa tăng lên không ngừng, còn giá cả của
giấy bạc và của những đồ dùng thành thị thì lại mỗi lúc một giảm, đến
nỗi vào khoảng giữa trưa có những anh xà ích đánh xe thuê mua được những
hàng đắt tiền như len dạ bằng nửa giá thường, còn một con ngựa cày thì
bán đến hàng năm trăm rúp; bàn ghế, gương soi tượng đồng thì người ta
lại cho không.
Trong ngôi nhà cũ kỹ và yên tĩnh của gia đình Roxtov chẳng có dấu
hiệu gì rõ rệt chứng tỏ những điều kiện sinh hoạt cũ đã bị đảo lộn. Về
phần gia nhân thì chỉ có một điều là đêm hôm qua trong số tôi tớ rất
đông đúc của nhà này có ba người trốn đi, nhưng đồ đạc thì chẳng mất mát
chút gì, còn về giá cả thì ba mươi cỗ xe đưa từ thôn quê lên quả là một
giá rất đắt. Không phải chỉ riêng, mà từ cuối hôm ba mươi mốt tháng tám
cho đến sáng ngày mồng một tháng chín lại có nhiều người lính cần vụ và
gia nhân của các sĩ quan bị thương, và ngay cả những người bị thương
nữa ghé lại nhà Roxtov và các nhà bên cạnh cũng đều van xin các gia nhân
và nói hộ với chủ cho họ nhờ mấy chiếc xe tải để ra khỏi Moskva. Người
quản gia nghe họ van nài như vậy cũng thấy thương hại những người bị
thương nhưng cũng cương quyết từ chối, nói rằng việc này thì dù chỉ thưa
lại với chủ nhân thôi anh ta cũng không dám. Những người thương binh bị
bỏ lại thật đáng thương, nhưng có thể thấy rõ là nếu đã nhường một
chiếc xe tải thì không có lý gì lại không nhường tất cả, rồi đến xe nhà
cũng phải nhường nốt. Người quản gia suy tính hộ cho chủ như vậy.
Sáng ngày mồng một, bá tước Ilya Andreyevich thức dậy, rón rén
bước ra ngoài phòng ngủ để khỏi kinh động giấc ngủ của bá tước phu nhân
mới chợp mắt lúc tờ mờ sáng. Mình mặc chiếc áo ngủ dài bằng lụa màu hoa
cà, bá tước đi ra thềm. Những chiếc xe tải đã chằng dây đang đứng im
trong sân. Viên quản gia đang đứng cạnh bậc thềm nói chuyện với một
người lính cần vụ già và người một sĩ quan trẻ tuổi xanh xao tay treo
băng. Trông thấy bá tước, người quản gia làm một cử chỉ nghiêm nghị ra
hiệu cho họ lảng ra xa.
- Thế nào đấy, xong cả chưa Vaxilits? - Bá tước hỏi, tay xoa xoa cái đầu
hói và đưa đôi mắt hiền hậu nhìn viên sĩ quan và người lính cần vụ, khẽ
gật đầu chào họ (bá tước vốn thích những người mới gặp).
- Thưa bá tước, bây giờ cho thắng ngựa ngay cũng được ạ.
- Thế thì tốt lắm, chốc nữa bá tước phu nhân ngủ dậy là đi ngay! Thế còn
ông thì sao? - bá tước quay sang nói với viên sĩ quan. - Đêm qua ông
nghỉ lại nhà tôi đấy chứ?
Viên sĩ quan lại gần. Gương mặt xanh xao của anh ta chợt đỏ ửng lên.
- Thưa bá tước, xin bá tước gia ân, cho phép tôi… tôi van ngài… cho tôi
ngồi nhờ trên một chiếc xe tải nào của bá tước, chỗ nào cũng được. Đây
tôi chẳng có hành lý gì cả… Ngồi trên xe tải… thế nào cũng được…
Viên sĩ quan chưa nói hết câu thì người lính cần vụ đã đỡ lời van xin bá tước cho chủ.
- À! Được được được - Bá tước hối hả nói. - Tôi rất vui lòng, rất vui
lòng. Vaxilits, anh bảo bỏ bớt đồ trên xe xuống, anh xem… phải cho chu
tất nhé… - bá tước nói lúng búng, chẳng rõ ông ta muốn bảo làm gì nữa.
Nhưng ngay trong giây lát đó vẻ biết ơn nhiệt thành của viên sĩ quan
đã củng cố những điều sai bảo của bá tước. Bá tước đưa mắt nhìn quanh:
trong sân, ngoài cổng, ở các khung cửa sổ bên dãy nhà dọc đều thấy có
những người bị thương và những người cần vụ.
Mọi người đều nhìn về phía bá tước và mon men lại gần bậc thềm.
- Thưa bá tước, xin bá tước ghé vào phòng khách. - Viên quản gia nói. - Bẩm bây giờ bức tranh thì thế nào ạ?
Bá tước theo anh ta vào nhà, sau khi nhắc lại là không được từ khước những người bị thương xin ngồi nhờ xe tải.
- Thôi thì bỏ bớt ít đồ xuống cũng được, - ông nói thêm, giọng thì thầm có vẻ bí mật, như thể ông sợ có ai nghe thấy.
Đến chín giờ bá tước phu nhân thức dậy. Matriona, người hầu phòng cũ
của phu nhân, vốn làm một chức vụ tương tự như chức trưởng phòng hiến
binh của phu nhân, đến báo cáo với phu nhân rằng Maria Karlovra đang bất
bình lắm, và áo dài mùa hạ của các tiểu thư không thể bỏ lại được. Bá
tước phu nhân hỏi tại sao bà Schoss lại bất bình như vậy, thì hoá ra các
rương hòm của bà ta đã bị bỏ xuống và tất cả xe tải đều bị tháo dây ra
cả (bá tước quá thật thà đã cho bỏ đồ đạc xuống để chở thương binh). Bá
tước phu nhân liền cho gọi chồng lại.
- Thế nào đấy mình, nghe nói lại bỏ đồ đạc xuống à?
- Mình ạ! Số là thế này… bá tước phu nhân thân mến của tôi ạ… vừa rồi có
một sĩ quan đến xin tôi nhường cho vài xe để chở thương binh. Vì rằng
đồ đạc thì còn sắm lại được, chứ họ mà phải ở lại đây là mình thử nghĩ
mà xem!… Quả tình trong sân nhà ta… chính chúng ta cũng đã gọi họ vào, ở
đây có cả những sĩ quan. Mình ạ, tôi thiết tưởng, quả tình thì, mình ạ.
Thế này nhé… Thôi để cho họ cùng đi… Việc gì mà vội?
Bá tước nói một cách rụt rè như thường lệ mỗi khi nói đến chuyện
tiền nong. Bá tước phu nhân thì đã quen với cái giọng này, một giọng nói
xưa nay vẫn báo trước một việc gì có tổn thương đến tài sản của con
cái, như việc bày phòng tranh, làm nhà ủ cây, tổ chức diễn kịch hay hoà
nhạc trong nhà, và phu nhân đã quen cho là mình có nhiệm vụ nhất luận
phản đối những việc mà bá tước nói ra với cái giọng rụt rè đó.
Phu nhân làm ra vẻ nhẫn nhục, ngậm ngùi và nói với chồng:
- Bá tước ạ, mình đã làm hỏng mất vtệc bán ngôi nhà, thế mà bây giờ mình
còn muốn huỷ hoại cả sản nghiệp của các con ư? chính mình nói rằng của
cải trong nhà có đến mười vạn. Mình ạ, tôi không chịu đâu, tôi không
chịu đâu? Tuỳ mình đấy! Cần phải làm gì chứ. Mình thử nhìn mà xem: nhà
Lopukhin đã dọn đi hết từ ba ngày nay. Mình không thương tôi thì cũng
phải thương lấy các con chứ.
Bá tước khoát tay một cái và chẳng nói chẳng rằng bỏ ra ngoài.
- Ba ơi! Việc gì phải thế hở ba? - Natasa nói, và theo bá tước vào phòng mẹ.
Chẳng có gì cả! Việc gì đến mày? - Bá tước giận dữ nói.
- Không, con nghe thấy rồi. Tại sao mẹ không chịu hả ba?
- Thì việc gì đến mày nào? - bá tước quát lên.
Natasa bỏ ra đứng cạnh cửa sổ và ngẫm nghĩ một lúc.
- Ba ạ, Berg đến kia kìa, - nàng nói, mắt nhìn ra ngoài cửa sổ.

16.
Berg, người con rể của ông bà Roxtov, bấy giờ đã lên đến chức đại
tá, đeo huân chương Vladimir và huân chương Anna trên cổ vẫn làm một
chức vụ yên tĩnh và thú vị là chức sĩ quan phục việc ở văn phòng thứ
nhất của tham mưu trưởng quân đoàn hai.
Ngày mồng một tháng chín, Berg từ quân đội trở về Moskva.
Chàng chẳng có việc gì ở đây cả; nhưng chàng nhận thấy rằng trong
quân đội ai cũng về Moskva để làm một việc gì đấy. Cho nên chàng cũng
thấy cần phải xin về đấy để thu xếp việc nhà.
Berg đến nhà ông nhạc trên cỗ xe rất lịch sự thắng hai con ngựa
hồng béo tốt, bờm và đuôi đen, giống như đúc hai con ngựa của một vị
công tước mà chàng quen biết. Chàng chăm chú nhìn những chiếc xe tải ở
ngoài sân, và khi bước lên bậc thềm, chàng rút chiếc khăn mùi soa sạch
sẽ ra, thắt góc khăn lại thành một cái nút, Từ phòng ngoài, Berg bước
vội vào phòng khách ôm hôn bá tước hôn tay Natasa và Sonya rồi vội vàng
hỏi thăm sức khoẻ của bà nhạc. Lão bá tước nói:
- Lại còn hỏi sức khoẻ! Nào, anh thử nói tôi nghe nào, quân đội ra sao? Sẽ rút lui hay mở một trận nữa?
Berg nói:
- Thưa ba, chỉ có Thượng đế vĩnh hằng mới có thể định đoạt số phận của
tổ quốc. Quân đội thì đang hừng hực tinh thần anh dũng, và hiện nay các
vị tư lệnh đang họp hội đồng. Rồi đây sẽ ra sao thì không biết… Nhưng
con xin thưa với ba là nói chung cái tinh thần dũng cảm, cái tinh thần
quả cảm của quân đội Nga, thật xứng đáng với các anh hùng cổ đại, mà họ
đã biểu lộ ra trong trận chiến đấu ngày hai mươi sáu thì không có lời
nào tả xiết… con xin thưa với ba rằng (chàng đấm vào ngực đúng như một
viên tướng đã từng đấm ngực khi nói mấy câu này trước mặt chàng, tuy
chàng đấm có hơi muộn, vì lẽ ra phải đấm ngực đúng vào lúc nói mấy chữ
"quân đội Nga"), con xin nói thật rằng những người chỉ huy như con không
những không phải thúc ép quân sĩ mà lại còn phải kìm bớt những cái…
những cái… phải, những chiến công anh hùng chẳng kém gì các anh hùng cổ
đại ấy, - câu này chàng nói một hơi rất nhanh. - Ở nơi nào đại tướng
Barclay de Tolly cũng luôn luôn xông pha ở hàng đầu quân đội. Còn quân
đoàn của con thì bố trí ở một sườn núi. Ba thử tưởng tượng xem! - và đến
đây Berg kể lại tất cả những điều chàng còn nhớ được qua những câu
chuyện chàng đã nghe kể gần đây, Natasa cứ nhìn chòng chọc vào Berg
khiến chàng lúng túng, dường như nàng muốn tìm ở trên mặt Berg một lời
giải đáp cho một vấn đề gì đang khiến nàng bận tâm.
- Nói chung cái tinh thần anh dũng mà các chiến sĩ Nga đã biểu lộ ra thì
thật không thể nào tưởng tượng cho hết, không thể tìm một lời ngợi khen
cho xứng đáng? - Berg vừa nói vừa đưa mắt nhìn sang Natasa, và dường
như muốn xin nàng buông tha cho, chàng cười nụ để đáp lại cái nhìn chòng
chọc của Natasa - Chàng nói tiếp: "Nước Nga không phải ở Moskva, nước
Nga ở trong lòng những người con của nó!" Thưa ba có phải thế không ạ?
Vừa lúc ấy bá tước phu nhân từ trong phòng đi-văng bước ra, vẻ mệt
mỏi và bực dọc. Berg vội vã đứng phắt dậy hôn tay phu nhân, hỏi thăm sức
khoẻ của bà và lắc đầu tỏ ý ái ngại, đứng yên bên cạnh bà.
- Phải, thưa mẹ, con xin nói thật rằng đây là một thời buổi khó khăn và
buồn khổ cho mọi người Nga. Nhưng việc gì phải lo âu? Bây giờ mẹ đi hãy
còn kịp…
- Tôi không hiểu hiện nay người ta làm những gì, - bá tước phu nhân nói
với chồng, - Họ vừa nói với tôi là sửa soạn chưa xong gì cả.
- Phải có người sai bảo họ với chứ. Thế này đâm ra lại tiếc thằng Mityeuka. Cứ mãi thế này thì rồi không biết đến bao giờ!
Bá tước định nói một câu gì nhưng rồi nghĩ lại thế nào lại thôi.
Ông rời ghế đứng dậy đi ra cửa.
Bấy giờ Berg, tuồng như để xỉ mũi, rút khăn mùi soa ra và nhìn cái
nút thắt ở góc khăn, nghĩ ngợi một lát, buồn bã lắc đầu một cách có ý
nghĩa. Chàng nói:
- À, thưa ba, con có một việc quan trọng cầu xin ba…
- Hả?… - bá tước dừng lại nói.
- Vừa rồi con đi ngang nhà Yuxupov, - Berg tươi cười nói, - Viên quản lý
nhà này vốn quen con, chạy ra hỏi xem con có mua gì không. Con ghé vào…
ấy, cũng chỉ vì tò mò muốn xem thử. Trong ấy có một cái tủ con và một
cái bàn trang điểm thật là… Chắc ba cũng biết rằng Veruska vẫn ước ao
có một cái bàn như thế, chúng con đã có lần cãi nhau về việc này (khi
nói đến chiếc tủ con và cái bàn trang điểm Berg bất giác chuyển sang cái
giọng vui mừng mà chàng vẫn thường có mỗi khi nói đến những tiện nghi
trong nhà chàng). Trông thích quá: có nhiều ngăn rút ra được, lại có một
cái ngăn kéo bí mật kiểu Anh nữa ba ạ! Veruska muốn có một chiếc từ
lâu. Cho nên con muốn cho nhà con một món quà bất ngờ. Ở đây con thấy có
nhiều nông dân ở ngoài sân. Ba cho con mượn một đứa, con sẽ cho tiền
uống rượu rất hậu và…
Bá tước cau mày và đằng hắng mấy cái.
- Anh hỏi bá tước phu nhân ấy, tôi không biết.
Nếu phiền thì thôi vậy, - Berg nói. - Nguyên con chỉ muốn làm cho Veruska mừng.
- Chà thôi! Cút hết đi cho rảnh, cút đi, cút đi!. - Lão bá tước quát, Váng hết cả đáu lên! - Nói đoạn bá tước bỏ ra ngoài.
Bá tước phu nhân khóc.
- Phải! Thưa mẹ, thời buổi thật là khó khăn, - Berg nói.
Natasa theo bố và có vẻ đang chật vật suy nghĩ điều gì lúc đầu còn
đi theo bá tước, nhưng về sau nghĩ thế nào nàng lại rẽ xuống thang gác.
Trên bậc thềm, Petya đang đứng phân phát vũ khí cho các gia nhân sẽ ra
khỏi Moskva. Những chiếc xe tải đã thắng ngựa vẫn đứng ngoài sân. Có hai
chiếc đã tháo dây ràng. Một viên sĩ quán, có một người lính cần vụ đỡ,
đang leo lên một trong hai chiếc xe ấy.
- Chị có biết vì việc gì không? - Petya hỏi Natasa (Natasa hiểu ngay
rằng Petya muốn hỏi vì sao cha mẹ cãi nhau). Nàng không đáp.
- Vì cha muốn nhường tất cả các xe vận tải cho thương bình, Petya nói. - Valxilits bảo em thế. Em thì em cho rằng…
- Tao thì tao cho rằng… - Natasa bỗng quay mặt vào Petya nói to gần như
quát lên, vẻ giận dữ… tao cho rằng như thế thật là xấu xa, thật là ti
tiện hết sức! Chúng ta có phải là người Đức đâu chứ?
Cổ nàng nghẹn ngào vì những tiếng nấc. Và sợ rằng cơn giận của mình
sẽ giảm bớt nếu để cho nó phát tiết ra một cách vô ích, nàng hấp tấp
quay gót và chạy rất nhanh lên thang gác. Berg đang ngồi cạnh bá tước
phu nhân, lựa lời kính cẩn và thân mật an ủi bà nhạc.
Bá tước tay cầm tẩu thuốc đang đi đi lại lại trong phòng khi Natasa
mặt này muốn biến sắc đi vì tức giận chạy xổ vào như một trận cuồng
phong và bước rất nhanh về phía mẹ.
- Thật là ghê tởm, thật là ti tiện - Nàng quát lên. Không thể tin là mẹ đã bảo họ làm như vậy được.
Berg và bá tước phu nhân ngơ ngác và kinh hãi nhìn nàng. Bá tước dừng lại bên cửa sổ lắng tai nghe ngóng.
- Mẹ ạ, không thể như thế được; mẹ thử nhìn ra sân mà xem! - nàng thét lên. - Họ phải ở lại đấy!
Con làm sao thế? Họ là ai? Con muốn làm gì?
- Họ là thương binh ấy! Không thể như thế được mẹ ạ; như thế thì chẳng
còn ra làm sao nữa… không phải, mẹ yêu dấu của con ạ: không phải thế, mẹ
tha lỗi cho con, mẹ ạ. Mẹ ơi những đồ đạc chúng ta mang đi theo, đối
với nhà ta có nghĩa gì! Chỉ xin mẹ nhìn ra sân mà xem… Mẹ ạ!… Không thể
như thế được!…
Bá tước đứng lên cửa sổ nghe Natasa nói, không ngoảnh mặt lại. Bỗng ông bắt đầu thở phì phì và ghé mắt sát cửa sổ.
Bá tước phu nhân đưa mắt nhìn con; bà đã thấy cái vẻ hổ thẹn thay
cho mẹ trên gương mặt Natasa, bà đã thấy rõ nàng xúc động đến nhường
nào, và đã hiểu tại sao chồng bà không ngoảnh mắt lại nhìn bà. Bá tước
phu nhân bàng hoàng đưa mắt nhìn quanh.
- Chà, thôi các người muốn làm gì thì làm. Tôi có hề ngăn cản ai đâu? - Phu nhân nói, tuy vẫn chưa chịu thua hẳn.
- Mẹ ơi, mẹ yêu dấu của con, mẹ tha thứ cho con!
Nhưng bá tước phu nhân đẩy con gái ra và lại gần bá tước.
- Mình ạ! - mình xem nên thế nào thì cứ bảo nó làm… vừa rồi là vì tôi không rõ.
Phu nhân nói, mắt nhìn xuống đất như người có lỗi.
- Trứng… trứng mà lại đòi dạy khôn cho vịt… - bá tước nói nghẹn ngào qua
những giọt nước mắt sung sướng ôm hôn phu nhân bấy giờ đang hài lòng
được giấu khuôn mặt hổ thẹn của mình vào ngực chồng.
- Ba ơi, mẹ ơi! Cho con đi bảo họ nhé! Nhé… - Natasa nói. - Chúng ta vẫn sẽ mang theo những thứ gì cần thiết.
Bá tước gật đầu ưng thuận, và Natasa chạy rất nhanh như những khi
chơi trò chạy thi, lao mình qua phòng lớn, đâm bổ vào phòng trước và
nhảy xuống thang gác ra sân.
Gia nhân vây quanh Natasa và không chịu tin cái mệnh lệnh kỳ quái
mà nàng truyền đạt lại, mãi cho đến khi bá tước phu thân hành thay mặt
cho phu nhân ra xác nhận nhường tất cả các xe tải cho thương binh, còn
rương hòm thì bỏ vào các nhà kho. Nghe xong, gia nhân vui mừng và cần
măn bắt tay vào công việc mới. Bây giờ không những cho việc này là kỳ
quặc, mà ai nấy còn thấy rằng không thể làm cách nào khác thế được.
Tất cả những người ở trong nhà, dường như lấy làm tiếc rằng, đã
không làm việc này sớm hơn, đều đon đả bắt tay vào việc xếp chỗ cho các
thương binh. Những người bị thương lê ra khỏi phòng, vây quanh mấy chiếc
xe tải, gương mặt xanh xao nhưng mừng rỡ. Ở các nhà bên cạnh cũng có
tin truyền đi là có xe tải chở thương binh, và những người bị thương có
nghỉ ở các nhà khác bắt đầu lục tục kéo đến gia đình Roxtov. Trong số
các thương binh có nhiều người yêu cầu đừng cất bỏ đồ đạc, cứ để cho họ
ngồi lên trên.
Nhưng đồ đạc đã bắt đầu bỏ xuống rồi và không thể ngừng được nữa.
Để lại tất cả hay để lại một nửa thì những bát đĩa, những tượng đồng,
những bức hoạ, những tấm gương mà đêm qua họ đã ra công xếp đặt cẩn thận
như vâỵ, thế nhưng họ vẫn tìm ra cách bỏ bớt thêm nhiều đồ đạc nữa để
có thêm xe cho thương binh.
- Có thể chở thêm bốn người nữa - viên quản lý nói, - Tôi xin nhường chiếc xe chở đồ đạc của tôi, chứ không thì họ sẽ ra sao?
- Cả chiếc xe chở tủ quần áo của tôi nữa, - bá tước phu nhân nói, - Dunusia sẽ cùng ngồi xe với chúng tôi cũng được.
Chiếc tủ áo cũng được bỏ xuống, và chiếc xe được đánh đi đón thương
binh ở cách đây hai nhà. Tất cả những người trong gia đình cũng như các
gia nhân đều phấn chấn vui vẻ. Natasa bấy giờ ở trong một tâm trạng
khích động và sung sướng mà đã từ lâu nàng chưa cảm thấy.
Mấy người đầy tớ đang cố buộc một chiếc hòm ở phía sau một cỗ xe. Họ nói:
- Làm thế nào mà buộc bây giờ? Ít ra cũng phải để lại một chiếc xe tải mới được.
- Hòm dựng gì thế? - Natasa hỏi.
- Đựng sách của bá tước.
- Để xuống. Vaxilits sẽ mang cất đi. Sách thì chẳng cần.
Trong xe đã chật ních. Họ băn khoăn hỏi nhau không biết Piotr sẽ ngồi vào đâu.
- Ngồi trên ghế xà ích ấy. Phải không Petya - Natasa gọi to.
Sonya cũng xếp dọn không ngừng tay; nhưng mục đích của nàng ngược
hẳn với mục dích của Natasa. Nàng thu xếp những đồ đạc phải bỏ lại kê
thành một danh sách theo nguyện vọng của bá tước phu nhân, và cố tim
cách mang theo được từng nào hay từng ấy.
Đến khoảng hơn một giờ trưa bốn cỗ xe nhà của gia đình Roxtov chở
nặng những đồ đạc và đã thắng ngựa sẵn sàng đứng ở trước thềm. Những
chiếc xe tải chở thương binh lần lượt từ trong sân kéo ra.
Chiếc xe song mã chở công tước Andrey khi đi ngang trước thềm đã
khiến Sonya chú ý; bấy giờ nàng đang cùng một người đày tớ gái xếp chỗ
ngồi cho bá tước phu nhân trong chiếc xe cao lớn của bà đỗ ở cạnh thềm.
Sonya ló đầu ra cửa xe hỏi:
- Xe ai thế nhỉ?
- Thế tiểu thư không biết à? - người đầy tớ giải đáp, - Xe của vị công
tước bị thương, tối qua ngủ tại nhà ta đấy. Xe của công tước sẽ cùng đi
với chúng mình.
- Công tước nào? Tên là gì?
Chàng rể ngày trước của nhà ta ấy mà, công tước Bolkonxki đấy! - Người đầy tớ thở dài đáp. Nghe nói sắp chết rồi thì phải.
Sonya nhảy vụt ra khỏi xe và chạy đi tìm bá tước phu nhân lúc bấy
giờ đã mặc quần áo đi đường, đội mũ và choàng khăn, vẻ mệt mỏi, đang đi
đi lại lại trong phòng khách chờ những người trong gia đình đến đóng cửa
phòng một lát(1) và cầu nguyện đôi chút trước khi ra đi. Natasa bấy giờ
không có mặt ở trong phòng.
- Mẹ ơi! - Sonya nói, - Công tước Andrey đang ở đây, bị thương gần chết. Anh ấy sẽ cùng đi với nhà ta.
Bá tước phu nhân kinh hãi mở mắt ra và nắm lấy tay Sonya lấm lét nhìn quanh, thều thào:
- Natasa?
Đối với Sonya cũng như đối với bá tước phu nhân, tin này thoạt đầu
chỉ có một ý nghĩa duy nhất. Họ đều biết rõ Natasa của họ, và mối lo cho
tình trạng của nàng khi nàng biết tin này lấn át hết lòng thương đối
với con người mà cả hai đều quý mến. Sonya nói:
- Natasa chưa biết; nhưng anh ấy sẽ đi cùng với chúng ta.
- Con vừa bảo là anh ấy sắp chết à?
Sonya gật đầu:
Bá tước phu nhân ôm chầm lấy Sonya mà khóc.
"Không ai lường hết được những con đường do Chúa định" - Bà nghĩ
thầm, lòng cảm thấy trong tất cả những sự việc đang diễn ra đã bắt đầu
hiện bàn tay quyền lực vô cùng mà trước kia mắt của con người không thể
trông thấy.
- Mẹ ạ xong cả rồi đấy. Mẹ với Sonya có chuyện gì thế… - Natasa chạy vào phòng nói, gương mặt phấn chấn.
- Có chuyện gì đâu, - bá tước phu nhân nói, - Xong rồi à, thế thì ta đi,
- Và phu nhân cúi xuống sát chiếc túi thêu để giấu vẻ mặt biến sắc đi
vì xúc động. Sonya ôm lấy Natasa và hôn nàng.
Natasa đưa mắt nhìn Sonya có ý dò hỏi:
- Sonya làm sao thế? Có việc gì xảy ra?
- Không… chẳng có gì cả.
Natasa vốn rất tinh ý; nàng hỏi ngay:
Có chuyện không hay cho em à? Chuyện gì thế?
Sonya thở dài không đáp. Bá tước, Piotr, bà Schoss, Vaxilits bước
vào phòng khách, họ đóng các cửa lại và mọi người im lặng ngồi xuống một
lát, không ai nhìn ai.
Bá tước đứng dậy trước tiên và thở dài đánh phào một cái, đưa tay
làm dấu thánh trước bức tượng thánh. Mọi người đều làm theo.
Rồi bá tước ôm hôn Mavra Kuzminísna là người sẽ ở lại Moskva và
trong khi họ cầm lấy tay và hôn lên vai ông, bá tước vỗ nhè nhẹ lên lưng
họ, miệng lắp bắp mấy câu gì không nghe rõ nhưng rất dịu dàng, ý chừng
muốn an ủi họ. Bá tước phu nhân bỏ vào phòng bày tượng thánh, Sonya vào
theo thì thấy phu nhân đang quỳ trước những bức tượng còn lại rải rác
trên tường (những bức quý nhất, có gắn bó với nhiều kỉ niệm gia đình,
thì đều được mang theo).
Trên thềm và trong sân, các gia nhân tuỳ hành đeo những chiếc dao găm
và những thanh gươm mà Petya đã phân phát cho họ, ống quần xỏ vào ủng,
mình nai nịt rất chặt, đang từ biệt những người ở lạì.
Cũng như ta vẫn thường thấy những khi ra đi, có rất nhiều vật bị bỏ
quên hoặc không được xếp đặt chu đáo cho nên hai người hành bộc đứng hai
bên cửa xe để chuẩn bị đỡ bá tước phu nhân bước lên bậc phải đứng chờ
khá lâu, trong khi mấy người đày tớ gái từ trong nhà mang thêm nào là
gối đệm, nào là tay nải chạy ra xe, hết xe này lại đến xe kia, rồi lại
chạy vào nhà.
- Các người suốt đời cái gì cũng quên! - Bá tước phu nhân nói. - Mày cũng biết là tao có ngồi được thế này đâu!
Yefim nghiến răng không đáp, gương mặt biểu lộ vẻ oán trách, và nhảy vào xe sửa lại chỗ ngồi.
- Chà, cái bọn này! - Bá tước lắc đầu nói.
Lão Yefim. người xà ích duy nhất được bá tước phu nhân tin cậy và để cho
đánh xe, ngất ngưởng trên ghế xà ích, không hề lần nào quay lại nhìn
lại phía sau. Ba mươi năm kinh nghiệm đã cho lão biết rằng còn phải chờ
lâu mới nghe câu: "Gửi Chúa!" và ngay đến khi ra lệnh lên đường, thì
người ta cũng lại bảo dừng xe vài lần để sai người chạy về lấy mấy thứ
bỏ quên, và sau đó lại bảo dừng xe một lát nữa, và tự thân bá tước phu
nhân sẽ ló đầu ra cửa xe để dặn dò khẩn khoản lão ta cho xe đi cẩn thận
mỗi lần xuống dốc. Lão biết như vậy cho nên lão cứ bình tâm chờ đợi,
kiên nhẫn hơn mấy con ngựa, nhất là con ngựa hung thắng bên trái tên là
Xokol, lúc bấy giờ đang dẫm chân và cắn hàm thiếc.
Cuối cùng mọi người đã lên xe. Bậc xe đã được nhấc lên và bỏ vào trong,
cánh cửa xe đã đóng lại, phu nhân đã cho người chạy trở lại lấy thêm cái
tráp; và đã dặn dò khi xuống dốc phải cấn thận. Lúc bấy giờ Yefim mới
chậm rãi cất mũ và làm dấu thánh giá. Người quản mã và các gia nhân đều
làm theo. Yefim đội mũ lên đầu nói:
- Gửi Chúa!
Người mã phu cho ngựa xuất phát. Con ngựa bên phải rướn cổ dưới
chiếc vòng càng, những ổ díp cao kêu cót két, và thùng xe lắc lư chuyển
đi. Người hành bộc nhảy lên chiếc xà ích trong khi chiếc xe chuyển bánh.
Chiếc xe khi ra đến đường cái vấp bánh vào tảng đá lát dường gập nghềnh
và xóc lên một cái; các xe khác khi đi ngang chỗ đó cũng lần lượt xóc
lên, và đoàn xe nối đuôi nhau trên đường phố đi ngược lên dốc. Khi đi
ngang qua chiếc nhà thờ ở trước mặt, mọi người ở trên xe kiệu, xe mui,
xe Briska đều làm dấu thánh giá. Các gia nhân ở lại Moskva đi hai bên
đoàn xe, tiễn chân những người ra đi một đoạn.
Natasa ít khi có được một cảm giác vui mừng như bấy giờ khi ngồi cạnh bá
tước phu nhân trong cỗ xe ngắm những bức tường của Moskva đang bị rời
bỏ chậm rãi lùi về phía sau, rồi nhìn ra sau.
Thỉnh thoảng nàng lại thò đầu ra ngoài cửa sau, rồi nhìn về phía
trước, xem đoàn xe tải dài chở thương binh đi trước xe họ. Ở quãng đầu
của đoàn xe này có thể trông thấy chiếc xe song mã buông mui kín của
công tước Andrey. Nàng không biết người nào đang ở trên xe, nhưng cứ mỗi
lần muốn biết vị trí của đoàn xe nàng lại đưa mắt tìm chiếc xe song mã.
Nàng biết rằng nó đi đầu đoàn.
Ở Kudrin có mấy đoàn xe tương tự như đoàn xe của nhà Roxtov. Từ phố
Nikitxkaya, từ Prexnya, từ Potnivinxki đổ ra và dọc phố Xadovaya bấy giờ
đã có hai hàng xe nhà và xe tải đi song song.
Khi đi xung quanh tháp Xukharev, Natasa bấy giờ đang tò mò đưa mắt nhanh
nhìn qua những đám người đi xe và đi bộ, bỗng vui mừng và ngạc nhiên
reo to:
- Trời ơi! Mẹ xem kìa, Sonya xem kìa, đúng là anh ấy!
- Ai? Ai?
- Xem kìa, trời ơi, anh Bezukhov đấy? - Natasa nói, người chồm ra ngoài
cửa xe nhìn một người cao to lớn và to béo mặc áo kaftan kiểu như những
người đánh xe ngựa thường mặc, cứ trông dáng người và cách đi cũng rõ là
người quý tộc cải trang, đang đi cạnh một ông già thấp bé không có râu
tiến về phía cái cổng tò vò ở tháp Xukharev. Natasa nói:
- Trời ơi, đúng là anh Bezukhov mặc áo kaftan, đi với một ông già bé loắt choắt như trẻ con ấy. Trời ơi, xem kìa, xem kìa!
- Không phải đâu, làm gì có chuyện vô lý thế.
- Mẹ ơi! - Natasa kêu to lên, - Không phải anh ấy thì mẹ cứ chặt đầu con
đi! Con cam đoan với mẹ như thế. Đứng lại, đứng lại! - nàng thét người
đánh xe; nhưng người đánh xe không sao dừng lại được vì lúc bấy giờ từ
phố Messanxkaya lại có thêm những đoàn xe nhà và xe tải kéo ra, họ cứ
quát tháo đoàn xe của gia đình Roxtov, giục đi đi để khỏi nghẽn lối
người khác.
Quả nhiên, tuy bấy giờ xe đã đi cách chỗ lúc nãy, mọi người trong
gia đình Roxtov đều trông thấy Piotr, hay là một người nào giống Piotr
một cách dị thường, mặc áo kiểu kaftan của những người đánh xe, đang
bước trên đường phố, đầu cúi gầm và vẻ mặt nghiêm trang, bên cạnh một
ông già nhỏ không có râu, trông như một người nô bộc. Ông già đã để ý
thấy người con gái ở trong cửa xe nhòm ra, và kính cẩn chạm vào khuỷu
tay Piotr, vừa nói gì với chàng vừa chỉ về phía chiếc xe song mã. Piotr
hồi lâu không hiểu ông ta nói gì, vì hình như chàng đang mải suy nghĩ
miên man. Cuối cùng, khi đã hiểu chàng nhìn theo hướng tay chỉ, nhận ra
Natasa và chưa kịp suy nghĩ, chàng lập tức tiến về phía xe. Nhưng đi
được mươi bước, chàng lại như sực như nhớ ra điều gì, liền dừng lại.
Natasa bấy giờ đang chồm ra ngoài cửa sổ, gương mặt nàng vụt sáng lên trong một nụ cười trìu mến và chế giễu.
- Anh Piotr Kirilyts! Lại đây nào! Chúng tôi nhận ra anh rồi! Thật là kì
lạ - nàng giơ tay về phía Piotr gọi to. - Anh làm sao thế? Sao anh lại
mặc thế này?
Piotr cầm lấy bàn tay giơ ra và vừa bước vừa hôn lên bàn tay một cách vụng về (vì lúc bấy giờ xe vẫn tiếp tục đi)
- Bá tước làm sao thế? - Phu nhân hỏi, giọng ngạc nhiên và có ý thương xót.
- Làm sao? Tại sao à? Thôi xin miễn hỏi, - Piotr nói đoạn đưa mắt nhìn
Natasa lúc bấy giờ đang nhìn chàng với đôi mắt long lanh (ngay khi chàng
chưa nhìn. Piotr cũng đã cảm nhận được luồng mắt của nàng), toả ra một
ánh sáng huyền diệu đang thấm sâu vào người chàng.
- Anh thì thế nào? Hay là ở lại Moskva?
Piotr im lặng một lát rồi hỏi, có vẻ ngơ ngác:
- Ở lại Moskva? À vâng, ở lại Moskva. Thôi xin chào cô.
- Chà giá được làm đàn ông, tôi sẽ ở lại với anh ngay. Ờ hay quá - Natasa nói, - Mẹ cho con ở lại mẹ nhé.
Piotr thẫn thờ nhìn Natasa và toan nói một câu gì, nhưng bá tước phu nhân đã ngắt lời:
- Nghe nói bá tước có dự trận vừa rồi thì phải?
- Vâng, có, - Piotr đáp. Ngày mai sẽ có thêm một trận nữa - Piotr bắt đầu nói, nhưng Natasa đã ngắt lời chàng.
- Nhưng anh làm sao thế? Trông anh lạ quá.
- Thôi, xin đừng hỏi tôi, đừng hỏi nữa, chính tôi cũng chẳng hiểu ra làm
sao cả. Ngày mai, à không? Thôi xin chào. Xin chào nhé, thời buổi thật
là khủng khiếp!
Nói đoạn chàng bỏ đi lên vỉa hè.
Natasa vẫn chồm ra cửa xe, và ánh mắt sáng trong trẻo của nụ cười trìu
mến, vui vẻ, hơi giễu cợt của nàng hồi lâu còn chiếu dõi theo Piotr.

Chú thích:
(1) Theo phong tục Nga, khi tiễn biệt người đi xa, gia quyến đường ngồi im một lúc.
hết: Chương -15- 16-, xem tiếp: Chương -17 - 18-
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 EmptyWed Jan 05, 2011 9:36 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XI

Chương -17 - 18-


Từ ngày bỏ nhà ra đi mất tích, nghĩa là đã hai hôm nay, Piotr trú ở
gian nhà trống trải của Bazdeyev, vị ân nhân quá cố. Nguyên đầu đuôi
như thế này.
Sáng hôm ấy, sau khi trở về Moskva và gặp bá tước Raxtovsin,
Piotr ngủ dậy và ngơ ngác hồi lâu không hiểu mình đang ở đâu và người ta
muốn gì mình. Đến khi người nhà vào báo cho chàng biết tên những nhân
vật đang đợi chàng ở ngoài phòng khách, trong đó có một người Pháp mang
đến cho một bức thư của bá tước phu nhân, Elena Vaxilievna, chàng bỗng
thấy có cảm giác bàng hoàng và tuyệt vọng đã nhiều lần khống chế tâm hồn
chàng. Chàng bỗng hình dung giờ chẳng còn gì nữa, mọi vật đều hỗn loạn,
sụp đổ, không còn có cái gì là phải, cái gì là trái, trước mắt chàng sẽ
không còn có triển vọng gì nữa, và không thể có một lối nào thoát ra
khỏi tình trạng hiện nay. Chàng mỉm cười gượng gạo, lắp bắp mấy tiếng
trong miệng, rồi ngồi phịch xuống đi-văng, người như rã rời ra, rồi lại
đứng dậy đến ghé mắt vào khe cửa nhìn ra phòng tiếp khách, rồi lại khoát
tay một cái trở về chỗ cũ và vớ lấy một quyển sách.
Người quản gia vào bảo Piotr một lần nữa rằng cái người Pháp đem
thư của bá tước phu nhân lại khẩn khoản xin gặp chàng, dù chỉ một phút
cũng được, và có người nhà bà quả phụ ở L.A Bazdeyev đến mời chàng lại
nhận sách, vì bản thân bà Bazdeyev thì đã về quê rồi.
- À phải, tôi ra ngay, khoan đã… Hay là thôi… à không, anh ra nói với họ là tôi sẽ ra ngay, - Piotr nói với viên quản gia.
Nhưng viên quản gia vừa ra khỏi phòng làm việc thì Piotr liền với
lấy cái mũ đặt trên bàn và đi cửa sau ra khỏi phòng làm việc.
Trong hành lang không có ai cả. Piotr đi hết dãy hành lang đến cầu
thang nhăn mặt, đưa tay lên xoa trán rói đi xuống thang gác cho đến chỗ
trạm hàng thứ nhất. Người gác cổng đang đứng ở trước cửa chính. Từ chỗ
đầu cầu thang Piotr đang đứng, có một cái thang khác đưa ra ngoài cửa
sau, Piotr đi theo cầu thang ấy và ra sân. Không có ai trông thấy chàng
cả. Nhưng ở ngoài phố, khi chàng vừa ra khỏi cổng, thì mấy người xà ích
đứng bên xe và người gác cổng nhận ra chủ nhân và cất mũ chào chàng. Cảm
thấy mắt họ đang đổ dồn vào mình, Piotr liền hành động như con đà điểu
rúc đầu vào bụi để cho người ta đừng trông thấy mình: chàng cúi đầu và
rảo bước đi thật nhanh ra ngoài phố.
Trong tất cả các công việc mà Piotr phải làm sáng hôm ấy, chỉ có
việc đến lựa chọn sách vở và giấy tờ của Ioxif Bazdeyev là quan trọng
hơn cả.
Gặp một chiếc xe thuê, chàng gọi ngay và bảo đánh đến đầm Patnarsi, nơi bà quả phụ Bazdeyev ở.
Ngồi trên xe, chàng cứ đưa mắt chung quanh nhìn những đoàn xe đang
kéo ra ngoài thành Moskva, và chốc chốc lại ngồi lại cho ngay ngắn để
cho cái thân hình to béo của chàng khỏi tụt ra ngoài chiếc xe cũ kỹ chạy
lắc lư. Chàng có một cảm giác vui mừng như cảm giác một dứa trẻ vừa
chốn học ra khỏi trường học. Piotr bắt chuyện với người xà ích.
Người xà ích kể cho chàng nghe là hôm nay ở điện Kreml sẽ phát vũ
khí, và đến mai người ta sẽ lùa hết dân ra cửa ô Trigorư, và ở đấy sẽ có
một trận đánh lớn.
Đến đầm Patriarsi, Piotr đi tìm căn nhà của Bazdeyev, nơi mà đã
lâu nay chàng không lui tới. Chàng đến gần cổng vườn Geraxim, ông già
vàng võ, thấp bé mà năm năm về trước Piotr đã từng gặp đi với Ioxif
Bazdeyev ở Torzok, nghe chàng đấm cổng liền chạy ra.
- Có ai ở nhà không? - Piotr nói.
- Thưa đại nhân, vì tình hình hiện nay, bà Sofia Danilovna đã đưa các cháu về làng Torzok rồi ạ.
- Tôi cũng cứ vào, tôi phải đến lựa sách, - Piotr nói.
- Xin ngài cứ vào ạ, xin mời ngài, - người lão bộc nói. - Người em trai
của ông Ioxif Bazdeyev hiện ở lại đây, và như ngài cũng rõ, ông ấy… dở
hơi.
Piotr biết rằng Makar Alekxeyevich, em trai của Ioxif Bazdeyev, là một người dở hơi điên dại, suốt ngày uống rượu.
- Phải, phải, tôi biết. Ta vào đi, ta vào đi… - Piotr nói đoạn bước vào nhà.
Một ông già to lớn, đầu hói, mũ đỏ, đi chân không trong đôi giày bọc
đang đứng ở cửa ra vào, trông thấy Piotr, ông ta có vẻ phật ý, càu nhàu
mấy tiếng gì không rõ và đi vào hành lang.
Geraxim nói:
- Trước kia ông ấy thông minh lỗi lạc, nhưng bây giờ, ngài cũng thấy đấy, bây giờ ông ấy dở hơi. Vào phòng làm việc chứ ạ?
Piotr gật đầu.
- Phòng này đã được niêm phong, bây giờ vẫn y nguyên. Nhưng bà Sofia
Danilovna đã dặn hễ có người nhà ngài đến thì giao sách lại.
Piotr bước vào. Đây chính là căn phòng làm việc âm u mà hồi vị ân nhân
còn sống cứ mỗi lần vào, chàng lại bồi hồi xúc động. Căn phòng ấy bây
giờ đã phủ bụi và không có ai dộng đến từ ngày Ioxif Alekxeyevich qua
đời, nên lại càng có vẻ u ám thêm.
Genraxim mở một cánh cửa sổ và rón rén bước ra khỏi phòng.
Piotr đi quanh căn phòng làm việc, lại gần chiếc tủ đựng các thủ
cảo và lấy ra một tập giấy. Đây là một trong những thành tích quý giá
nhất của hội: tập hiến chương Scotland chính bản có những lời ghi chú và
thuyết minh của vị ân nhân. Chàng ngồi xuống trước cái bàn giấy phủ bụi
và đặt tập thư cảo trước mặt giở ra, gấp lại một lát rồi ẩy ra xa,
chống khuỷu tay ôm đầu suy nghĩ.
Đã mấy lần Genraxim thận trọng ghé nhìn vào phòng mà vẫn thấy Piotr ngồi
ở tư thế đó. Hơn hai giờ trôi qua, Genraxim đánh bạo làm ồn ở ngoài cửa
để Piotr chú ý. Nhưng Piotr không nghe thấy gì cả.
- Thưa ngài cho chiếc xe thuê đi chứ ạ?
- À phải, - Piotr sực tỉnh và vội vàng đứng dậy. - Này bác Geraxim, -
chàng nói, rồi nắm lấy khuy áo ngoài của người lão bộc, chàng đưa đôi
mắt ướt sáng long lanh và hứng khởi từ trên cao nhìn xuống Geraxim. -
Này bác, bác cũng biết ngày mai có một trận đánh nhau chứ?
- Nghe họ bảo thế, - Geraxim đáp.
- Tôi yêu cầu bác đừng nói cho ai biết tôi là ai. Và bác hãy làm theo những điều tôi bảo…
- Xin vâng lệnh, - Geraxim nói. - Bẩm ngài có muốn tôi dọn thức ăn không ạ?
- Không, tôi cần cái khác kia. Tôi cần một bộ áo nông dân và một khẩu súng ngắn, - Piotr nói đoạn bỗng đỏ mặt.
Geraxim ngâm nghĩ một lát rồi nói:
- Xin vâng lệnh ạ.
Suốt ngày hôm ấy, Piotr ngồi lại một mình trong gian phòng làm
việc của vị ân nhân, bứt rứt đi từ góc này sang góc nọ (Geraxim nghe rõ
bước chân của chàng và đoán biết như vậy), mồm lắp bắp nói một mình, và
đêm đó chàng ngủ lại trong chiếc giường dọn cho chàng ngay trong phòng
làm việc.
Với thói quen của một người đày tớ đã từng trông thấy nhiều điều kỳ
lạ trong đời mình, Geraxim không ngạc nhiên khi thấy Piotr đến như vậy,
lão lại còn có vẻ hài lòng là đã có một người để mà hầu hạ. Ngay tối hôm
ấy, không hề tự hỏi xem tại sao Piotr lại cần những thứ đó làm gì, lão
đi kiếm cho chàng một cái áo kaftan, một cái mũ chụp và hứa là đến mai
sẽ kiếm khẩu súng ngắn.
Tối hôm ấy, Makar Alekxeyevich hai lần đi giày bọc lẹp bẹp đến gần
của sổ rồi đứng lại nhìn Piotr có vẻ khúm núm. Nhưng Piotr vừa quay mặt
lại thì hắn ta lộ vẻ xấu hổ và tức giận, khép vạt áo dài ngủ và vội vàng
lảng đi. Trong khi Piotr mình mặc chiếc áo kaftan của anh xà ích mà
Geraxim đã kiếm được và đã dùng hơi nước giặt cho chàng, cùng người lão
bộc đến tháp Xukharev để mua súng ngắn, chàng đã gặp gia đình Roxtov.

18.
Đêm mồng tám tháng chín Kutuzov ra lệnh cho quân đội Nga rút qua Moskva kéo ra con đường Ryazan.
Những đoàn quân đầu tiên khởi hành từ lúc đang đêm. Trong đêm tối, các
đạo quân bước không vội vã, chậm rãi và tuấn tự chuyển đi; nhưng vào lúc
tờ mờ sáng, khi tiến đến gần cầu Dorogomilov, họ trông thấy ở phía
trước mặt, bên kia sông, có những đoàn quân đông nghìn nghịt đang vội vã
chen chúc nhau bên cầu kéo lên ùn ùn chật cả đường phố và ngõ hẻm, và ở
phía sau lại có những đám quân dày đặc đang thúc họ. Và một cảm giác
sốt ruột, hối hả, một nỗi hoang mang vô cớ bỗng tràn vào đám quân phía
trước, về phía cầu, chạy lên cầu, đổ xuống những chiếc cầu, đổ xuống
những chiếc thuyền và những chỗ nông có thể lội qua được, Kutuzov ra
lệnh dẫn ông đi vòng qua những phố chu vi, sang bờ bên kia Moskva.
Vào khoảng mừơi giờ sáng ngày mồng hai tháng chín, trong khu ngoại
Dorogomilov rộng thênh thang, người ta chỉ thấy còn lại những đơn vị của
đạo hậu quân. Đại quân đã kéo hết sang bên kia sông và ra khỏi thành
Moskva.
Cũng vào lúc ấy, hồi mười chín giờ sáng ngày mồng hai tháng chín,
Napoléon đang đứng ở giữa các đạo quân trên đồi Poklonny đưa mắt nhìn
cái quanh cảnh đang mở rộng ra trước mặt mình. Kể từ ngày hai mươi sáu
tháng tám cho đến khi quân địch tiến vào Moskva, suốt trong tuần lễ rộn
ràng và đáng ghi nhớ ấy, ngày nào cũng có cái thời tiết mùa thu khác
thường bao giờ cũng làm cho lòng người phải bỡ ngỡ, khi mặt trời như
thấp xuống, toả một ánh nắng ấm hơn mùa xuân, và trong làn không khí
loãng và trong, mọi vật đều ánh lên sáng ngời trông chói cả mắt; khi mà
lồng ngực thấy khoẻ khoắn và mát mẻ vì thở làn không khí thơm ngát của
mùa thu; khi mà ngay cả ban đêm trời vẫn ấm áp, và trong những đêm tối
tăm ấm áp ấy những ngôi sao hên tiếp đổi ngôi toả thành những vệt bụi
vàng khiến lòng người sợ hãi và vui mừng.
Ngày mồng hai tháng chín, hồi mười giờ sáng, khí trời cũng như vậy. Ánh
sáng ban mai thật là thần diệu. Từ ngọn đồi Poklonny trông xuống, Moskva
trải rộng ra bát ngát với con sông, với những khu vườn, những ngôi nhà
thờ của nó, và tưởng chừng như đang sống cuộc sống mọi ngày, với những
ngon tháp mái vòm rung rinh trong ánh nắng, lấp lánh như những vì sao.
Đứng trước cái thành phố kỳ lạ với những đường nét chưa hề thấy của một
kiểu kiến trúc khác thường, Napoléon có cái cảm giác hiếu kỳ phảng phất
lòng lo âu và ganh tị mà người ta thường trộng thấy những hình thức sinh
hoạt xa lạ không hề biết đến mình.
Rõ ràng là thành phố này đang sống với tất cả sức sống mãnh liệt của
nó. Có những dấu hiệu khó nói rõ, nhưng cho phép người ta dù ở cách xa
vẫn có thể phân biệt không lầm lẫn một thân thể đang sống với một thây
ma. Từ ngọn đồi Poklonny, Napoléon trông thấy cuộc sống đang rộn ràng
trong thành phố và cảm thấy cái thân thể lớn lao và đẹp đẽ ấy như đang
thở phập phồng.
Ai đã là người Nga, khi nhìn vào Moskva cũng phải cảm thấy rằng đây
là người mẹ của mình; một người ngoại quốc thì khi nhìn tuy không hiểu
cái ý nghĩa mẹ hiền của nó, cũng phải cảm thấy cái bản sắc phụ nữ của
thành phố này. Napoléon cũng cảm thấy điều đó.
Cái thành phố Á đông với vô số nhà thờ này, Moskva thành phố thần
thánh! Nó kia rồi, cái thành phố lừng lẫy ấy! Thật đã đến lúc! Napoléon
nói đoạn ngồi xuống ngựa và sai trải ra trước mặt một bản địa đồ của cái
thành phố Moscou này, rồi cho gọi phiên dịch viên Leorn Didivl lại.
"Một thành phố bị địch chiếm đóng cũng giống như một người con gái
đã mất danh tiết" - ông nghĩ thầm (trước đây ở Smolensk, ông cũng đã
từng nói với Tutskov như vậy). Và dưới nhãn quan ấy ông ngắm nhìn nàng
mỹ nữ phương Đông đang nằm trước mặt ông ta, nàng mĩ nữ mà xưa nay ông
chưa từng được nom thấy. Bản thân ông ta cũng phải lấy là quái lạ rằng
niềm ước vọng mà ông ta hằng ấp ủ từ lâu và vẫn có cảm tưởng như không
thể nào thực hiện được bây giờ đã thành sự thực. Trong ánh sáng trong
trẻo của buổi ban mai, ông đưa mắt hết nhìn vào thành phố lại nhìn tấm
địa đồ, kiểm tra lại từng chi tiết trong thành phố. Và lòng tin tưởng
chắc chắn là mình sắp chiếm hữu được thành phố này khiến ông bồi hồi và
kinh hãi.
"Nhưng có thể nào lại khác đi được? - ông thầm nghĩ. - Nó đây rồi,
cái kinh đô ấy đang nằm dưới chân ta, chờ đợi người ta định đoạt số phận
của nó. Bây giờ vua Alekxandr ở đâu? Ông ta nghĩ gì? Thật là một thành
phố kì dị, đẹp đẽ và hùng vĩ! Và giây phút này cũng đẹp đẽ và hùng dũng
làm sao! - Nghĩ đến quân sĩ, Napoléon tự hỏi - Họ sẽ nhìn ta như thế nào
đây? Nó đây rồi, món quà thưởng cho tất cả những kẻ thiếu lòng tin ấy, -
Napoléon thầm nghĩ trong khi nhìn bọn cận thần và những đoàn quân đang
tiến lại gần và dàn thành hàng ngũ. - Chỉ cần ta nói một lời, chỉ cần ta
vẫy tay một cái, thì cả kinh đô cổ kính của các Sa hoàng sẽ thành tro
bụi. Nhưng lòng khoan dung của ta bao giờ cũng sẵn sàng soi xuống những
kẻ chiến bại". Ta phải có đại lượng và hoạt động như một vĩ nhân chân
chính… Nhưng không, không phải ta đã ở Moskva thật đâu, - ý nghĩa đó vụt
thoáng qua trí óc Napoléon.
- Thế nhưng chính nó đang nằm dưới chân ta, với những mái tháp vòm khum
và những chiếc thập tự thiếp vàng đang lung linh trong ánh nắng. Nhưng
ta sẽ để cho nó được nguyên vẹn. Trên những di tích cổ kính của man rợ
và chuyên chế, ta sẽ viết lên hai chữ công lý và khoan hồng cao cả…
Chính cái đó sẽ làm cho Alekxandr thấm thía và xót xa hơn cả, ta biết rõ
con người ấy. (Napoléon có cảm tưởng là ý nghĩa chủ yếu của những việc
đang xảy ra bao gồm trong cuộc tranh chấp cá nhân giữa mình với
Alekxandr). Từ trên điện Kreml cao chót vót - phải, đó chính là điện
Kreml, - ta sẽ ban cho họ những đạo luật của công lý, ta sẽ làm cho con
cháu những người boyar(1) phải nhắc nhở một cách trìu mến tên tuổi của
những người đã chinh phục họ. Ta sẽ nói với phái đoàn của họ rằng trước
kia cũng như bây giờ ta không hề muốn chiến tranh; rằng sở dĩ ta tiến
hành một cuộc chiến tranh chỉ là vì muốn chống lại cái chính sách man
trá của triều đình họ, rằng ta yêu quý và kính trọng Alekxandr và ở
Moskva ta sẽ chấp nhận các điều khoản hoà ước xứng đáng với ta và với
các dân tộc được ta trị vì.
Ta không muốn lợi dụng những thắng lợi trong cuộc chiến tranh để làm
nhục nhà vua đáng kính. Ta sẽ nói với họ: Hỡi các vương công, ta không
muốn chiến tranh, ta muốn hoà bình và hạnh phúc, cho tất cả các thần dân
của ta. Vả chăng ta cũng biết rằng khi có mặt họ, lòng ta sẽ cảm hứng,
và ta sẽ nói với họ như ta vẫn thường nói xưa nay: rõ ràng, trang trọng
và cao cả. "Nhưng thế ra ta đến Moskva thật ư? Phải, chính nó kia
rồi!"
Truyền cho dẫn các boyar Nga đến gặp ta! - Napoléon quay lại nói với
đoàn tuỳ tùng. Một viên tướng lập tức phi ngựa đi tìm đoàn boyar, cùng
với một tốp sĩ quan hầu cận quan trọng.
Hai giờ trôi qua, Napoléon ăn điểm tâm sáng rồi trở lại đứng ở chỗ cũ,
trên đồi Poklonny, đợi đoàn đại biểu đến. Những lời sẽ nói với các vương
công kia đã hình thành rõ rệt trong trí tưởng tượng của Napoléon, Bài
diễn từ ấy sẽ có đủ các tư cách chững chạc, cái phong vị cao cả đúng như
Napoléon quan niệm.
Cái giọng khoan dung mà Napoléon định sử dụng ở Moskva làm cho bản
thân ông ta thấy say sưa, trong tưởng tượng, ông ấn định những ngày hội
họp trong cung điện các Sa hoàng trong buổi họp ấy, các vương công Nga
sẽ gặp mặt các đại thần của hoàng đế Pháp. Ông bổ nhiệm trong trí óc một
viên tổ chức biết cách lấy lòng dân. Được biết rằng ở Moskva có nhiều
tổ chức từ thiện, ông quyết định trong tưởng tượng là sẽ ban cấp rất
nhiều ân huệ cho các tổ chức này. Ông nghĩ rằng nếu ở châu Phi phải mặc
áo burnu ngồi trong đền Hồi Giáo, thì ở Moskva cũng phải có lòng từ
thiện như các Sa hoàng. Và để làm cho người Nga cảm động đến tận đáy
lòng - cũng như mọi người Pháp, ông không thể tưởng tượng ra một cái gì
cảm động mà lại không nhắc nhở đến người mẹ yêu dấu, người mẹ dịu hiền,
người mẹ đáng thương của tôi - Napoléon quyết định là trên tất cả các
toà nhà từ thiện ấy sẽ ra lệnh đề bằng chữ lớn: Toà nhà này dâng mẹ tôi.
Không chỉ nên đề: "Nhà của mẹ tôi" - ông tự chủ như vậy. - "Nhưng thế
ra ta ở Moskva thật rồi ư? Phải, đây, nó đang ở trước mắt ta. Nhưng sao
đoàn đại biểu thành phố mãi vẫn chưa thấy đến?"
Trong khi đó, ở các hàng phía sau của đoàn tuỳ giá, các tướng quân
và thống soái của hoàng đế được phái đi tìm đoàn đại biểu đã trở về báo
tin rằng Moskva nay không còn lấy một bóng người, dân cư đều đã bỏ đi
hết, kẻ đi xe, người đi bộ. Gương mặt của những người đương bàn tán đến
tái mét và lộ vẻ khích động. Họ kinh hãi không phải vì thành Moskva đã
bị dân chúng dời bỏ (tuy biến cố này cũng có vẻ rất quan trọng), và lại
vì không biết nên báo tin này với hoàng đế như thế nào cho khỏi đặt ngài
vào cái tình trạng đáng sợ mà người Pháp gọi là le ridicule (lố bịch),
không biết làm thế nào để tâu lại với ngài là người chờ đợi bọn boyar
lâu như vậy chỉ uổng công, là quả có những đám người say rượu ở trong
thành, nhưng ngoài ra chẳng còn ai nữa. Người thì nói rằng thế nào cũng
phải tập hợp cho kỳ được một đoàn đại biểu nhì nhằng gì đó, người thì
bác lại ý kiến này và bảo rằng cần phải khôn khéo và thận trọng chuẩn bị
tư tưởng cho hoàng thượng rồi tâu rõ sự thật để ngài biết.
- Dù sao thì cũng phải tâu để ngài rõ… - các vị trong đoàn tuỳ giá nói -
Nhưng, thưa các ngài… tình thế lại càng nan giải hơn nữa là vì hoàng đế
bây giờ đang kiên nhẫn đi đi lại lại trước tấm bản đồ suy nghĩ đến
những kế hoạch phô trương lòng khoan dung đại độ của mình, thỉnh thoảng
lại đưa tay lên che mắt nhìn xuống con đường dẫn vào Moskva, môi mỉm một
cười vui vẻ và kiêu hãnh.
- Nhưng không thể như vậy được! - Các ngài trong đoàn tuỳ tùng nhún vai
nói, họ không sao dám nói lên cái chữ kinh khủng mà họ đều nghĩ thầm
trong bụng: ridicule (lố bịch).
Trong khi đó hoàng đế chờ mãi chẳng thấy gì đã phát chán, và với
các trực giác bén nhạy của người kép hát, ngài đã cảm thấy rằng cái phút
uy nghi này kéo dài quá lâu nên đã bắt đầu mất cái tính chất uy nghi
của nó. Ngài liền vẫy tay ra hiệu. Một phát súng lệnh đơn độc nổ vang,
và các đoàn quân đang vây bọc Moskva liền tiến về các cửa ô Tver, Kaluga
và Dorogomilov. Các đoàn quân tiến mỗi lúc một nhanh, đơn vị này vượt
qua đơn vị kia, bộ binh thì chạy, kỵ binh thì phóng nước kiệu, che phủ
trong những hàng bụi mù mịt do họ tung lên, và reo hò vang dậy, tiếng
reo hò hoà lẫn vào nhau, làm chấn động cả một góc trời.
Bị thế quân tiến ào ạt lôi cuốn theo, Napoléon cùng quân sĩ cưỡi
ngựa đến cửa ô Dorogomilov. nhưng đến đây ông ta lại dừng lại xuống
ngựa, và đi đi lại lại hồi lâu trước bức thành của toà Kamer Kolesxki,
chở đoàn đại biểu.

Chú thích:
(1) Đại quý tộc Nga, chỗ dựa của Sa hoàng (bãi bỏ từ năm 1750)
hết: Chương -17 - 18-, xem tiếp: Chương -19 -2o -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 EmptyWed Jan 05, 2011 9:36 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XI

Chương -19 -2o -


Trong khi đó thì Moskva đã trống rỗng. Trong thành phố cũng hãy còn
có người, một phần năm mươi trong số dân cư vân còn ở lại nhưng thành
phố vẫn trống rỗng. Nó trống rỗng như một tổ ong đã mất chúa đang thoi
thóp chết dần.
Trong một tổ ong đã mất con ong chúa rồi thì không còn có sự sống nữa,
nhưng nếu chỉ nhìn hời hợt bên ngoài thì nó cũng có vẻ sinh động như
những tổ khác.
Dưới những tia nắng nóng ran của mặt trời buổi trưa, ong vẫn bay
lượn thành vòng quanh cái tổ mất chúa, cũng như quanh các tổ ong còn
sống; từ xa cũng ngửi thấy mùi mật trong tổ đưa ra, những con ong thợ
vẫn bay ra bay vào như cũ. Nhưng chỉ cần ghé mắt nhìn kỹ vào tổ cũng đủ
hiểu rằng ở đấy không còn có sự sống nữa.
Ong tuy có bay nhưng không phải như là ở các tổ còn sống, mùi mật và
tiếng vo ve cũng chẳng phải là cái mùi mật và cái tiếng vo ve bình
thường, khiến người nuôi ong phải kinh ngạc, khi người nuôi ong gõ vào
vách cái tổ ong có bệnh, thì không hề nghe tiếng vo ve đều đều lập tức
đáp lại như trước kia, tiếng của hàng vạn con ong chồng ngược thân sau
lên và phẩy cánh vù vù gây nên cái âm thanh nhẹ nhàng như hơi thở của sự
sống. Ở đây chỉ có những tiếng vù vù rời rạc, mỗi tiếng một phách, từ
góc này góc khác của tổ ong trống rỗng phát ra. Từ cửa tổ không còn
phảng phất cái mùi thơm ngát, nồng sâu của mật ong và nọc ong, không còn
toả ra cái hơi ấm của sự no đủ như trước nữa; mà trong mùi mật có lẫn
cả cái mùi của sự trống trải cả tan rữa. Ở cửa tổ không còn có những
quân canh mẫn cán cong đít lên sẵn sàng hy sinh để bảo vệ tổ quốc. Không
còn cái âm thanh khe khẽ và đều đều như tiếng nước sôi báo hiệu công
cuộc lao động rầm rộ tiến hành, chỉ nghe có tiếng ồn ào rời rạc, lạc
điệu của cảnh hỗn độn. Những con ong kẻ cướp mình đen và dài bê bết
những mật bay ra bay vào một cách rụt rè mà khéo léo; chúng không đốt
người, mà lại lẩn tránh nguy hiểm.
Trước kia chỉ có những con ong mang nhuỵ hoa bay vào tổ, còn những con
bay ra thì bay mình không; bây giờ thl những con bay ra cũng mang mật
theo ra. Người nuôi ong mở ngăn dưới của tổ ong ra xem. Trước kia những
đám ong đen kịt, bỗng đầy mật, yên tĩnh vì đã làm được việc nhiều, chân
con này bám vào chân con kia thành chùm treo xuống tận đáy, những con
ong bò đi kéo sát trong tiếng rì rào không ngớt của lao động, thì bây
giờ chỉ còn thấy những con ong khô héo, ngái ngủ, vật vờ đi lang thang
trên thành và trên đáy tổ. Trước kia tấm sàn phết nhựa được cánh ong
quạt sạch bóng, thì nay trên sàn ngổn ngang những mảnh sáp, những mảnh
cứt ong, những con ong chết dở chỉ còn khẽ cựa chân và những con ong đã
chết hẳn còn bỏ đó.
Người nuôi ong mở ngăn trên ra xem. Trước kia từng đãy ong dày đặc bịt
kín tất cả các ngăn mật và sưởi ấm cho trứng ong, thì bây giờ chỉ thấy
cái cơ cấu tinh vi phức tạp của các ngăn sáp, nhưng không còn cái vẻ
trinh bạch như cũ nữa. Tất cả đều bị bỏ lại và đã ô uế. Những con ong
đen kẻ cướp lấm lét trườn đi rất nhanh trên các công trình cũ; những con
ong nhà, khô héo, teo tóp, uể oải như già cỗi hẳn đi, lê bước chậm
chạp, không làm vướng ai, không còn mong muốn gì nữa và đã mất hết ý
thức về cuộc sống.
Những con ong vẽ, ong bầu, những con nhặng và những con bươm bướm bay
quờ quạng húc đầu vào vách tổ. Đây đó, giữa các bánh sáp lác đác những
con ong con đã chết và những đám mật, thỉnh thoảng lại nghe những tiếng
vù vù bất mãn; ở đâu đấy hai con ong theo thói quen cũ đang dọn tổ,
chúng cần thận cố sức kéo lê một cái xác ong hay một con nhặng chết ra
ngoài tuy cũng chẳng biết để làm gì. Trong một góc khác hai con ong già
uể oải đánh nhau, hoặc chuốt mình cho sạch, hoặc mớn cho nhau ăn, tuy
cũng chẳng biết mình làm như vậy là có ý thân thiện hay thù địch. Ở một
chỗ thứ ba, một đám ong xéo cả lên nhau ùa vào đánh túi bụi một con bọ
cho kỳ chết. Thỉnh thoảng một con ong đã mệt lả hay bị giết chết từ từ
rơi xuống đống xác chết, nhẹ như một chiếc lông tơ. Người nuôi ong giở
hai bánh sáp ở giữa ra để xem tổ trứng. Trước kia hàng ngàn con ong quay
lưng vào nhau bày thành những vòng tròn đen kịt bảo vệ những điều bí ẩn
tối cao của sự sinh nở, thì nay chỉ thấy vài trăm cái xác ong rầu rĩ,
chết dở vẻ mụ mẫm. Chúng đã chết gần hết, mà không hay biết gì, chúng ở
lại trong ngôi miếu linh thiêng mà trước kia chúng đã bảo vệ và ngày nay
không còn nữa, chúng toả ra một mùi thối rữa và chết chóc. Chỉ còn một
vài con nhúc nhích, nhổm dậy, bay vật vờ và đậu lên tay kẻ thù ấy và
đồng thời, tự hy sinh. Những con kia chết hẳn, chúng từ từ rơi xuống đáy
tổ như những chiếc vẩy cá, người nuôi ong đóng ngăn lại, lấy phấn đánh
dấu cái tổ hỏng để sẽ đạp vỡ và thiêu huỷ nó đi.
Moskva cũng trống trải như vậy khi Napoléon, mệt mỏi, lo lắng và cau có,
đang đi đi lại lại trước bức thành của toà Kamer Kokesxki, chờ đợi cái
dấu hiệu của việc tôn trọng nghi thức tuy chỉ là bề ngoài, nhưng theo
quan mệm của ông ta thì rất cần thiết: đoàn đại biểu.
Trên các nẻo đường, trong các xó xỉnh của thành Moskva chỉ còn những
cử động một cách vô nghĩa, tuân theo những tập quán cũ và không hiểu
mình đang làm gì.
Khi người ta đã báo tin cho Napoléon với tất cả sự thận trọng cần
thiết rằng Moskva trống rỗng, ông ta giận dữ đưa mắt nhìn người đến báo
tin rồi quay phắt đi và lặng lẽ tiếp tục đi đi lại lại.
- Đưa xe lại đây, - ông ta nói.
Napoléon bước lên xe ngồi cạnh viên sĩ quan hành định trực nhật và đi vào khu ngoại ô.
"Moskva không người. Thật là một sự việc khó tin" - Ông tự nhủ thầm.
Ông ta không đi thẳng vào thành phố, mà lại đỗ lại một quán trọ ở ô
Dorogomilov.
Đòn kịch đột biến đã thất bại?

20.
Quân đội Nga kéo qua Moskva từ hai giờ đêm cho đến hai giờ trưa, lôi
cuốn những người dân phố và những thương binh cuối cùng đang rời bỏ
kinh đô.
Trong khi chuyển quân, chen chúc dữ dội nhất là lúc trẩy quả các cầu Kamenny, Muxkvoretxki và Yauxki.
Trong khi các đạo quân trước kia rẽ đôi ra hai dòng bên thành Kreml
đã trở lại gặp nhau trên hai chiếc cầu Kamenny và Muxkvoretxki, thì một
số lớn quân lính, thừa lúc mọi người đang dừng lại và chen chúc, đã lẻn
về phía sau và lặng lẽ đi dọc nhà thờ Vaxili Blazenny, qua cửa
Borovixki, len lên dốc tiến về Hồng trường, là nơi mà họ đánh hơi thấy
có thể dễ dàng lấy cắp của cải người khác, cũng một đám người như thế
dồn vào chật ních cả cái xó xỉnh của khu bán hàng Goxtiny Dvor như những
khi người ta kéo nhau đến mua hàng rẻ giá. Nhưng bây giờ không hề nghe
thấy những tiếng mời mọc ngọt ngào và bùi tai của những người bán hàng,
cũng không thấy những người bán rong và đám phụ nữ mua hàng mặc những bộ
áo đủ các màu sắc - chỉ có những bộ quân phục, những tấm áo ca-pốt của
những người lính không có súng, lặng lẽ kéo nhau vào hai tay không, rồi
lại lặng lẽ đi ra, mang theo những đồ lấy cắp được. Những người lái buôn
và những người bán hàng (số người này rất ít), đi lại giữa đám quân
lính, có vẻ như những người bị lạc, mở cửa hàng ra rồi lại đóng lại và
thân hàn cùng với những người phụ việc mang hàng đi đâu không rõ.
Trên quảng trường sát cạnh Goxtiny Dvor, mấy người lính đánh trống đã
được lệnh đánh trống hiệu tập hợp. Nhưng tiếng trống không tập hợp được
lũ lính tránh đi ăn trộm, mà lại làm họ lảng xa hơn. Trong các cửa hiệu
và tỏng các ngõ hẻm, giữa đám quân lính thấp thoáng những người mặc áo
kaftan xám, đầu cạo trọc. Hai viên sĩ quan, một người khoác một chiếc
khăn san trên quân phục, cưỡi một con ngựa gầy xám thẫm, và một người
mặc áo khoác dài đi bộ, đang đứng ở góc phố Ilinka bàn việc gì không rõ.
Một viên sĩ quan thứ ba phi ngựa lại gần họ.
- Tướng quân ký lệnh là phải làm thế nào đuổi ngay bọn lính ra ngoài cho
kỳ được. Thật chẳng còn ra cái thể thống gì nữa! Quân lính bỏ hàng ngũ
chạy trốn mất một nửa rồi còn gì!
- Mày đi đâu?… Chúng mày đi đâu?… - viên sĩ quan quát ba người lính bộ
binh không có súng, đang vén vạt áo ca-pốt đi luồn qua mắt ông ta để len
vào các cửa hàng. - Đứng lại, đồ chó má?
- Ông cứ thử tập hợp lại mà xem - viên sĩ quan kia đáp - không được đâu
mà; tốt hơn là hãy hành quân cho nhanh để những đứa còn lại đừng bỏ trốn
nốt, chỉ có cách ấy thôi!
- Hành quân như thế nào? Cứ chen chúc mãi ở trên cầu, có tiến lên được
chút nào đâu? Hay là đặt một hàng rào lính gác để những đứa còn lại khỏi
bỏ trốn.
Người sĩ quan cấp cao nhất quát:
- Kìa, thì các ông đến đấy mà đuổi chúng ra đi chứ!
Người sĩ quan quàng khăn xuống ngựa, thét gọi người lính đánh
trống và cùng anh ta đi vào cổng tò vò. Một toán lính vụt bỏ chạy. Một
người lái buôn, trên hai má ở chỗ gần cánh mũi mọc đầy những nốt đỏ,
gương mặt no đủ biểu lộ dủ biểu lộ vẻ tham lam và lì lợm xem chừng không
gì có thể lay chuyển nổi những điều suy tính thiệt hơn của hắn, đang
vung vẩy hai tay đến gần viên sĩ quan dáng điệu huênh hoang và hấp tấp.
Hắn nói:
- Thưa đại nhân, xin ngài làm phúc che chở cho. Đây không phải là vì
quyền lợi chúng tôi, kể gì chuyện vặt ấy, chúng tôi vui lòng hiểu tất
cả! Nếu ngài muốn, tôi xin đem dạ ra ngay, đối với một người tôi quý như
ngài thì biếu đến hai tấm tôi cũng vui lòng! Cái đó thì được, chứ như
thế kia thì đúng là ăn cướp! Xin ngài làm phúc cho! Ngài cử cho một đội
tuần tiễu đến đây thì hay quá, ít ra cũng cho chúng tôi đóng cửa với
chứ…
Mấy người lái buôn xúm quanh viên sĩ quan. Một người xương xương, vẻ mặt khắc khổ, nói:
- Ê! Kêu than làm gì cho mệt. Sắp mất đầu mà lại còn tiếc ba sợi tóc Ai
muốn lấy gì thì cứ cho họ lấy! - Nói đoạn hẳn khoát mạnh tay một cái và
quay nghiêng người về phía viên sĩ quan.
Người lái buôn vừa nãy giận dữ nói:
- Cái bác Ivan Xidoryts này, cứ nói như bác thì dễ quá!… Xin ngài sĩ quan, xin ngài làm phúc cho.
- Thôi nói làm gì! - Người lái buôn gầy gò nói, - Ở đây tôi có ba cửa
hàng trị giá đến mười vạn. Quân đội rút đi thì còn giữ làm sao được!
Chao ơi, người đâu mà lạ…! Làm sao chống lại được ý Chúa?
- Thưa đại nhân, xin ngài làm phúc cho, - người lái buôn thứ nhất
nghiêng mình nhắc lại. - Viên sĩ quan đứng im một lúc, trên gương mặt lộ
vẻ phân vân do dự. Rồi bỗng ông ta quát to:
- Thì việc quái gì đến ta nào! - nói đoạn ông bước nhanh về phía cửa
hàng. Trong một gian hàng mở cửa nghe có tiếng người đấm đá chửi bới
nhau, và khi viên sĩ quan vừa mới đến nơi thì từ trong cửa nhảy xổ ra
một người đầu cạo trọc, mặc áo kaftan xám: hắn vừa bị người ở bên trong
tống ra ngoài. Người đó cúi lom khom chạy qua mặt mấy người lái buôn và
viên sĩ quan rồi mất hút. Viên sĩ quan nhảy bổ vào đám quân lính đang
lúc nhúc trong gian hàng. Nhưng vừa lúc ấy có những tiếng kêu la sợ hãi
của một đám người rất đông từ phía cầu Moxkvoretxki vang lại. Viên sĩ
quan vội chạy ra quảng trường.
- Cái gì thế? Cái gì thế? - õng ta hỏi dồn, nhưng viên sĩ quan kia đã cho ngựa phi qua Vaixili Blazenny về phía có tiếng kêu la.
Ông ta bèn lên ngựa đuổi theo. Khi đến gần cầu, ông ta thấy khẩu
súng đại bác đã tháo ra khỏi bánh xe kéo, thấy bộ binh đang qua cầu mấy
cái xe tải đổ lăn kềnh ra đường, mấy cái mặt hoảng hốt và quân lính đang
cười ha hả. Bên cạnh hai khẩu đại bác có một chiếc xe tải thắng hai con
ngựa. Có con chó borzoy đeo nịt ở cổ đang đứng nép vào sau xe. Trên xe
là một núi đồ dạ, và ở trên cùng, bên cạnh một chiếc ghế trẻ con chổng
chân lên trời, có một mụ đàn bà đang ngồi tru tréo om sòm. Viên sĩ quan
được các bạn đồng ngũ cho biết rằng sở dĩ có tiếng kêu la của đám đông
và tiếng tru tréo của mụ đàn bà kia vì khi tướng Yermolov cưỡi ngựa chạy
qua đám đông và được biết rằng quân lính bỏ chạy nghẽn cả cầu, liền ra
lệnh kéo hai khẩu đại bác ra khỏi xe, giả làm như sắp bắn vào cầu.
Đám đông xô ngã các xe tải giẫm đạp lên nhau la hét om sòm, chen chúc nhau ra khỏi cầu, và thế là quân đội đã tiến lên được.
hết: Chương -19 -2o -, xem tiếp: Chương -21 -22 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 EmptyWed Jan 05, 2011 9:37 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XI

Chương -21 -22 -


Trong khi đó thì ở trung tâm thành phố lại vắng ngắt như tờ.
Trên các đường phố hầu như không có lấy một bóng người. Tất cả các cổng
vào các cửa hàng đêu đóng kín mít; đó đây các quán rượu nghe có tiếng
kêu lẻ loi hay tiếng hát của người say rượu.
Không có lấy một chiếc xe nào đi lại trên phố, và thỉnh thoảng lắm mới
nghe tiếng bước chân của người bộ hành. Phố Povarxkaya im phăng phắc và
vắng tanh. Trong khoảng sân rộng thênh thang của gia đình Roxtov ngổn
ngang những mớ rạ và những đống phân ngựa kéo xe để lại. Không có lấy
một bóng người.
Trong toà nhà của gia đình Roxtov bị bỏ lại với toàn bộ của cải,
có hai người ngồi phòng khách lớn. Đó là bác gác cổng Igrat và chú bé
Miska, cháu nội bác Vaxilits cùng ở lại Moskva với bác ta. Miska mở đàn
dương cầm ra đánh bằng một ngón tay.
Bác gác cổng hai tay chống cạnh sườn đang đứng trước một tấm gương lớn mỉm cười hởn hở.
Bỗng chú bé bắt đầu dùng cả hai tay đập lên phím đàn nói:
- Có tài không, hở bác Igrat?
- Chà cái thằng này? Igrat đáp (bấy giờ bác ta đang mải ngắm cái mặt cười teo toét của mình ở trong gương)
Rõ không biết dơ! Thật là đồ không biết dơ! - Phía sau lưng hai người
bỗng có tiếng của Mavra Kuzminisna bấy giờ vừa lặng lẽ bước vào phòng.
- Kìa xem cái lão mặt mẹt kia nhe răng ra kìa. À ra các người giỏi nhỉ,
dọn dẹp đã xong xuôi gì đâu? Bác Vaxilits đang nai lưng ra làm, mệt
nhoài ra ngoài kia kìa. Để rồi xem?
Igrat xốc lại thắt lưng, miệng thôi mỉm cười và mắt nhìn xuống đất, ngoan ngoãn ra khỏi phòng.
- Thím ạ, cháu đánh khẽ thôi thím nhé, - Chú bé nói.
- Rồi tao cho mày đánh khẽ, đồ ôn, con Mavra Kuzminisna vừa tát vừa vung tay lên doạ. - Đi mà đặt ống lò cho ông nội mày.
Mavra Kuzminisna phủi bụi trên phím đàn, đậy nắp đàn lại, rồi thở dài đánh phào một cái, ra khỏi phòng khách và khoá cửa lại.
Ra sân, bà nghĩ lại ngẫm nghĩ không biết bây giờ nên đi đâu: đến
phòng bác Vixilits ở bên dọc uống nước chè, hay vào nhà kho dọn nốt
những đồ đạc còn để ngổn ngang.
Chợt ngoài đường có tiếng chân bước rất nhanh. Những bước chân
dừng lại bên cổng; cái then cài bắt đầu kêu lách cách vì có một bàn tay
đang cố mở cánh cổng ra.
Mavra Kuzminisna đi ra cổng.
- Ngài hỏi ai ạ?
Tôi muốn hỏi bá tước, bá tước Ilya Andreyevich Roxtov.
- Thế ngài là ai?
- Tôi là một sĩ quan. Tôi cần gặp bá tước, - Người lạ mặt đáp, giọng rất dễ chịu, chắc phải là một người quý tộc Nga.
Mavra Kuzminisna mở cánh cổng ra. Một người sĩ quan mặt tròn trĩnh,
tuổi trặc mười tám, bước ra sân. Khuôn mặt người sĩ quan hao hao giống
kiểu mặt của dòng họ Roxtov.
- Thưa cậu bá, tước đi rồi ạ. Đi từ chiều hôm qua rồi ạ.
Người sĩ quan trẻ tuổi đứng tần ngần bên cổng như phân vân không biết có nên vào không. Chàng tặc lưỡi.
- Chà tiếc quá! - chàng nói. - Đến từ hôm qua có phải là… Chà tiếc thật!….
Trong khi đó Mavra Kuzminisna chăm chú và ái ngại nhìn kỹ những nét
quen thuộc của dòng họ Roxtov trên khuôn mặt người thanh niên, nhìn
chiếc áo khoác rách và đôi ủng mòn của chàng.
- Cậu muốn muốn gặp bá tước có chuyện gì à? - bà ta hỏi.
- Thôi. Chả còn biết làm thế nào được - Người sĩ quan buồn bực nói, đoạn
đưa tay lên cánh cổng có ý muốn bỏ đi, rồi chàng lại đứng lại, dáng tần
ngần.
- Bà ạ, - chàng bỗng nói. - Tôi là người có họ với bá tước, bá tước đối
với tôi xưa nay rất tốt. Cho nên, bà thấy không (chàng mỉm một nụ
cười hiền lành và vui vẻ nhìn xuống chiếc áo khoác và đôi ủng của mình),
áo quần tôi rách cả, mà tiền thì chẳng còn đồng nào: cho nên tôi muốn
hỏi xin bá tước….
Mavra Kuzminisna không để cho chàng nói hết.
- Cậu ạ đợi cho một tý, một tí thôi nhé, - Bà nói. Và người sĩ quan vừa
rời tay khỏi cánh cửa thì bà ta quay gót đi nhanh vào sân sau, về phía
phòng mình bên dãy nhà dọc. Trong khi Mavra Kuzminisna về phòng, người
sĩ quan đi đi lại lại ngoài sân, mỉm cười nhìn xuống đôi ủng mòn rách
của mình. "Không gặp được chú ấy thật tiếc quá. Bà già kia khôn thật?
Không biết chạy đi đâu? Muốn bắt kịp binh đoàn mình đã sắp đến Rogxokaya
rồi còn gì!" - chàng nghĩ thầm. Mavra Kuzminisna gương mặt có vẻ sợ hãi
nhưng đồng thời lại quả quyết hai tay cầm một chiếc khăn kẻ ô vuông gập
lại, từ góc sân bước ra. Khi còn cách người sĩ quan vài bước, bà mở
chiếc khăn lấy ra một tờ giấy bạc hai mươi rúp màu trắng và hối hả đưa
cho chàng.
- Giá có cụ lớn ở nhà, thế nào chỗ thân thích cụ cũng… nhưng bây giờ… có lẽ…
Bà Mavra đâm luống cuống. Nhưng người sĩ quan không từ chối mà cũng
không vội vàng, đã cầm lấy tờ giấy bạc và cảm ơn Mavra Kuzminisna. Bà
ta nói tiếp, như để xin lỗi:
- Giá có bá tước ở nhà thì… Cầu Chúa phù hộ cho cậu tai qua nạn khỏi, -
bà ta vừa nói vừa cúi chào và tiễn chân người sĩ quan ra ngoài cổng.
Người sĩ quan mỉm cười lắc đầu như để chế giễu mình, rồi chạy nhanh qua
các phố xá vắng vẻ, về phía cầu Yauxki để đuổi theo đơn vị.
Bà Mavra Kuzminisna còn đứng hồi lâu trước hai cánh cổng đóng kín,
rơm rớm nước mắt, lắc đầu dáng tư lự, và bỗng thấy lòng tràn ngập một
tình trìu mến và xót thương mẫu tử đối với người sĩ quan trẻ tuổi không
hề quen biết.

22.
Trong quán rượu ở phía dưới toà nhà xây dở ở phố Varvaka có những
tiếng reo hò và ca hát của những người say rượu. Trong gian phòng chật
hẹp bẩn thỉu, chừng mười người thợ đang ngồi trên những chiếc ghế dài
đặt cạnh mấy cái bàn. Họ đều say mèm, mồ hôi nhễ nhại, mắt lờ đờ, đang
há hốc mồm ra cố hát cho thật to. Họ hát mỗi người một phách, có vẻ khó
nhọc và ngượng gạo: có thể thấy rõ rằng họ hát như vậy không phải vì
muốn hát, mà chỉ muốn tỏ ra mình đang say rưựu và đang vui chơi thích
thú đây. Trong đám có một chàng trai trẻ cao lớn, tóc vàng mặc áo khoác
xanh sạch sẽ, đang đứng trước mặt mấy người kia. Với sống mũi dọc dừa
thanh tú của hắn, đẹp nếu không có đôi môi mím chặt luôn luôn động đậy
và đôi mắt lờ cau có, đờ đẫn. Hắn đứng trước mặt mấy người đang hát, và
hình như đang tưởng tượng điều gì, hắn hoa cánh tay cáu bẩn ra một cách
thiếu tự tin. Ống tay áo của hắn cứ chốc chốc lại tụt xuống, và hắn lại
cẩn thận lấy tay trái sắn lên, làm như thể cánh tay trắng nổi gân xanh
đang vung vẩy nhất định phải để trần mới được, và đó là một điều hết sức
quan trọng. Họ đang hát dở chừng ngoải thềm nghe có tiếng hò hét và
tiếng đấm đá. Chàng thanh niên cao lớn khoát tay một cái.
- Thôi! - hắn dõng dạc hô to - Anh em ơi! Có đám đánh nhau. - Nói đoạn hắn bước ra thềm, tay vẫy không ngừng xắn ống áo.
Đám thợ thuyền ra theo. Sáng hôm ấy đã mang từ nhà máy lại mấy
tấm da trao cbo lão chủ quán đổi lấy rượu ngồi. uống với nhau dưới sự
chỉ huy của chàng thanh niên cao lớn kia. Mấy người thợ rèn ở các lò rèn
bên cạnh bấy giờ nghe tiếng hát hò trong quán rượu tưởng là họ đang
cướp phá ngôi quán, bèn cố sức ập vào. Ở ngoài thềm bắt đầu diễn ra một
trận ẩu đả.
Lão chủ quán đang đứng ở ngưỡng cửa đánh nhau với một người thợ rèn,
và khi mấy người thợ ở trong quán bước ra, thì người thợ rèn bị bất
hạnh và ngoài ra ngã mặt xuống mặt đường lát đá.
Một người thợ rèn khác lao vào cửa, đưa cả thân hình xô vào lão chủ
quán. Chàng thanh niên tay áo xắn bấy giờ đang bước ra thoi một quả đấm
vào mặt người thợ rèn đang lao vào và quát tướng lên:
- Anh em ơi! Chúng nó đánh cánh ta đây này!
Trong khi đó người thợ rèn lúc này ngã xuống đất lồm cồm bò, quệt máu trên mặt và mếu máo kêu lên:
- Ai cứu tôi với! Chúng nó giết người đây này! Anh em ơi!
Một mụ đàn bà từ một cánh cổng bên cạnh bước ra cũng tru tréo lên:
- Trời ơi là trời, chúng nó đánh chết người, chúng nó giết người kia kìa!
Đám đông xúm xít quanh người thợ rèn máu me bê bết. Trong đám đông có người nói với lão chủ quán.
- Mày cướp giật của người ta, mày lột áo của người ta chưa đủ hay sao, mà lại còn muốn giết người? Đồ kẻ cướp?
Chàng thanh niên cao lớn đứng trên thềm đưa đôi mắt đục lờ hết nhìn
lão chủ quán lại nhìn bọn thợ rèn, như đang nghĩ ngợi không biết nên
đánh nhau với ai bây giờ. Rồi bỗng chỗ mồm về phía lão chủ quán, hắn
quát to:
- Đồ sát nhân! Anh em ơi, trói hắn lại!
- Ơ kìa? Trói tôi ấy à, sao lại đi trói một người như tôi - lão chủ quán
quát to, giơ tay gạt những người đang chồm vào người lão, rồi giật cái
mũ chụp lên đầu vứt xuống đất. Cử chỉ này dường như có một ý nghĩ gì rất
bí mật và nghê gớm, những người thợ đang xô vào trói lão chủ quán bỗng
dừng lại có vẻ phân vân.
- Tôi biết rõ luật lệ lắm anh ạ. Tôi sẽ đi trình quận cho mà xem. Anh
tưởng tôi không đi hẳn? Thời bây giờ cấm không ai được trộm cướp và hành
hung - lão chủ quan vừa nhặt mũ vừa nói to.
- Ghê gớm nhỉ! Đi thì đi! Nào đi thì đi ghê gớm nhỉ - lão chủ quán và
chàng thanh niên cao lớn thi nhau nói đi nói lại như vậy, rồi cả hai
cùng bước ra đường. Người thợ rèn máu me cũng đi bên cạnh họ. Mấy người
thợ và đám người đứng xem cũngvừa đi theo vừa reo hò, bán tán huyên náo
cả lên.
Ở góc phố Moskva, trước mặt một ngôi nhà lớn cửa đóng kín mít, trên
cửa có đóng một biển hiệu đánh giày, có một tốp chừng hai mươi anh thợ
giàý, vẻ mặt buồn rười rượi, gầy gò, mệt mỏi, mặc những chiếc áo dài và
áo khoác rách rưới. Một người thợ giày gầy gò có một bộ râu thưa thót
đalìg cau mày nói:
- Hắn phải trả tiền cho người sòng phẳng chứ! Đằng này hắn hút máu của
bọn ta - rồi chuồn mất. Hắn cứ xỏ mũi lừa gạt bọn ta suốt cả tuần. Mãi
đến bây giờ, tới lúc cùng kiệt rồi thì hắn lại lủi đi đâu mất.
Trông thấy đám đông đi với một người máu me bê bết, người đang nói
im bặt, và cả tốp thợ giày tò mò vội nhập vào đám đông đang kéo đi.
- Họ đi đâu thế?
- Còn đi đâu nữa, đi trình quan!
- Thế nào, cánh ta thua thật à?
- Chứ còn gì nữa! Thử lắng nghe người ta nói thì biết.
Kẻ hỏi người đáp nhao nhao lên, lão chủ quán thừa lúc dám người đông thêm, đi tụt lại phía sau và bỏ về quán rượu.
Chàng trai cao lớn, không nhận thấy kẻ thù của mình là lão chủ
quán đã biến mất, vẫn hoa cánh tay để trần, nói không ngớt miệng, khiến
mọi người chú ý. Đám đông phần lớn đều quây quần xung quanh hắn ta, mong
hiểu rõ những điều gì đang làm cho họ thắc mắc. Chàng thanh niên kẽ
nhếch mép mỉm cười, nói:
- Hắn thử nói luật lệ ra nghe nào, đã có phép quan chứ! Tôi nói có đúng
không nào, bà con?… Hắn tưởng bây giờ không có phép quan nữa chắc? Không
có phép quan làm sao được? Kẻ cướp mọc lên như nấm ấy mà!
Trong đám đông có tiếng nói:
- Nói gì vớ vẩn thế? Chả nhẽ họ ở Moskva như thế này à!
- Người ta nói đùa mà anh cũng tưởng là thật. Quân ta đông khối ra
đấy kia! Lẽ nào để cho nó vào như vậy. Đã có quan trên lo liệu chứ! Kia,
thử nghe người ta nói kia kìa, - họ chỉ vào chàng thanh niên cao lớn,
bảo nhau.
Bên bức thành Kitai-gorod một toán người khác không đông lắm vây
quanh một người mặc áo khoác bằng dạ xù, tay cầm một tờ giấy. Trong đám
đông có tiếng xì xào:
- Mệnh lệnh, họ đọc mệnh lệnh đấy! Họ đọc mệnh lệnh đấy!
Và mọi người đổ dồn về phía người đang đọc tờ giấy.
Người mặc áo khoác dạ xù đang đọc tờ yết thị ngày ba mươi mốt tháng
tám. Khi thấy đám đông vây quanh, hắn có vẻ luống cuống, nhưng chàng
thanh niên cao lớn lúc bấy giờ đã len vào tận nơi, đòi hắn phải đọc tờ
yết thị lên. Giọng hơi run, người mặc áo khoác bắt đầu đọc bản yết thị
từ đầu:
"Sáng sớm mai ta sẽ đến gặp Điện hạ. Tối quang minh - (chàng thanh
niên cao lớn cau mày, nhoẻn miệng cười và lấy giọng trang trọng nhắc
lại: Tối quang minh!) - để thương lượng với ngài về cách phối hợp với
quân đội tiêu diệt quân thù; chính chúng ta cũng sẽ ra tay trị chúng" -
Người đọc dừng lại một lát. Chàng cũng sẽ ra tay trị chúng. Người đọc
dừng lại một lát. Chàng thanh niên cao lớn đắc chí reo lên: "Thấy chưa?
Họ sẽ trị cho chúng!" "… làm cho chúng hồn lìa khỏi xác và cho chúng về
chầu quỷ sứ: bản chức sẽ trở về ăn bữa trưa và sau đó chúng ta sẽ bắt
tay vào việc; chúng ta sẽ hành động đến nơi đến chốn và tiêu diệt quân
giặc".
Những lời cuối cùng này được đọc lên trong cảnh. im lặng hoàn toàn.
Chàng thanh niên cao lớn cúi đầu ra dáng buồn bã. Có thể thấy rõ
ràng chẳng ai hiểu nổi câu sau cùng. Đặc biệt là mấy chữ: "Bản chức sẽ
trở về ăn bữa trưa" thì hình như cả người đọc lẫn người nghe đều lấy làm
buồn. Bấy giờ dân chúng đang chờ nghe những lời trang trọng, nhưng câu
ấy lại quá đơn giản và tầm thường một cách không cần thiết; nói như vậy
thì lệnh thì trong dân chúng ai cũng nói được, cho nên trong một bản
mệnh lệnh do nhà nước chức trách ban ra không thể nói như vậy được.
Mọi người đứng im lặng, rầu rĩ. Chàng thanh niên cao lớn mấp máy môl và lảo đảo như đứng không vững.
Bỗng ở các cửa hàng người đứng sau có tiếng xôn xao.
- Phải hỏi ông ấy kia!… Chính ông ta đấy à?… Còn gì nữa, phải hỏi đi!
Chứ còn gì nữa… Ông ấy sẽ nói rõ cho mà nghe… - và mọi người đều chú ý
đến chiếc xe độc mã của viên cảnh sát trưởng vừa đi qua, có hai người
lính long kỵ đi hộ vệ.
Sáng hôm ấy viên cảnh sát trưởng theo lệnh của bá tước đã đi đốt những
chiếc phà chở sang ngang và nhân chuyến công cán này đã kiếm được một
món tiền lớn lúc bấy giờ đang nằm trong túi ông ta. Trông thấy đám đông
kéo tới viên cảnh sát trưởng bảo người đánh xe dừng lại.
- Làm gì mà đông thế hả? - ông quát đám người hỗn độn đang rụt rè tiến
đến gần xe. - Có việc gì thế? Ta hỏi các người? - Viên cảnh sát trưởng
không nghe đáp lại câu hỏi.
Người thư mặc áo khoác dạ xù nói:
- Bẩm quan lớn, họ… bẩm quan lớn, theo lời hiển thị của bá tước đại
nhân, họ muốn liều chết ra đánh giặc, chứ không phải muốn làm loạn gì
đâu ạ: như bá tước đại nhân có dạy…
- Bá tước đại nhân chưa đi đâu, ngài hiện đang ở đây, ngài sẽ có lệnh
truyền cho các người. - viên cảnh sát trưởng nói, rồi ra lệnh cho người
đánh xe - Đi thôi!
Đám đông xúm quanh những người đã nghe được lời nhà chức trách và đứng trông theo chiếc xe ngựa đang đi xa dần.
Trong khi đó, viên cảnh sát trưởng sợ hãi ngoái lại nhìn, nói gì
với người lái xe không biết, chỉ càng thấy ngựa phi nhanh hơn.
- Họ lừa chúng ta đấy anh em ơi! Phải đến gặp đích thân bá tước! - chàng
thanh niên cao lớn hét lên. - Đừng để cho hắn đi anh em ơi!
Hắn phải trình bày cho chúng ta rõ! Giữ hắn lại!
Trong đám đông có nhiều tiếng quát tháo, và đám đông hè nhau chạy và
theo sau chiếc xe ngựa, đuổi theo sau chiếc xe ngựa, đuổi theo viên cảnh
sát trưởng chạy vào phố Lubianka.
- Thế là cái gì Bọn thân hào với bọn lái buôn đều chuồn cả, thế còn
chúng ta có tội tình gì mà ở lại chết uổng? Dễ thường chúng ta là chó
hay sao. - Trong đám đông tiếng la ó mỗi lúc một dữ dội.
hết: Chương -21 -22 -, xem tiếp: Chương -23 -24-
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 EmptyWed Jan 05, 2011 9:37 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XI

Chương -23 -24-


Tối hôm mồng một tháng chín, sau khi hội kiến với Kutuzov, bá tước
Raxtovsin buồn rầu và tủi hổ vì chỗ không được mời dự hội đồng quân sự,
vì Kutuzov không mảy may chú ý tới lời đề nghị tham gia phòng thủ kinh
đô của ông ta, và lấy làm lạ về cái quan điểm mới phát sinh trong doanh
trại; theo quan điểm này thì nền an ninh của kinh đô và tinh thần ái
quốc của cư dân trong thành không những là vấn đề thứ yếu, mà còn bị coi
là hoàn toàn vô bổ và không dám đếm xỉa đến. Lòng buồn rầu, tủi hổ và
ngạc nhiên vì tất cả những việc đó, bá tước Raxtovsin, trở về Moskva.
Sau bữa ăn tối, bá tước không cởi áo ngoài, ngả mình trên trường kỷ
thiếp đi. Gần một giờ sáng một liên lạc viên đến đánh thức ông ta dậy
đưa một bức thư của Kutuzov gửi đến. Trong bức thư có nói rằng quân đội
rút về con đường Ryaznan qua Moskva và yêu cầu bá tước phái một số viên
chức cảnh sát ra giúp quân đội kéo qua thành được dễ dàng.
Tin này đối với bá tước Rastopsin chẳng có gì mới lạ. Không phải từ
cuộc hội kiến với Kukuzov ngày hôm qua trên đồi Poklonny, mà ngay từ
trận Borodino, khi tất cả trở về Moskva trăm người như một đều nói rằng
không thể nào khai chiến được nữa, và khi người ta đã được cho phép của
bá tước bắt đầu chuyển tài sản của nhà nước ra ngoài và dân cư đã bỏ hết
đi một nửa, bá tước Raxtovsin đã biết rằng Moskva sẽ bị bỏ ngỏ; tuy vậy
đang đêm nhận được mệnh lệnh này của Kutuzov, dưới hình thức một bức
thư tầm thường, trong khi đang ngủ say, bá tước Raxtovsin cũng thấy ngạc
nhiên và bực tức.
Về sau, để cắt nghĩa hoạt động của mình trong này, bá tước Raxtovsin đã
mấy lần viết thư hồi ký rằng lúc bấy giờ ông ta có hai mục đích quan
trọng. Duy trì an ninh ở Moskva và làm cho dân cư ra khỏi thành. Nếu xét
hai mục đích này thì bất cứ hành động nào của Raxtovsin lúc bấy giờ
cũng không thể chê trách được.
Tại sao những thành tích của thành Moskva, những vũ khí, đạn được,
những kho thuốc súng, kho bột mì, lại không được chở đi? Tại sao lại
nói dối hàng ngàn dân cư là sẽ cố thủ Moskva khiến cho họ phải sạt
nghiệp? "Là vì cần phải gìn giữ an ninh trong thủ đô", lời giải thích
của bá tước Raxtovsin đáp lại như vậy. Thế thì chở hàng đống giấy má vô
ích ở các công sở, chở quả cầu Leppich và những thứ khác ra khỏi thành
phố để làm gì? - "Là để bỏ lại một thành phố trống rỗng", lời giải thích
của bá tước Raxtovsin đáp lại như vậy. Chỉ cần một cái gì đang đe doạ
an ninh của thành phố, là bất cứ hành động nào cũng đâm ra có lí do xác
đáng cả.
Tất cả những hành động tàn bạo của thời kỳ khủng bố chẳng qua chỉ vì lo lắng đến an ninh của quốc dân.
Vậy thì căn cứ vào đâu mà bá tước Raxtovsin lo sợ cho nền an ninh
của quốc dân ở Moskva năm 1812? Nguyên nhân nào đã khiến cho ông dự đoán
là trong thành phố có khuynh hướng nổi loạn? Dân cư thì bỏ đi, quân đội
thì rút lui tràn đầy cả thành phố. Tại sao dân chúng lại có thể nổi
loạn trong tình cảnh ấy?
Không những ở Moskva, mà ngay trong toàn cõi nước Nga cũng vậy;
trong khi quân địch xâm lăng giống như một cuộc nổi loạn. Ngày mồng một
mồng hai tháng chín còn có hơn một vạn người ở lại Moskva, và từ đám
đông tụ tập trong sân viên tổng đốc, do chính ông ta triệu tập lại thì
chẳng thấy rõ rằng bỏ Moskva và một việc tất yếu hay ít ra cũng là một
việc rất có thể xảy ra, nếu khi đó Raxtovsin đừng phân phát vũ khí và ra
tuyên cáo bừa bãi khiến cho dân chúng hoang mang, mà tiến hành những
biện pháp cần thiết để chở các thánh tích, thuốc súng, đạn được và ngân
khố ra ngoài và tuyên bố thẳng thắng với nhân dân là sẽ bỏ thành phố, -
Nếu như vậy thì lại càng không có lý do gì để sợ dân chúng dấy loạn.
Raxtovsin là một người nóng nảy và xung huyết, xưa nay vẫn sống trong
các giới quan lại cao cấp, tuy có ít nhiều tinh thần yêu nước nhưng
không hề hiểu biết gì về đám dân chúng mà ông yên trí là mình đang cai
trị. Ngay từ khi quân địch bắt đầu kéo vào Smolensk, Raxtovsin trong trí
tưởng tượng đã tự gán cho mình cái vai trò lãnh đạo tình cảm của nhân
dân, lãnh đạo "quả tim của nước Nga". Ông ta không những cớ cảm tưởng
(mỗi viên quan hành chính đều có cảm tưởng như vậy) rằng mình điều khiển
những hoạt động bề ngoài của dân Moskva, mà còn tưởng rằng mình lãnh
đạo tâm trạng của họ bằng những lời kêu gọi và những tờ tuyên cáo viết
bằng thứ ngôn ngữ dung tục mà nhân dân vẫn khinh miệt khi nghe nói ở môi
trường của họ, và không hiểu khi nghe từ miệng quan trên truyền xuống.
Raxtovsin thích đóng vai trò đẹp đẽ của người lãnh đạo tình cảm nhân
dân, và đã quen với nó đến nỗi khi phải từ bỏ nó và rời bỏ Moskva không
kèn không trống, ông ta vô cùng bỡ ngỡ và thấy như người bị hẫng chân,
chẳng còn biết nên làm thế nào nữa. Tuy ông có biết Moskva sẽ bị bỏ ngỏ,
nhưng cho đến phút cuối cùng ông vẫn chưa hoàn toàn tin điều đó và
không tiến hành một việc gì nhằm mục đích đó cả. Cư dân bỏ đi là trái
với ý muốn của ông ta. Nếu là cơ quan hành chính được di chuyển ra
ngoài, thì đó chẳng qua là vì yêu cầu của các viên chức và bá tước có
ưng thuận cũng chỉ là miễn cưỡng. Bản thân ông ta thì chỉ lo đóng cái
vai trò mà ông ta tự gán cho mình. Như ta vẫn thường thấy ở những người
có một trí tưởng tượng nhạy bén, ông ta đã biết từ lâu rằng Moskva sẽ bị
bỏ lại. Nhưng biết thế là biết bằng lý trí: trong tâm hồn ông ta vẫn
chưa tin hẳn điều đó, trong tưởng tượng ông ta chưa chuyển được sang cái
tình hình mới này.
Toàn bộ hoạt động của ông ta vốn rất cần mẫn và kiên quyết (nó có
ích cho nhân dân đến đâu thì đó lại là chuyện khác), toàn bộ hoạt động
của ông ta chỉ nhằm thức tỉnh trong lòng cư dân cái cảm xúc của bản thân
ông ta lúc bấy giờ: lòng căm thù dân tộc đối với quân Pháp và lòng tin
tưởng ở mình.
Nhưng đến khi biến cố đã diễn ra với những quy mô lịch sử thực sự
của nó, đến khi chỉ biểu lộ lòng căm thù quân Pháp bằng lời nói thôi
không còn đủ nữa, đến khi không thể nào biểu lộ lòng căm thù đó ra nữa
dù là bằng một trận đánh, đến khi lòng tin tưởng vào mình đã trở nên vô
bổ, dù chỉ riêng đối với việc bảo vệ Moskva không thôi cũng vậy, đến khi
toàn bộ cư dân muôn người như một đều vứt bỏ tài sản trảy ra ngoài
thành phố - Một hành động tiêu cực tỏ rõ tất cả sức mạnh của tinh thần
dân tộc, - đến khi ấy thì cái vai trò mà Raxtovsin chọn bỗng nhiên mất
hết ý nghĩa. Ông ta bỗng cảm thấy mình cô độc, yếu ớt và lố lăng, thấy
mình không còn có chỗ đứng nữa.
Đang ngủ bỗng dưng được đánh thức dậy và nhận được bức thư lãnh đạm
và có vẻ như ra lệnh của Kutuzov, Raxtovsin cảm thấy mình có lỗi và
càng thấy mình có lỗi thì lại càng thêm bực tức.
Những gì còn bị bỏ lại ở Moskva chính là những cái đã được phó
thác cho ông ta, đó là những tài sản của quốc gia mà đáng lẽ phải đưa ra
ngoài. Bây giờ thì không thể nào đưa ra được nữa.
"Thế thì lỗi tại ai? Ai đã để cho cơ sự đến nước này? - ông thầm nghĩ
- Cố nhiên không phải tại ta. Về phần ta thì mọi việc đều xong xuôi cả,
ta nắm vững Moskva như thế này! Thế mà chúng nó đã để cho cơ sự đi đến
nước này! Quân khốn nạn, quân phản tặc!" - ông nghĩ thầm, trong óc cũng
không xác định được cho rõ những quân khốn nàn, những quân phản tặc nào
đấy đã gây ra cái tình trạng dang dở và lố bịch của ông hiện nay.
Suốt đêm ấy bá tước Raxtovsin ban bố mệnh lệnh cho các quân viên
chức khắp Moskva đến thỉnh thị ông ta. Những người thân cận chưa bao giờ
thấy bá tước có vẻ lầm lì và bực bội như đêm hôm ấy.
"Bẩm quan lớn, sở thái ấp cho người đến thỉnh thị. Cục giám đốc
giáo phận, viện nguyên lão, trường đại học, viện cô nhi, toà giáo chủ. -
có cho người hỏi lại - về phần đội cứu hoả thì sao?" - Suốt đêm hôm ấy
những người đến báo cáo với bá tước cứ nối đuôi nhau không ngớt.
Đối với tất cả những câu hỏi ấy, bá tước trả lời vắn tắt và bực bội, tỏ
ra rằng những mệnh lệnh của ông ta bây giờ không cần thiết nữa, rằng tất
cả những công việc mà ông ta đã ra sức chuẩn bị chu đáo nay đã có người
làm hỏng và người đó sẽ phải chịu hết trách nhiệm về tất cả những việc
sẽ xảy ra nay mai.
- Mày bảo với thằng ngu ấy. - bá tước đáp lại lời thỉnh thị của sở Thái
ấp - là cứ ở lại mà canh giữ đống giấy của hắn. Thế còn mày hỏi lằng
nhằng cái gì về đội cứu hoả? Có ngựa đấy, cứ việc về Vladimir. Chả nhẽ
để ngựa lại cho quân Pháp hay sao?
- Bẩm quan lớn, viên quản đốc nhà điên có đến xin ngài cho lệnh ạ.
- Lệnh ấy à? Đi tất, chỉ có thế thôi. Còn bọn điên thì thả ra phố. Một
khi mà quân đội toàn do bọn điên chỉ huy cả, thì cố nhiên là phải như
thế.
Nghe hỏi đến các phạm nhân đang giam trong ngục, bá tước giận giữ quát viên cai ngục.
- Thế nào, mày muốn tao cho hai tiểu đoàn đi hộ tống chắc? Tao làm gì có… Thả tất, có thế thôi!
- Bẩm quan lớn có cả tù chính trị nữa ạ… Meskov, Veressaghin.
- Veressaghin à! Nó chưa bị xử giảo à? - Raxtovsin quát lên.
- Đem nó lại đây cho ta.

24
Vào khoảng chín giờ sáng, khi quân đội đã kéo qua Moskva, không
có ai đến hỏi mệnh lệnh của bá tước nữa. Tất cả những ai có thể đi được
thì đã bỏ đi rồi; những người ở lại thì tự quyết định lấy mình phải làm
gì.
Bá tước ra lệnh thắng ngựa để đi Xokolniki, rồi chắp tay im lặng ngồi trong văn phòng vẻ mặt cau có, nước da vàng vọt.
Trong buổi thái bình vô sự, mỗi viên quan hành chính đều có cảm
tưởng rằng sở dĩ dân sống được chỉ là nhờ những sợ nỗ lực của mình, họ
tin chắc rằng không có mình là không được, và chính cái ý thức đó là
phần thưởng lớn nhất cho những công lao khó nhọc của họ. Dĩ nhiên, khi
mặt biển lịch sử đang phẳng lặng, thì viên quan cai trị, đứng trên chiếc
xuồng mỏng manh của mình, trong khi cầm sào chống vào chiếc tàu lớn của
nhân dân mà đi tất nhiên có cảm tưởng rằng chính nhờ mình mà chiếc tàu
kia đi được nhưng chỉ cần một trận bão nổi lên làm mặt biển cuộn sóng và
chiếc tầu tiến nhanh lên, là cái ảo giác ấy không còn tồn tại được nữa.
Chiếc tàu tiến theo cái đà mãnh liệt, độc lập của nó, cái sào không với
tới thân tầu được nữa, và từ địa vị của bậc chúa tể, của cội nguồn phát
ra sức mạnh, viên quan hành chính đột nhiên biến thành một con người vô
nghĩa, vô dụng và yếu ớt. Raxtovsin cảm thấy điều đó và chính điều đó
làm cho ông ta bực mình. Viên cảnh sát trưởng vừa rồi bị đám đông chặn
hỏi cùng với viên sĩ quan phụ tá đến báo rằng ngựa đã thắng xong, cùng
vào phòng bá tước một lúc. Mặt cả hai người đều tái mét. Sau khi báo cáo
việc thừa hành công cán vừa rồi, viên cảnh sát trưởng cho biết rằng
ngoài sân nhà bá tước có một đám người rất đông đang muốn gặp bá tước.
Raxtovsin không đáp một lời. Ông ta đứng dậy và đi nhanh ra gian
phòng khách sáng sủa và sang trọng của ông ta, bước tới cánh cửa dẫn ra
bao lơn, đặt tay lên nắm cửa, nhưng rồi lại buông ra và đến cạnh cửa sổ,
nơi có thể trông rõ cả đám đông. Chàng thanh niên cao lớn đứng ở hàng
đầu, vẻ mặt nghiêm nghị, đang hoa tay nói gì không rõ. Người thợ rèn máu
me bê bết đang đứng cạnh hắn, vẻ lầm lì. Tuy các cửa sổ đều đóng kín,
vẫn có thể nghe được tiếng nói ồn ào của đám đông. Raxtovsin rời khỏi
khung cửa sổ, nói:
- Xe đã thắng xong chưa?
- Bẩm quan lớn xong rơi ạ, - viên sĩ quan phụ tá đáp.
Raxtovsin lại đi về phía cánh cửa dẫn ra bao lơn. Ông hỏi viên cảnh sát trưởng.
- Chúng nó muôn cái gì thế?
- Bẩm quan lớn, chúng nó bảo chúng nó tụ họp lại đế đi đánh Pháp theo
lệnh của quan lớn, chúng nó la ó cái gì về chuyện phản quốc ấy. Nhưng
đám này có vẻ hung hãn, thưa quan lớn tôi chật vật lắm mới thoát khỏi
chúng. Bẩm quan lớn, tôi xin mạn phép bẩm một cách.
- Xin ông đi ra cho, không có ông tôi cũng biết là phải làm gì, - Raxtovsin giận giữ quát.
Ông ta đứng ở cửa bao lơn nhìn xuống đám đông, nghĩ thầm: "Đấy bọn
chúng đã đưa nước Nga đến nông nỗi này đây! Bọn chúng đã đưa ra đến nông
nỗi này đây!" ông cảm thấy trong lòng dấy lên một nỗi căm giận không
sao ghìm nổi đối với người nào đó, người mà ông có thể đổ tội là đã gây
ra cơ sự này.
Với những người nóng nảy thường như vậy: ông ta nổi giận lên rồi nhưng vẫn chưa tìm ra một đối tượng cho cơn giận của mình.
Raxtovsin nhìn đám dân chúng, thầm nghĩ:"Đây chính là cái đám dân
đen, cái cặn bã của xã hội, đám tiện dân mà sự ngu xuẩn của bọn họ đã
làm dấy lên. Phải thí cho nó một cái mồi" - ý nghĩ đó vụt hiện lên trong
trí óc Raxtovsin trong khi ông nhìn người thanh niên cao lớn đang hoa
tay. Và sở dĩ ông ta bỗng có ý nghĩ đó là vì chính bản thân ông ta cũng
đang cần một cái mồi, một đối tượng để trút cơn giận của mình lên.
- Xe đã thắng xong chưa? - ông hỏi lại một lần nữa.
- Bẩm quan lớn xong rồi ạ. Veressaghin thì sao ạ? Hắn đang đợi ở ngoài thềm, - viên sĩ quan phụ tá nói.
- A! - Raxtovsin bỗng reo lên, như chợt nhớ ra một điều gì.
Ông vụt mở cửa và quả quyết bước ra bao lơn. Tiếng nói xôn xao bỗng
im bặt, những chiếc mũ được bỏ xuống và mắt mọi người đều ngước lên
nhìn bá tước vừa ra bao lơn.
- Chào các anh em! - Bá tước nói rất nhanh, và rất to, - Cám ơn các anh
em đã đến đây. Tôi xin ra ngay với anh em, nhưng trước hết chúng ta phải
xử trí tên phản quốc đã làm cho Moskva thất thủ. Anh em đợi tôi một
chút! - Và bá tước lại bước nhanh về phòng, sau khi đóng cửa thật chặt.
Một tiếng xì xào đồng tình và vui thích lướt qua đám đông.
"Đấy ngài sẽ xử hết bọn gian phi cho mà xem! Thế mà mày bảo là một
thằng Pháp. Rồi ngài sẽ liệu cho chúng nó đâu vào đấy", đám người nói
nhao nhao như để trách móc nhau đã kém tin tưởng.
Mấy phút sau từ cửa chính một viên sĩ quan hấp tấp bước ra hô một
mệnh lệnh gì đấy, và thấy đội Long kỵ dàn ra thành hàng. Đám đông rời
chỗ bao lơn háo hức dồn về phía thềm. Raxtovsin vẻ giận giữ bước nhanh
ra thểm và vội vã đưa mắt nhìn quanh như tìm kiếm người nào.
- Nó đâu rồi? - bá tước hỏi, và ngay lúc ấy ông ta trông thấy hai người
lính long kỵ dẫn từ sau góc nhà ra một người trẻ tuổi, cổ cao và gầy,
đầu cạo hết một nửa, chỗ bị cạo tóc đã mọc lởm chởm.
Người trẻ tuổi mặc một chiếc áo Tu-lup da chồn phủ dạ xanh, trước
kia chắc cũng khá bảnh bao, một cái quần vải dày cáu ghét của phạm nhân
nhét vào đôi ủng da mịn đã vẹt gót và rất bẩn thỉu. Trên đôi chân gày gò
và yếu ớt lủng lẳng những sợi xiềng làm cho bước đi ngập ngừng của
người trẻ tuổi thêm chật vật.
- À! Raxtovsin vừa nói vừa ngoảnh mặt đi, tránh nhìn vào người trẻ tuổi
mặc áo da chồn, rồi chỉ vào bậc cấp dưới cùng trước thềm nói - Để nó
đứng đấy!
Người trẻ tuổi nặng nề bước lên bậc thềm, xiềng xích kêu lẻng
xẻng, hắn đưa ngón tay lên nới cái cổ áo quá chặt, quay đi quay lại cái
cổ dài ngoằng rồi thở dài đưa hai bàn tay mảnh dẻ có vẻ chưa bao giờ làm
việc nặng, đặt trước bụng với một cử chỉ nhẫn nhục.
Im lặng kéo dài mấy giây, trong khi người trẻ tuổi bước lên bậc
thềm. Chỉ ở các hàng sau mới nghe có tiếng ho khục khặc, tiếng rền rĩ và
tiếng giẫm chân của những người đang cố xô đẩy nhau về một phía.
Raxtovsin, trong khi chờ người trẻ tuổi đứng vào chỗ đã định, cau mày và đưa tay lên xoa mặt.
- Anh em ơi! - Raxtovsin nói, giọng vang lên lanh lảnh, - Tên này là
Veressaghin, chính cái tên khốn nạn đã làm cho Moskva thất thủ.
Người trẻ tuổi mặc áo da chồn đứng yên, dáng nhẫn nhục hai tay chắp lại
trước bụng, người hơi cúi xuống. Khuôn mặt gầy gò, non trẻ của hắn có vẻ
tuyệt vọng. Mái tóc cạo nham nhở cúi gầm xuống. Nghe bá tước nói mấy
tiếng đầu, hắn từ từ ngẩng mặt lên và ngước mắt nhìn lên phía bá tước,
vẻ như muốn nói với ông ta điều gì hay chỉ là bắt gặp được mắt ông ta
thôi cũng được. Nhưng Raxtovsin không nhìn hắn. Trên cái cổ cao và gầy
của người trẻ tuổi, ở phía sau tai một đường gân xanh bỗng nổi lên như
một sợi dây thừng, và da mặt hắn bỗng đỏ bừng lên. Mắt mọi người đều đổ
dồn vào hắn. Hắn nhìn đám đông, và dường như vẻ mặt của lthững người
đứng trước mặt làm léo lên trong lòng hắn một tia hy vọng, hắn buồn rầu
và bẽn lẽn mỉm ười rồi lại cúi gám mặt xuống, nhích nhích hai bàn chân
đứng trên bậc thềm.
- Nó đã phản bội Sa hoàng và tổ quốc nó đã quy hàng Bonaparte, trong
toàn dân chỉ có một mình nó đã làm hoen bẩn thanh danh người Nga, và
chính vì nó mà Moskva thất thủ, - Raxtovsin nói, giọng đanh và đều đều
nhưng bỗng nhiên mắt ông ta liếc nhanh xuống chỗ Veressaghin, lúc bấy
giờ vẫn đứng yên với dáng điệu nhẫn nhục như cũ. Dường như khi nhìn thấy
thế ông ta bỗng điên tiết lên: Raxtovsin giơ cao tay, quay về phía đám
đông nói to gần như quát: - Anh em hãy xử tội nó đi! Tôi trao nó cho anh
em đấy!
Đám dân chúng lặng thinh và chỉ ép vào nhau sát hơn nữa.
Đứng chen chúc trong cáii không khí ngột ngạt hơi người này không sao
cựa mình được để chờ đợi một việc gì không ai biết rõ, một việc khó
hiểu và kinh khủng sắp xảy ra - Điều đó đã trở thành một cái gì không
sao chịu nổi. Những người đứng ở các hàng trước, được thấy và được nghe
tất cả những gì đang xảy ra trước mắt, mắt vẫn giương to và kinh hãi,
mồm vẫn há hốc, đang cố sức cưỡng lại sức xô đẩy của những người đứng
sau đè nặng lên lưng.
Raxtovsin thét:
- Hạ thủ nó đi! Hãy giết chết tên phản tặc. Đừng để cho nó làm ô danh nước Nga! Chém đi! Ta ra lệnh như thế đấy.
Đám đông không nghe Raxtovsin nói gì, chỉ nghe thấy giọng nói giận
dữ của ông ta. Họ rên lên một tiếng và nhích tới nhưng rồi lại đứng yên.
- Bá tước! - Trong phút im lặng vùa trở lại bỗng nghe giọng nói rụt rè
mà đồng thời lại có vẻ đóng kịch của Veressaghin. - Thưa bá tước. Chỉ có
Thượng đế mới xét xử chúng ta. - Veressaghin ngẩng đầu lên, và đường
gân xanh to tướng trên cái cổ khẵng khiu của hắn lại nổi lên, mặt hắn đỏ
lại tái nhợt đi rất nhanh. Hắn không nói hết được những điều đang muốn
nói.
- Chém chết nó đi! Ta ra lệnh như vậy! Raxtovsin quát lên, mặt bỗng tái mét y như mặt Veressaghin.
- Tuốt gươm ra! Viên sĩ quang hô to ra lệnh cho mấy người lính long kỵ,
và tự mình tuốt gươm ra khỏi. Một luồng sóng mãnh liệt hơn nữa cuộn lên
trong đám đông và khi lan ra các hàng người phía trước luồng sóng ấy xô
những người đứng trước tràn tới, nhấp nhô đến tận sát bậc thềm. Chàng
thanh niên cao lớn, nét mặt cứng đờ ra như đá, cánh tay giơ lên không
nhúc nhích, đứng sát cạnh Veressaghin.
- Chém! - Viên sĩ quan nói với mấy người lính long kỵ, giọng gần như
thều thào, và một người lính, vẻ mặt hằn học trông rất gở, giơ sống
gương đánh vào đầu, Veressaghin kêu lên một tiếng ngắn ngủi và kinh
ngạc, hoảng hốt nhìn quanh như không hiểu tại sao mình lại bị xử trí như
thế.
Một tiếng rên rỉ ngạc nhiên và kinh hãi như vậy cũng truyền khắp dám đông.
" Trời ơi", - Có ai kêu lên một tiếng não lòng.
Nhưng sau tiếng kêu ngạc nhiên vừa thốt ra, Veressaghin bắt đầu
gào lên vì đau đớn, và tiếng gọi ấy đã hãm lại hắn. Cái tình cảm nhân
loại như một sợi dây căng thẳng đến tột độ còn giữ đám người lại mãi đến
bây giờ, bỗng nhiên đứt tung ra. Tội ác đã mở đầu, và không thể nào đi
đến cùng được. Tiếng kêu đau đầy ý trách móc bị tiếng gầm thét của đám
đông át đi. Như đợt sóng cuối sùng đánh chìm chiếc tàu, đợt sóng cuối
cùng không sao ngăn nổi của đám đông từ các hàng người phía sau cuộn lên
và tràn ra các hàng trước lật ngã nó và nuốt chửng mọi vật. Người kính
long kỵ toan giơ gươm lên chém, lại một lần nữa Veressaghin rú lên một
tiếng kinh hãi, giơ hai tay ra chống đỡ và né người về phía đám đông, xô
vào người thanh niên cao lớn. Hắn liền giơ hai tay chộp lấy cái cổ
khẳng khiu của Veressaghin, hét lên một tiếng man rợ và hai người cùng
ngã xuống dưới chân đám đông đang gầm gừ chồm tới.
Người thì đánh đấm, cấu xé Veressaghin, người thì lại đánh, xé
chàng thanh niên cao lớn. Tiếng kêu của những người bị giẫm đạp và của
những người muốn cứu chàng thanh niên cao lớn kia chỉ làm cho sự phẫn nộ
của đám đông càng thêm điên cuồng. Những người lính long kỵ một hồi lâu
không sao gỡ ra được người thợ máu me đầm đìa, bị đánh gần chết. Và một
hồi lâu, tuy đám đông đang hối hả cố hoàn thành cho nhanh cái việc đã
mở đầu kia, nhưng những kẻ đánh đạp bóp cổ và cấu xé Veressaghin cũng
không sao giết chết được hắn; đám đông dồn ép họ từ bốn phía, kẹp họ vào
giữa thành một khối dày đặc, khi xô sang bên này, khi dồn sang bên kia,
khiến cho họ không sao giết chết tươi được Veressaghin, mà cũng không
sao bỏ hắn ra được.
- Lấy rìu mà bổ cho chết chứ? Giẫm chết mất rồi, một thằng phản tặc bán cả Chúa Cơ-đốc! Hắn còn sống. Sống dai thật.
- Đáng đời quân gian phi!… Lấy rìu mà bổ!… Còn sống à…?".
Mãi đến khi nạn nhân đã thôi chống đỡ và những tiếng kêu la của hắn
đã nhường chỗ cho một tiếng phều phào thoi thóp đều đều và kéo dài, đám
đông mới vội vã lui ra và bắt đầu đi lại quanh cái xác chết đẫm máu.
Mỗi người đều lại gần xem người chết rồi lùi lại ngạc nhiên, kinh hãi và
đầy vẻ trách móc.
Trong đám đông có tiếng nói: "Ôi lạy chúa, họ chẳng khác nào loài
thú dữ, anh ta sống làm sao được! Anh ta còn trẻ. Chắc con cái nhà buôn!
Họ thế đấy. Nghe nói không phải anh ta. Người khác kia. Sao, người khác
à, trời ơi. Còn người kia nữa, nghe nói cũng bị đánh gần chết. Chao ơi,
họ thế đấy. Không sợ phải tội với trời đất". - Chính những người lúc
nãy bây giờ lại than thở như vậy họ đau xót đứng nhìn cái xác chết với
khuôn mặt tím bầm bê bết máu lẫn đất và cái cổ dài và mảnh bị chém đứt.
Một viên chức cảnh sát cần mẫn cho rằng để một xác chết nằm trong
sân dinh quan lớn là một điều thất nghi, liền ra lệnh cho lính long kỵ
kéo xác người bị chết ra đường. Hai người lính nắm lấy hai bàn chân đầy
thương tích lôi đi. Cái đầu cạo nham nhở trên cái cổ dài của người chết,
bê bết máu và bụi kéo lê sệt dưới đất, hết nghiêng bên này lại nghẹo
bên kia. Đám đông chen nhau giạt ra một bên, tránh cho xa cái xác chết.
Trong khi Veressaghin ngã xuống và đám đông xô đẩy nhấp nhô trên
người hắn với một tiếng gầm thét man rợ, Raxtovsin bỗng tái mặt đi, và
đáng lẽ phải đi ra thềm sau, nơi chiếc xe ngựa đang đợi ông ta, thì ông
ta lại cúi đầu bước nhanh theo dãy hành lang dẫn xuống các phòng ở tầng
dưới, mà cũng chẳng biết mình đi đâu và để làm gì nữa. Bá tước tái mét,
và tuy ông đã cố sức cưỡng lại, hàm dưới của ông ra cứ run lên bần bật
như đang cơn sốt.
- Bẩm quan lớn phía này ạ. Bẩm quan lớn đi đâu thế ạ? Xin rước quan lớn
ra lối này. - Một giọng nói run sợ ở sau lưng ông ta. Bá tước Raxtovsin
bấy giờ không còn đủ sức mở miệng trả lời nữa, ông ta ngoan ngoãn quay
lại đi về phía người ta vừa chỉ cho mình. Ở thềm sau có một chiếc xe
song mã đang đứng đợi. Ngay ở đấy tiếng gầm thét xa xa của đám đông vẫn
còn vẳng đến. Bá tước Raxtovsin hối hả ngồi lên xe và bảo đánh về ngôi
biệt thự ngoại thành của ông ở Xokolniki. Khi đã đến phố Miasnixkaya và
không còn nghe tiếng hò hét của đám đông nữa, bá tước bắt đầu hối hận.
Ông bực mình nhớ lại cái vẻ xúc động và sợ hãi mà ông ta đã để lộ
ra trước mặt các thuộc hạ. Ông nghĩ thầm bằng tiếng Pháp: "Đám cùng dân
thật là kinh khủng, gớm guốc. Chúng nó thật như người lang sói, phải có
thịt tươi cho chúng thì mới yên được".
"Bá tước! Chỉ có thượng đế mới xét xử chúng ta" - Raxtovsin chợt
nhớ câu nói của Verssaghin, và một cảm giác lạnh buốt khó chịu vụt luồn
qua sống lưng ông ta. Nhưng cảm giác đó chỉ thoáng qua trong giây lát,
rồi bá tước Raxtovsin lại mỉm cười khinh bỉ chế nhạo mình. "Ta còn nhiều
nhiệm vụ khác, - Ông thầm nghĩ, - Cần phải ổn định nhân tâm. Biết bao
nạn nhân khác đã chết và đang chết vì công ích. - Rồi ông ta bắt đầu
nghĩ đến những bổn phận chung chung của ông ta đối với gia đình của
mình, đối với kinh đô của mình (nghĩa là đã được giao phó cho mình cai
trị) và đối với bản thân - nhưng bản thân đây không phải là Feodor
Vaxilievich, Raxtovsin (ông ta cho rằng Feodor Vaxilievich phải hy sinh
cho công ích), mà lại quan tổng đốc tư lệnh, người đại diện của chính
quyền và người đã được hoàng đế uỷ thác toàn quyền hành động.
"Giá ta chỉ là Feodor Vaxilievich, thì con đường xử trí của ta
sẽ vạch ra một cách khác hẳn, nhưng đây lại phải bảo tồn cả tính mệnh
danh giá của một vị tổng đốc".
Trong khi khẽ lắc lư trên cái ổ díp mềm mại của cỗ xe và không còn
nghe tiếng la ó kinh khủng của đám đông nữa, Raxtovsin trở lại bình tĩnh
về thể chất và cũng như thói thường vân thế, đồng thời với trạng thái
bình tĩnh về thể chất thì lý trí cũng tìm ra những lý do cho ông ta trở
lại bình tĩnh về tinh thần. Ý nghĩ làm cho Raxtovsin bình tĩnh lại chẳng
phải là một ý gì mới mẻ. Kể từ khi khai thiên lập địa, kể từ khi loài
người bắt đầu chém giết nhau, chưa bao giờ có một người nào phạm một tội
ác đối với đồng loại mà lại khônng dùng ý nghĩ này để tự yên ủi. Ý
nghĩa đó chính là công íchl, là phúc lợi của những người khác.
Một người không bị dục vọng khống chế thì không bao giờ biết đến
cái công ích này; nhưng một người đang nhúng tay vào một tội ác bao giờ
cũng biết rất rõ cái công ích đó là cái gì. Và giờ đây Raxtovsin cũng
biết rõ điều đó.
Trong khi suy luận ông ta không những không tự trách mình về hành
động vừa rồi, mà còn tìm ra những lý do tự mãn về việc ông ta lợi dụng
cái đó một cách đúng lúc và có công hiệu - vừa trừng trị kẻ có tội mà
lại vừa ổn định được nhân tâm.
"Verssaghin đã bị toà xử tử hình - Raxtovsin thầm nghĩ (thật ra
Verssaghin chỉ bị viện nguyên lão xử phạt khổ sai) - Hắn là một tên gian
tặc và phản quốc; ta không thể tha cho hắn được, ngoài ra làm như vậy
thật là nhât cử lưỡng đắc3: ta đã cung cấp cho dân một vật hy sinh để
cho họ yên tâm, và đồng thời lại trừng trị được tên gian phi".
Về đến biệt thự và bắt tay vào sai bảo những việc vụn vặt trong
nhà, bá tước đã bình tĩnh hẳn lại. Nửa giờ sau bá tước lên một chiếc xe
thắng một bộ ngựa rất nhanh, cho đám xe qua cánh đồng Xokolniki. Bây giờ
ông ta không còn nhớ gì những việc vừa xảy ra nữa, chỉ suy nghĩ đến
những việc sẽ còn xảy ra sau này. Xe đang đi về phía cầu Yauxki, nơi mà
người ta bảo là Kutuzov hiện đang ghé lại. Bá tước Raxtovsin sắp sẵn
trong trí óc những lời trách cứ giận dữ và chua chát mà ông ta sẽ nói
với Kutuzov, người đã lừa dối ông ta. Ông sẽ cho con cáo già triều đình
thấy rằng tất cả những tai hoạ so việc bỏ ngỏ thủ đô, do việc nước Nga
thất thủ (Raxtovsin nghĩ như vậy) gây ra, đều là tại cái đầu óc lẩm cẩm
của hắn ta cả. Trong khi sắp sẵn những lời lẽ nói với Kutuzov, Raxtovsin
giận dữ trở mình trên xe và hầm hầm đưa mắt nhìn quanh.
Cánh đồng Xokolniki vắng tanh. Chỉ về phía cuối, bên cạnh nhà tế
bần và nhà thương điên thấy có những tốp người mặc áo quần trắng và máy
người đi lẻ cùng ăn mặc như vậy đang băng qua cánh đồng, vừa đi vừa quát
tháo và hoa chân múa tay.
Một trong những người đó chạy về phía xe. Bá tước Raxtovsin, người
đánh xe và mấy người lính long kỵ đều có một cảm giác mơ hồ sợ hãi vừa
tò mò khi nhìn những người điên thả rông này, và nhất là người đang chạy
lại gần họ. Bước lảo đảo trên đôi chân cao lòng khòng, tà áo phanh ra
phất phới hai bên, người điên này chạy lại rất nhanh, mắt nhìn chòng
chọc vào Raxtovsin, cất giọng khàn khàn quát tháo những tiếng gì không
rõ và ra hiệu cho ông ta dừng xe lại. Mặt người điên gầy gò và vàng vọt,
râu ria nham nhở đám dài đám ngắn. Hai con ngươi đen lánh như mã não
của hắn ta đảo qua đảo lại, trợn ngược xuống phía dưới, để lộ hai mảng
lòng trắng màu nghệ.
- Đứng lại! Đứng lại! Tao đã bảo đứng lại mà? - người điên hét lên the
thé, và lại hổn hển quát tháo cái gì không rõ, có vẻ như ra lệnh, vừa
quát vừa hoa chân múa tay.
Hắn đã đến ngang tầm xe và chạy song song bên cạnh.
- Chúng nó đã giết tao chết ba lần, đã ba lần tao sống lại. Chúng nó lấy
đá đập tao, chúng nó đã đóng đinh tao lên cây thập tự. Tao sẽ sống lại,
sống lại, sống lại. Chúng nó xé xác tao ra. Vương quốc của Đức Chúa
trời sẽ sụp đổ. Tao sẽ phá đổ ba lần và ba lần sẽ dựng nó lại! - Hắn
quát, mỗi lúc một to giọng.
Bá tước Raxtovsin bỗng tái mặt đi như khi đám đông vồ lấy
Verrssaghin. Ông ta quay đi, cất giọng run run nói với người xà ích.
- Ch…o… cho xe đi nhanh lên?
Chiếc xe song mã lao nhanh hết tốc lực; nhưng hồi lâu ở phía sau
lưng, bá tước Raxtovsin còn nghe tiếng la hét thất thanh, rồ dại mỗi lúc
một xa dần, và trước mắt thì chỉ thấy cái mặt đẫm máu, lộ vẻ kinh ngạc
và sợ hãi của tên phản bội mặc áo tu lúp da chồn.
Tuy kỷ niệm này rất mới mẻ, bấy giờ Raxtovsin cũng cảm thấy rằng nó đã khắc sâu vào tim ông ta, khắc sâu đến bật máu tim ra.
Bây giờ ông đã thấy rõ ràng dấu vết máu của kỷ niệm này sẽ không bao giờ
phai nhạt, mà trái lại cái kỷ niệm khủng khiếp ấy sẽ càng ngày càng da
diết hơn, ác liệt hơn, cứ thế mà sống mãi trong lòng ông ta cho đến giờ
chết. Ông có cảm tưởng như đang nghe văng vẳng bên tai những lời ông đã
nói: "Chém chết nó đi, ta ra lệnh như vậy, nếu không chúng bay sẽ chết
với ta!". Ông thầm nghĩ: "Tại sao ta lại nói như thế! Hình như ta đã
buột miệng nói ra thì phải. Lúc đó ta có thể không nói như vậy: nếu vậy
thì đã chẳng có gì xảy ra hết". Ông hồi tưởng lại vẻ mặt sợ sệt rồi bỗng
chuyển sang hằn học của người lính long kỵ đã giơ gươm chém vào tên
phản tặc và cái nhìn lặng lẽ, rụt rè và đầy trách móc của người thanh
niên mặc áo tu lúp đã ngước lên nhìn ông". Nhưng ta làm như vậy có phải
vì ta đâu. Ta đã buộc lòng phải làm như vậy, Đám dân đen, tên phản tặc
công ích! - ông nghĩ thầm.
Bên cầu Yauxki quân lính vẫn còn chen chúc. Khí trời oi bức,
Kutuzov, vẻ ủ dột, cau có, đang ngồi trên một chiếc ghế dài ở dầu cầu và
lấy chiếc roi vẽ loằng ngoằng trên cát, khi chiếc xe song mã lăn ầm ầm
đến đỗ cạnh chỗ ông. Một người mặc quân phục cấp tướng đội mũ có ngũ
lông, mắt đảo qua đảo lại không biết vì sợ hãi hay vì tức giận, tiến lại
gần Kutuzov và bắt đầu nói với ông một câu gì bằng tiếng Pháp. Đó là bá
tước Raxtovsin. Ông ta nói với Kututzov rằng ông ta đến đây là vì nay
Moskva không còn nữa, thủ đô không còn nữa, chỉ có quân đội mà thôi. Ông
ta nói:
- Giá đại nhân đừng nói với tôi rằng đại nhân sẽ không bỏ Moskva mà
không giao chiến, thì cơ sự sẽ khác hẳn, có đâu đến nông nỗi này!
Kutuzov đưa mắt nhìn Raxtovsin và dường như không hiểu người ta nói gì
với mình, ông ra sức nhìn kỹ gương mặt của người đang nói như để tìm một
ý nghĩ gì đặc biệt phản chiếu trên gương mặt ấy. Raxtovsin đâm luống
cuống: ông ta im bặt. Kutuzov khẽ lắc đầu và vẫn nhùl chằm chặp vào mắt
Raxtovsin, ông nói khẽ:
- Phải, tôi sẽ không bỏ Moskva mà không chiến đấu.
Không biết khi có nói câu này Kutuzov mải nghĩ đến một việc gì
khác hẳn, hay ông ta biết rõ nó vô nghĩa hết sức mà vẫn cố ý nói ra;
nhưng bá tước Raxtovsin không đáp lấy một câu nào, vội, vàng bỏ ra chỗ
khác. Và lạ thay! Quan tổng đốc tư lệnh thành Moskva, bá tước
Raxtovsin kiêu hãnh, cầm lấy một ngọn roi, bước lại gần cầu vừa hò hét
vừa đánh đuổi những chiếc xe tải đang chen chúc ở đầu cầu.
hết: Chương -23 -24-, xem tiếp: Chương - 25 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 EmptyWed Jan 05, 2011 9:38 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XI

Chương - 25 -


Vào khoảng gần bốn giờ trưa, quân đội của Mura tiến vào Moskva. Đi
trước là một chi đội phiêu kỵ Vurtemberg, và tiếp theo là đích thân
"quốc vương thành Napoli"(1) cưỡi ngựa cùng đi với một đoàn tuỳ giá rất
đông.
Vào khoảng giữa Arbat, gần Lilolai Yaivlenny, Mura dừng lại chờ tin tức
của đạo tiến quân loan tin báo về tình hình của thành "Kremlin".
Một tốp người gồm những cư dân ở lại Moskva tụ tập lại xung quanh
Mura. Mọi người đều rụt rè và ngỡ ngàng ngắm nghía ông chỉ huy kỳ quặc
để tóc dài, quân phục thêu thùa đầy những kim tuyến, mũ cắm đầy những
lông chim.
- Thế nào, Sa hoàng của họ đấy à? Trông cũng bảnh đấy chứ! - Trong đám đông có tiếng nói khẽ.
Một viên thông ngôn cưỡi ngựa lại gần. Trong đám đông có tiếng giục nhanh:
- Cất mũ đi. Cất.
Viên thông ngôn hỏi một người gác cổng già, xem từ đây đến thành
Kreml có còn xa không? Lão gác cổng nghe cái giọng Ba Lan lạ tai quá,
không nhận ra rằng đó là tiếng Nga không hiểu viên thông ngôn muốn nói
gì, và lẩn ra sau lưng mấy người khác.
Mura cho ngựa bước lại gần viên thông ngôn, và bỗng có tiếng người
cùng trả lời một lúc. Một viên sĩ quan Pháp từ đạo tiến quân trở lại báo
với Mura rằng cổng thành đã đóng và hình như có quân mai phục bên
trong.
- Được! - Mura nói, đoạn quay về phía một sĩ quan trong đoàn tuỳ tùng, ra lệnh đem bốn khẩu khinh pháo bắn vào cổng thành.
Đội pháo binh từ đạo quân đi sau Mura tiến ra vào đoàn xe kéo pháo chạy
dọc theo phố Arbat. Đi đến cuối phố Vorevienka, đội pháo binh dừng lại
và xếp thành thế trận trên quảng trường.
Mấy viên sĩ quan Pháp cho bố trí các khẩu đại bác và bắc ống nhòm nhìn vào thành Kreml.
Trong thành bỗng vẳng ra tiếng chuông nguyện buổi chiều. Hồi chuông làm
cho quan Pháp hoang mang lo lắng. Họ tưởng là hồi chuông báo động kêu
gọi dân chúng cầm vũ khí chạy về phía cổng Kutafiev. Cổng này có chống
thêm những khúc gỗ và những tấm ván. Người sĩ quan vừa dẫn đội bộ binh
chạy lại phía cổng thì từ phía trong cổng nổ ra hai phát súng trường.
Viên tướng đứng cạnh bốn khẩu pháo liền ra lệnh cho viên sĩ quan dẫn tốp
lính chạy lùi lại.
Trong cổng còn nghe thêm ba tiếng súng nổ. Một phát súng trường bắn
trúng chân một người lính Pháp, phía sau đống gỗ ván chống ở cạnh cổng
bỗng vang lên mấy tiếng reo kì lạ của một nhóm người không đông lắm. Vẻ
vui tươi và điềm tĩnh trên gương mặt tên tướng Pháp, các sĩ quan và binh
lính Pháp, bỗng cùng một lúc, răm rắp như một mệnh lệnh nhường chỗ cho
một vẻ mặt đăm chiêu biểu lộ tinh thần sẵn sàng chiến đấu và chịu đựng
đau khổ. Đối với họ, kể từ viên thống soái cho đến người lính thường chỗ
này không phải là Vozdvizenka, Mokhovaya, Kutuafia hay là cửa ô Troixki
mà là một địa điểm mới của chiến trường mới, nơi có, lẽ sắp xảy ra một
chận huyết chiến. Và mọi người đều chuẩn bị bước vào trận chiến đấu này:
những tiếng reo trong cổng đã im bặt. Bốn khẩu pháo đã được đẩy tới.
Mấy người pháo binh thổi cho bùi nhùi cháy to lên.
Viên sĩ quan hô to: "Bắn!" và hai tiếng đạn rít kế tiếp nhau.
Loạt đạn ria vỗ đôm đốp vào nền đá và đống gỗ ván ở cổng thành; và hai
đám khói lớn từ quảng trường bốc lên.
Tiếng vang của loạt đạn từ bức thành đá của điện Kremli dội ra im
đi được một lát thì trên đầu quân Pháp bỗng nghe có một âm thanh kỳ lạ.
Một đám quạ đông hàng nghìn con bay lên lượn vòng trên thành, kêu quang
quác và vỗ cánh rào rào. Đồng thời từ cánh cổng vang lên một tiếng cười
thét đơn độc và từ sau làn khói hiện ra một bóng người mặc kaftan không
đội mũ. Người đó cầm một khẩu súng chĩa vào quân Pháp.
Bắng viên sĩ quan pháo binh lại hô và một phát súng trường cùng hai phát
đại bác cùng nổ vào một lúc. Khói lại phủ kín cổng thành.
Sau đống gỗ ván không thấy động đậy gì nữa và đám quân lình và sĩ
quan Pháp lại gần cổng. Trước cổng thành có ba người bị thương và bốn
người chết nằm ngổn ngang. Hai người mặc áo kaftan chạy dọc theo bức
thành, về phía Znamenka.
Viên sĩ quan chỉ đống gỗ và mấy xác chết, nói:
- Hốt đi!
Quân Pháp bắn mấy người bị thương cho chết hẳn và quăng xác qua tường. Những người ấy là ai, thì chẳng có người nào biết.
Người ta chỉ có: "Hốt đi!" rồi quẳng đi; về sau họ lại được mang đi
lần nữa, cho khỏi thối. Chỉ có một mình Tyer dành cho vong hồn họ mấy
dòng chữ bao hàm nhiều ý nghĩa:
"Những kẻ khốn nạn ấy đã xông vào thành Kreml thần thánh kiếm được
mấy khẩu súng trong kho vũ khí và bắn (cái quân khốn nạn) vào người
Pháp. Người ta đã chém chết mấy tên và quét sạch chúng ra khỏi điện
Kremli".
Họ báo cáo với Mura là đường vào thành đã mở. Quân Pháp tiến vào
cổng thành và bắt đầu đóng thành doanh trại ở quảng trường nguyên lão
viện. Quân lính vứt ghế ra cửa sổ nguyên lão viện để nhóm bếp.
Những đội quân khác kéo qua điện Kreml và chia nhau hạ trại ở
Mozaixeyka, Lebianka, Tverkaya, Nikolxkaya. Chẳng có nơi nào còn chủ nhà
nữa nên quân Pháp không đóng như khi trú quân ở nhà dân, mà lại đóng
thành một doanh trại dải rộng ra trong thành phố.
Mặc dầu rách rưới đói khát, mệt lả và chỉ còn được một phần ba quân
số cũ, quân Pháp vẫn tiến vào Moskva thành đội ngũ chỉnh tề.
Đó là một quân đội đã mỏi mệt, kiệt quệ nhưng vẫn là một quân
đội thiện chiến hùng mạnh. Nhưng chỉ còn là một quân đội cho tới khi các
đơn vị phân tán ở rải rác trong các khu phố: quân lính vừa chia nhau
vào ở các toà nhà trống trải và sang trọng trong thành thì quân đội đã
vĩnh viễn mất đi, và thay vào đó là một thứ gì chẳng phải là dân, chẳng
phải là lính, mà là một hạng trung gian, thường gọi là những kẻ đi hôi
của. Năm tuần sau, khi chính những con người đó ra khỏi Moskva, thì họ
không còn là một quân đội nữa. Đó là một đám người đi hôi của, trong đó
ai nấy đều chở hay mang theo một đống đồ đạc mà họ cho là quý giá hay
cần dùng. Mục đích của mỗi người khi ra khỏi Moskva không còn là chinh
phục đất người như trước kia nữa, mà chỉ là làm sao giữ lại những của
cải đã vớ được.
Giống như con khỉ thò tay vào hũ bốc được một nắm hạt dẻ rồi không
rút tay ra được vì miệng hũ quá hẹp, nhưng vẫn không chịu thả hạt dẻ ra,
cứ thế mà chịu chết, quân Pháp khi rút khỏi Moskva hẳn là cũng sẽ phải
chết vì cứ cố mang theo những vật đã cướp được mà không thể nào bỏ những
vật ấy lại, cũng như con khỉ không thể nào bỏ lại nắm hạt dẻ. Mười phút
sau khi một trung đoàn Pháp tiến vào một khu phố nào đấy ở Moskva và đã
không còn lại một người lính hay một sĩ quan nào nữa trong các khung
cửa sổ có thể thấy thấp thoáng những con người mặc áo ca-pốt và đi ghệt,
cười ha hả đi lang thang khắp các phòng; trong các gian chứa thức ăn và
trong các hầm rượu cũng có những người như vậy đang tha hồ sử dụng các
thứ lương thực; trong các sân cũng có những người như vậy đang mở và đập
phá các cửa vựa thóc và tàu ngựa; trong các bếp họ nhóm lửa, xắn tay áo
lên, luộc, nấu, rán, nhào bột, doạ nạt đàn bà trẻ con, trêu cho họ
cười, vuốt ve họ. Và những người ấy thì dâu đâu cũng có rất nhiều, trong
các cửa hiệu trong các nhà; nhưng quân đội thì không còn nữa.
Ngay hôm ấy các sĩ quan chỉ huy Pháp đã ra hết lệnh này đến lệnh nọ
cấm các đơn vị không được phân tán trong thành phố, nghiêm cấm việc
hành hung cư dân và trộm cắp của cải, ấn định ngay tối hôm ấy sẽ tổng
kiểm điểm quân số; nhưng dù có tiến hành biện pháp gì đi nữa thì những
con người mà trước đây đã từng làm thành một quân đội, đều vẫn cứ tràn
dần ra khắp cái thành phố trống trải giàu có và lắm tiện nghi, lắm thức
ăn uống này.
Moskva không còn dân cư nữa, và như nước thấm vào cát, quân lính bị
hút sâu vào các phố phường từ điện Kreml là nơi họ vào trước tiên, toả
ra bốn phía như những cánh sao, không gì cưỡng lại được. Mấy người lính
kỵ mã vào nhà một người lái buôn còn nguyên đồ đạc, tầu ngựa rộng rãi
thừa chỗ buộc ngựa, nhưng vẫn sang choán thêm ngôi nhà bên cạnh vì họ có
cảm tưởng là nhà này còn tốt hơn nữa. Nhiều người chiếm đến ba bốn nhà,
lấy phấn viết tên mình ở trước cổng, cãi cọ và thậm chí còn đánh nhau
với đơn vị khác để tranh nhà. Chưa kịp dọn xong chỗ ở, quân lính đã chạy
ra ngắm cảnh phố phường và khi nghe đồn là dân cư đã bỏ hết của cải
lai, họ ùa nhau chạy đến những nơi nào có thể vớ được nhiều đồ vật quý
giá. Các sỹ quan chỉ huy đi gọi quân lính trở về, cũng bất giác làm theo
họ ở khu Karetny Riad có những cửa hàng đóng xe còn để lại rất nhiều xe
cộ, thế là các tướng tá tấp nập kéo đến để chọn xe.
Những người dân còn ở lại mời các sỹ quan chỉ huy về nhà, mong dựa
vào họ để khỏi bị quân lính cướp bóc. Của cải nhiều vô số tưởng chừng
không sao kể xiết; quanh những nơi có quân Pháp đóng, đâu đâu cũng thấy
còn những nơi chưa khám phá, chưa bị chiếm và quân Pháp cứ có cảm giác
là những nơi ấy, lại còn có nhiều của cải hơn. Và Moskva nỗi lúc một hút
sâu quân Pháp vào lòng. Khi đổ nước xuống đất khô, thì nước cũng biến
mất, mà đất khô cũng không còn; khi một quân đội đói khát tiến vào một
thành phố trù phú bị bỏ trống cũng vậy; quân đội cũng biến mất, mà thành
phố trù phú cũng chẳng còn: chỉ còn lại rác rưởi, trộm cắp và hoả hoạn.
Người Pháp gán việc đốt cháy Moskva cho lòng ái quốc hung tàn và
Raxtovsin; người Nga gán việc đó cho sự tham tàn dã man của quân Pháp.
Thật ra không có và không thể có nguyên nhân nào gây nên vụ hoả hoạn
Moskva, nếu hiểu nguyên nhân đây là phần trách nhiệm của một người hay
một số người nào đó tới Moskva cháy là vì nó được đặt vào những điều
kiện mà bất cứ thành phố nào làm bằng gỗ cũng phải cháy, bất luận trong
thành phố đó có hay không có một trăm ba mươi cái vòi chữa cháy hạng
tồi, Moskva tất phải cháy là vì dân cư đã đi hết. Nó cũng cháy một cách
tất nhiên như một đống vỏ bào tất phải cháy nếu cứ có những tán lửa liên
tiếp rơi xuống trong mấy ngày liền. Một thành phố làm bằng gỗ mà ngay
khi các dân cư các chủ nhà còn ở lại và trong thành phố còn có một đội
cảnh sát, hầu như ngày nào cũng có đám cháy, thì không thể nào không
cháy khi trong thành phố không có dân ở nữa mà chỉ có những đội quân hút
thuốc, lấy ghế của viện nguyên lão ra đun bếp trên quảng trường của
viện, mỗi ngày hai lần thổi nấu. Vào thời bình, chỉ cần có những đơn vị
bộ đội trú quân ở trong các làng thuộc một địa phương nhất định là số
đám cháy trong địa phương ấy tăng lên. Thế thì khả năng xảy ra hoả hoạn
còn tăng lên đến chừng nào khi một đội quân ngoại quốc đóng trong một
thành phố bằng gỗ không dân? Cái lòng ái quốc hung tàn của Raxtovsin và
sự tham tàn dã man của quân Pháp không hề dính dáng gì ở đây cả.

Moskva cháy là vì những tẩu thuốc, những cái bếp, những đống lửa, vì
sự cẩu thả của quân lính địch, của những kẻ ở trong nhà nhưng không phải
là chủ nhà. Và chăng dù có những kẻ cố tình đi đốt chăng nữa - điều này
rát khó tin, vì chẳng có lý do gì để đốt nhà, và dù sao đốt nhà như vậy
cũng là một công việc khó khăn và nguy hiểm, thì cũng không thể xem
những người đó là nguyên nhân, bởi vì không có họ thì cơ sự cũng vẫn
thế.
Dù người Pháp lấy làm thích thú buộc tội cho tính hung tàn của
Raxtopsin, dù người Nga lấy làm thích thú buộc tội cho tên giặc
Bonaparte, rồi về sau lại cho rằng bàn tay nhân đạo họ đã giơ ngọn đuốc
anh hùng lên đốt cháy kinh đô, thì cũng không thể nào không thấy rằng vụ
hỏa hoạn này không thể có một nguyên nhân trực tiếp như vậy, bởi vì thế
nào rồi Moskva cũng phải cháy, như bất cứ làng nào, bất cứ nhà máy nào,
bất cứ ngôi nhà nào mà các chủ nhà đã bỏ đi để cho người lạ vào làm chủ
và tha hồ nấu nướng. Moskva đã bị dân đốt cháy, quả đúng như vậy; nhưng
đây không phải là những người dân ở lại trong thành phố mà là những
người dân đã bỏ đi.
Khi bị địch quân chiếm đóng, Moskva không còn nguyên vẹn được như
Berlin, Viên và các thành phố khác, chỉ vì dân cư của nó không bưng bánh
mỳ và muối(2), không mang chìa khóa(3) ra đón quân Pháp, mà lại bỏ
thành phố ra đi.

Chú thích:
(1) Mura
(2) Tượng trưng cho lòng mến khách (theo phong tục Nga)
2 Chìa khóa tượng trưng của thành phố, để tỏ ra rằng thành phố mở cửa không chống cự.
hết: Chương - 25 -, xem tiếp: Chương - 26 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 EmptyWed Jan 05, 2011 9:38 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XI

Chương - 26 -


Suốt ngày mồng hai tháng chín, quân Pháp ngấm dần vào Moskva, tỏa
rộng ra bốn phía như những cánh sao. Đến tối ngày hôm ấy nó mới ngấm đến
tận khu vực mà Piotr hiện trú ngụ.
Sau hai ngày vừa qua sống cô độc trong một trạng thái gần như bệnh
điên, một ý nghĩa độc nhất đang ám ảnh chàng. Chàng cũng không biết ý
nghĩ này đến với chàng như thế nào và từ bao giờ, nhưng bây giờ nó khống
chế chàng dến nỗi chàng không còn nhớ gì những việc xảy ra trong quá
khứ, mà cũng chẳng hiểu tí gì về những việc đang diễn ra hiện nay; và
tất cả những điều mà chàng thấy trước mắt và nghe bên tai đều mờ ảo như
trong giấc mộng.
Piotr bỏ nhà ra đi chỉ vì muốn thoát khỏi những yêu cầu rối ren
hỗn tạp của cuộc sống đang vấy bọc lấy chàng như một màng lưới mà trong
tình trạng hiện nay chàng không sao đủ sức gỡ ra được…
Chàng đến nhà Ioxif Alekxeyevich lấy cớ là để chọn sách vở giấy tờ
của người quá cố, nhưng thực ra chỉ là để tìm cách khuây khỏa những mối
lo âu bứt rứt của cuộc sống. Và trong tâm trí chàng, những kỷ niệm về
Ioxif Alekxeyevich gắn liền với cái thế giới của những tư tưởng vĩnh
hằng yên tĩnh và trang nghiêm, hoàn toàn trái ngược với những nỗi lo
lắng rối ren mà chàng đang cảm thấy mình bị lôi cuốn vào. Chàng tìm ra
một nơi trú ẩn tĩnh mịch, và quả nhiên đã tìm thấy chỗ ẩn náu đó trong
gian phòng làm việc của Ioxif Alekxeyevich. Trong căn phòng im phăng
phắc, khi chàng ngồi xuống, chống hai khuỷu tay lên cái bàn giấy phủ bụi
của người quá cố trong tưởng tượng của chàng lần lượt hiện ra, thanh
thản và đầy ý nghĩa, những kỷ niệm của những ngày vừa qua, đặc biệt là
của trận Borodino và cái cảm giác mà chàng không sao cưỡng nổi - rằng
mình vô nghĩa và dối trá quá chừng so với sự chân thật, giản dị và mạnh
mẽ của lớp người đã in sâu vào lòng chàng thành một chữ giản đơn: họ.
Khi Geraxim vào phòng đột ngột làm cho chàng sực tỉnh, chàng bỗng nảy ra
ý nghĩ mình sẽ cùng nhân dân tham dự vào công cuộc phòng thủ Moskva sắp
tới mà chàng biết là đã được dự định. Và để thực hiện ý định ấy chàng
lập tức bảo Geraxim kiếm cho chàng một chiếc áo kaftan và một khẩu súng
ngắn, và cho người lão bộc biết rõ là chàng sẽ giấu kín tên tuổi và ở
nhà Ioxif Alekxeyevich. Rồi, trong cái ngày đầu sống cô độc và nhàn rỗi
(Piotr dã mấy lần cố gắng lưu ý đến cái bản thảo viết tay của hội Tam
điểm, nhưng không được), chàng nhiều lần nhớ đến ý nghĩa thần bí của cái
quan hệ giữa tên chàng với bên Bonaparte. Russie Besuhof(1), là người
có sứ mệnh chấm dứt sự hoành hành của con ác thú ấy. Trước đây chàng
cũng đã nhiều lần nghĩ đến điều này, nhưng đó chỉ là một ước mơ vụt
thoáng qua trong tưởng tượng một cách vô cớ và không để lại dấu vết gì.
Sau khi mua được chiếc áo kaftan (chỉ nhằm mục đích tham dự vào việc
bảo vệ Moskva và nhân dân), Piotr đã gặp gia đình Roxtov, và khi Natasa
đã nói với chàng : "Anh ở lại à? Chà, hay quá!" thì chàng bỗng có ý
nghĩ rằng quả cũng hay thật, dù Moskva có thất thủ thì chàng cũng nên ở
lại để hoàn thành cái nhiệm vụ tiền định cho chàng.
Ngày hôm sau, với một ý nghĩ duy nhất là quyết không tiếc thân cho
mình và không thua kém họ chút nào, Piotr đã ra cửa ô Trigorư. Nhưng khi
chàng quay về nhà vì đã biết rõ người ta không bảo vệ thì điều mà trước
kia chàng xem như một khả năng thôi nay đã trở thành một việc tất nhiên
phải làm và không sao tránh khỏi.
Chàng nhất định phải dấu kín tên họ ở lại Moskva tìm cách gặp Napoléon
và giết hắn đi: một là chết, hai là chấm dứt cơn hoạn nạn của toàn thể
châu Âu, cơn hoạn nạn mà Piotr cho là chỉ do một mình Napoléon gây ra.
Piotr biết rất rõ vụ mưu sát Napoléon do người sinh viên Đức(2) tiến
hành ở Viên năm 1809, và cũng biết người sinh viên đó đã bị xử bắn. Và
điều nguy hiểm có thể hy sinh cả tính mạng, trong khi thực hiện ý định
lại càng cổ vũ Piotr thêm.
Hai tình cảm có sức mạnh ngang nhau không sao cưỡng nổi đang lôi
cuốn Piotr tới chỗ thực hiện ý định đó. Trước hết, Piotr thấy mình nhất
thiết phải hy sinh và đau khổ khi đã nhận thức được tai hoạ chung: Đó
chính là cái tình cảm đã khiến chàng đến Mozaisk vào ngày hai mươi nhăm
tháng trước và dấn thân vào nơi lửa đạn, rồi đến nay bỏ nhà ra đi, từ
giã cảnh sinh hoạt sang trọng và xa xỉ đến ngủ trên một chiếc đi-văng
cứng không cởi áo ngoài, và cũng chia sẻ bữa ăn với Geraxim; tình cảm
thứ hai là lòng khinh miệt mơ hồ mà chỉ riêng người Nga mới có đối với
tất cả những cái gì ước lệ giả dối, nhân tạo, đối với tất cả những cái
gì mà người đời thường xem là hạnh phúc tuyệt dỉnh của nhân loại. Lần
đầu tiên, Piotr có cái tình cảm kỳ lạ và đầy sức quyến rũ ở cung
Xlobodxki, khi mà chàng chợt hiểu rằng của cải, quyền binh, tính mệnh,
tất cả những điều mà con người ta ra sức xếp đặt và giữ gìn - Tất cả
những thứ đó nếu có chút giá trị gì thì chẳng qua cũng là ở cái khoái
cảm mà người ta có được khi vứt bỏ nó đi. Đó chính là cái tình cảm khiến
người lính chí nguyện đem nướng đồng kô-pếch cuối cùng của mình trong
quán rượu, khiến người quá chén vô cớ đập vỡ gương và kính, tuy cũng
biết rằng sẽ phải đem những đồng tiều cuối cùng trong túi ra đền. Đó là
cái tình cảm khiến người ta làm những việc điên rồ (theo con mắt người
tục) như để thử thách sức mạnh và quyền lực của mình, cái tình cảm chứng
tỏ rằng có một toà án cao cả đứng ở bên trên những quy ước của nhân
loại và xét xử cuộc sống.

Từ ngày Piotr thử nghiệm lần đầu tiên cái tình cảm này ở cung
Xlobodxki, chàng đã luôn luôn chịu ảnh hưởng của nó, nhưng mãi đến bây
giờ chàng mới có khả năng thoả mãn tình cảm đó một cách trọn vẹn. Hơn
nữa, trong giây phút này việc mà Piotr đã làm theo hướng ấy khiến chàng
giữ vững ý định và không cho phép chàng từ bỏ nó nữa. Việc chàng bỏ nhà
ra đi, chiếc áo kaftan, khẩu súng ngắn, những lời chàng nói với gia đình
Roxtov rằng chàng sẽ ở lại Moskva, tất cả những điều đó không những sẽ
mất hết ý nghĩa, mà còn lại đâm ra đáng khinh và lố bịch nữa (Piotr rất
sợ điều này), nếu như sau đó chàng lại rời Moskva ra đi như những người
khác.
Cơ thể của Piotr lúc bấy giờ - Đó là lệ thường đối với bất kỳ ai -
Cũng phù hợp với tâm trạng của chàng. Những thức ăn thô tạp mà chàng vốn
không quen ăn, những cốc rượn vodka mà chàng uống mấy hôm nay, tình
trạng thiếu rượu nho và xì-gà, bộ đồ lót bẩn lâu ngày không thay, hai
đêm gần như mất ngủ trên chiếc đi-văng ngắn thay giường, tất cả những
cái đó khiến cho Piotr luôn luôn ở trong tình trạng thần kinh khích động
gần như điên.
Bấy giờ đã hơn một giờ trưa. Quân Pháp đã tiến vào Moskva. Piotr
biết thế, nhưng chàng vẫn chưa hành động, mà chỉ ngồi nghĩ đến ý định
của mình, suy đi tính lại thật tỉ mỉ những việc sẽ làm.
Trong khi mơ tưởng như vậy, chàng không hình dung được rõ rệt khi
chàng hoạt động, khi Napoléon chết sẽ ra sao, nhưng lại hình dung được
cảnh mình bị sát hại và thái độ dũng cảm của mình một cách rõ rệt lạ
thường, và thấy khoái trá nhưng cũng buồn buồn khi nghĩ đến cảnh ấy.
"Phải, vì mọi người, một mình ta phải làm tròn việc đó, hay là
chết! - Pier thầm nghĩ. - Phải, ta sẽ đi… rồi đột nhiên… Dùng súng hay
dùng hay dao găm?… thì cũng thế thôi. Đây không phải là cá nhân ta, đây
là bàn tay của Thượng đế trừng phạt ngươi… ta sẽ nói thế (Piotr sắp sẵn
những lời sẽ đem ra nói khi giết Napoléon) - "Thôi được các ngươi bắt ta
đi, hay hành hình ta đi" - Piotr nhẩm nói một mình vẻ mặt buồn rầu
nhưng rắn rỏi, đầu cúi gằm.
Trong khi Piotr đứng ở giữa phòng suy nghĩ mình như vậy thì cửa phòng
bỗng mở toang ra và Makar Alekxeyevich xuất hiện trên ngưỡng cửa. Cái
dáng dấp xưa nay vẫn rụt rè của hắn ta bây giờ đã thay đổi hẳn. Chiếc áo
dài của hắn phanh rộng ra; mặt hắn đỏ gay và trông rất dễ sợ. Rõ ràng
là hắn đang say rượu. Thoạt mới trông thấy Piotr, hắn luống cuống một
lúc, nhưng khi nhận thấy vẻ mặt chàng cũng có vẻ luống cuống, hắn dạn dĩ
lên ngay và bước loạng choạng trên đôi chân khẳng kheo tiến vào giữa
phòng.
- Chúng nó sợ rồi. - Makar Alekxeyevich nói, giọng khàn khàn, có vẻ tin
cậy. - Tôi đã bảo là tôi không hàng, tôi đã bảo mà… có phải không thưa
ngài?- Hắn ngẫm nghĩ một lát rồi chợt trông thấy khẩu súng ngắn để trên
bàn, hắn chộp lấy một cách nhanh nhẹn không ngờ và chạy ra hành lang.
Geraxim và người gác cổng chạy theo Makar Alekxeyevich và cố giật
khẩu súng ra. Piotr ra hành lang, nhìn theo lão dở điên dở dại, vừa
thấy thương vừa ghê tởm. Makar Alekxeyevich nhăn nhó vì đang cố lấy gân
giữ khẩu súng lại, cất tiếng khàn khàn quát tháo huyên thuyên, chắc là
đang tưởng tượng ra một việc gì long trọng lắm.
- Báo động! Xung phong! Chỉ láo, không tước được súng của tao đâu! - Hắn quát.
- Thôi xin ông thôi cho, ông làm ơn bỏ súng ra cho. Kìa, ông!…- Geraxim tìm cách đẩy hắn vào trong nhà.
- Mi là ai? Bonapate? - Makar Alekxeyevich quát lên.
- Như thế không tốt đâu; ông ạ. Xin mời ông về phòng nghỉ một chút. Xin ông thả khẩu súng ra cho.
- Xéo ngay, hỡi tên nô lệ đáng khinh kia! Chớ có chạm vào người ta!
Người thấy chưa?- Makar Alekxeyevich quát, tay hoa khẩu ngắn. - Xung
phong!
Geraxim nói thầm với người gác cổng:
- Nắm lấy!
Họ chộp lấy hai cánh tay Makar Alekxeyevich và kéo vào phía cửa.
Trong phòng ngoài vang lên những tiếng rú khàn khàn của người say
rượu đang kêu thất thanh và tiếng người lôi kéo nhau huỳnh huỵch.
Bỗng một tiếng rú khác, một tiếng rú the thé của một người đàn bà từ ngoài thềm đưa vào, rồi bà nấu bếp chạy vào phòng ngoài.
- Chúng nó đấy! Cha mẹ ơi! Đúng là chúng nó rồi… Bốn đứa cưỡi ngựa! - Bà ta thét.
Geraxim và người gác cổng thả Makar Alekxeyevich ra và trong dãy
hành lang bây giờ im phăng phắc nghe rõ mồn một tiếng mấy bàn tay gõ lên
cánh cửa ra vào.

Chú thích:
(1) Người Nga Beduhop
(2) Tên là Phridrich Sttap (1792 - 1809)
hết: Chương - 26 -, xem tiếp: Chương - 27 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 EmptyWed Jan 05, 2011 9:38 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XI

Chương - 27 -


Piotr đã đinh ninh tự nhủ rằng từ bây giờ cho tới khi hoàn thành ý
định chàng sẽ không để lộ tên họ mình ra và cũng sẽ giấu kín không cho
ai biết là chàng biết tiếng Pháp. Chàng đứng bên cánh cửa hé mở trong
dãy hành lang, định là hễ quân Pháp vào thì sẽ lánh mặt ngay. Nhưng quân
Pháp đã vào mà Piotr vẫn đứng yên ở cửa: một sự tò mò không sao khắc
phục nổi đã giữ chàng lại.
Cả thảy có hai người Pháp. Người thứ nhất là một viên sĩ quan; một
người cao lớn, xốc vác và đẹp trai, người kia chắc là mộ người lính hay
một người cần vụ vì đấy, dáng người thấp bé, gầy gò nước da đen sạm, má
hóp, vẻ mặt ngờ nghệch. Viên sĩ quan chống một chiếc can đi khập khiễng
bước vào hành lang. Đi vào được mấy bước, viên sĩ quan như đã yên chí
rằng đây là một chỗ ở tốt, bèn dừng lại, quay về phía hai người lính
đang đứng ở phía ngoài cổng, lớn tiếng sai họ dắt ngựa vào. Làm xong
công việc đó, viên sĩ quan đưa tay lên sửa lại bộ ria, khuỷu tay khuỳnh
ra trông rất ngang tàng, rồi đưa bàn tay chạm vào vành mũ.
- Chào tất cả! - viên sĩ quan mỉm cười nói, đưa mắt vui vẻ nhìn quanh.
Không ai đáp lại một tiếng. Viên sĩ quan quay sang nhìn Geraxim hỏi:
- Ông là chủ nhà phải không?
Geraxim sợ sệt và bỡ ngỡ nhìn viên sĩ quan.
- Quắc-tia, quắc-tia(1), chỗ ở ấy mà - viên sĩ quan nói, miệng mỉm một
nụ cười hồn hậu và ra vẻ bề trên, đưa mắt xuống ông già thấp bé. - Người
Pháp rất hiền lành. Có quái gì đâu nào! Thôi đừng giận, ông bạn già
nhé! - viên sĩ quan vừa nói thêm vừa vỗ vai Geraxim bấy giờ lặng thinh,
có vẻ hoảng sợ.
- Chà! thế ra trong cửa hiệu này không có ai biết nói tiếng Pháp à? -
Người Pháp nói thêm, đưa mắt nhìn quanh và bắt gặp đôi mắt của Piotr,
Piotr vội lảng đi.
Viên sĩ quan lại quay về phía Geraxim, bảo hắn ta dẫn hắn đi xem các phòng trong nhà.
- Ông chủ, không có lớ, tôi, không hiểu lớ. - Geraxim nói, ý chừng lão
cho rằng nói trọ trẹ đi như vậy thì người Pháp kia may ra mới hiểu.
Viên sĩ quan Pháp mỉm cười xòe hai bàn tay ra khua khua trước mũi
Geraxim để tỏ ra rằng hắn ta cũng chẳng hiểu gì nốt rồi khập khiễng bước
về phía cánh cửa có Piotr đứng.
Piotr đã toan lẩn đi, nhưng ngay lúc ấy chàng trông thấy Makar
Alekxeyevich tay cầm súng ngắn từ cửa nhà bếp lù lù bước ra. Với cái vẻ
tinh quái của một người điên Makar Alekxeyevich đưa mắt nhìn viên sĩ
quan Pháp từ đầu đến chân rồi giơ súng lên nhằm.
- Xung phong! - Người say rượu quát to và luồn ngón tay vào bấm cò. Viên
sĩ quan Pháp nghe tiếng quát giật mình quay lại, và cũng ngay lúc ấy
Piotr đã lao người vào Makar Alekxeyevich. Trong khi Piotr nắm lấy khẩu
súng ngắn và nhấc bổng lên, người say rượu đã bấm trúng cò và một phát
súng nổ choáng tai, khói thuốc bao bọc lấy mọi người. Người Pháp tái mặt
đi và chạy ra cửa.
Quên mất ý định giấu không cho ai biết mình biết tiếng Pháp, Piotr
giật khẩu súng ngắn vứt đi, và chạy lại gần viên sĩ quan nói với hắn
bằng tiếng Pháp:
- Ông không bị thương chứ?
- Hình như không, - Viên sĩ quan vừa đáp vừa nắn nắn khắp người - nhưng
lần này thì suýt nữa toi mạng - hắn nói thêm, tay chỉ vào chỗ vừa bị sứt
ở trên tường, rồi đưa mắt nghiêm nghị nhìn Piotr, hắn hỏi - Người này
là ai?
- Ồ tôi thật vô cùng ân hận về việc xảy ra, - Piotr nói nhanh, bây giờ
chàng đã quên hẳn vai trò của mình. - Đó là một người điên, một người
khốn khổ chẳng biết mình làm gì nữa.
Viên sĩ quan lại gần Makar Alekxeyevich và túm lẩy cổ áo hắn.
Makar Alekxeyevich, môi trề xuống, người lắc lư dựa vào tường, như người ngủ gật.
- Đồ kẻ cướp, mày sẽ biết tay tao - người Pháp bỏ tay ra nói - Người
Pháp chúng tôi rất khoan hồng sau khi thắng trận, nhưng chúng tôi không
dung thứ những kẻ phản trắc! - Hắn nói thêm, vẻ mặt trang trọng và
nghiêm khắc, tay làm một cử chỉ cương quyết trông rất đẹp mắt.
Piotr tiếp tục dùng tiếng Pháp xin viên sĩ quan đừng chấp làm gì một
kẻ điên rồ say rượu. Người Pháp lặng thinh nghe chàng nói, vẻ mặt lầm
lầm vẫn không thay đổi, rồi bỗng mỉm cười ngoảnh về phía Piotr, im lặng
nhìn chàng một lát. Trên gương mặt tuấn tú của hắn hiện lên một sắc thái
dịu dàng rất bi kịch. Hắn chìa tay ra.
- Ông đã cứu sống tôi! Ông là người Pháp - Hắn nói.
Đối với mỗi người Pháp, đó là một kết luận chắc chắn không còn phải
nghi ngờ gì nữa. Chỉ có một người Pháp mới có hành động cao cả được, mà
cứu sống hắn, là M. Rambal, đại uý của trung đoàn khinh binh thứ mười
ba, chắc chắn phải là hành động cao cả nhất.
Nhưng mặc dù cái kết luận ấy thật không còn có thể nghi ngờ gì nữa,
viên sĩ quan một mực tin chắc như vậy, Piotr vẫn thấy cần làm cho hắn ta
vỡ mộng.
- Tôi là người Nga! - Chàng nói nhanh.
- Ô chà chà, thôi xin ông, - người Pháp vừa nói vừa giơ ngón tay lên
khua khua trước mũi. - Chốc nữa ông kể cho tôi nghe đầu đuôi câu chuyện
nhé. Rất sung sướng được gặp một người đồng bang.
- Thế nào! Bây giờ ta xử trí người này ra sao? - Hắn nói thêm với Piotr, giọng đã thân mật như chỗ anh em.

Dù Piotr không phải là người Pháp thì một khi đã được nhận cái danh
hiệu cao cả nhất trên đời này, chàng ta cũng không thể nào khước từ nó
được, - giọng nói và vẻ mặt của viên sĩ quan Pháp biểu lộ rõ ràng ý nghĩ
đó.
Piotr phân trần một lần nữa cho nên viên sĩ quan hiểu Makar
Alekxeyevich là người thế nào, chàng cắt nghĩa rằng ngay trước khi họ
đến, con người điên rồ và say rượu ấy đã lôi ở đâu ra một khẩu súng có
nạp đạn, người nhà chưa kịp lấy lại thì họ đã vào, và chàng yêu cầu viên
sĩ quan đừng trừng trị hành động đó. Người Pháp ưỡn ngực ra và dang tay
làm một cử chỉ đế vương:
- Ông đã cứu sống tôi, ông là người Pháp, ông xin ân xá cho tên này? Tôi xin chiều ông. Quân bay đem tên kia đi!
Người Pháp nói nhanh, giọng cương quyết. Hắn khoác tay Piotr người
đã được hắn phong là người Pháp vì đã cứu hắn thoát chết, và cùng đi
với Piotr vào phòng trong.
Những người lính đợi ở ngoài sân nghe tiếng súng nổ chạy vào phòng
ngoài hỏi xem có việc gì xảy ra, ra vẻ sẵn sàng trừng trị những kẻ thủ
phạm; nhưng viên sĩ quan nghiêm nghị cản họ lại nói:
- Khi nào ta cần đến các chú, ta sẽ cho gọi.
Mấy người lính lui ra. Người lính cần vụ, lúc bấy giờ đã có đủ thì giờ vào thăm nhà bếp, lại gần viên sĩ quan nói:
- Thưa đại uý, trong nhà bếp có xúp và có đùi cừu ạ. Có phải dọn lên hầu ngài không ạ?
- Có cả rượu vang nữa nhé! - Viên đại uý nói trong gian phòng khách lớn, gian phòng đầu tiên hai người vào.
Khi Piotr khẳng định rằng chàng không phải là người Pháp, viên
đại uý chắc hẳn là không hiểu nổi tại sao người ta lại từ chối một tước
vị cao quý như vậy, liền nhún vai nói rằng chàng cứ khăng khăng nhất
định bảo mình là người Nga thì thôi, cũng được nhưng hắn ta thì dù sao
cũng vẫn biết ơn chàng trọn đời vì đã cứu mạng hắn.
Giả sử người Pháp này có khả năng hiểu biết ttình cảm của người khác và
đoán được những cảm giác của Piotr thì có lẽ Piotr đã bỏ đi rồi; nhưng
đằng này hắn không có lấy một chút khả năng thông cảm nào đối với những
cái gì không phải là chính bản thân hắn ta và cái vẻ say sưa hồ hởi của
hắn đã chinh phục được Piotr.
- Dù ông là người Pháp hay là một vị hoàng thân Nga ẩn danh, - người
Pháp vừa nói vừa nhìn chiếc áo sơ mi tuy bẩn nhưng rất mịn của Piotr và
chiếc nhẫn chàng đeo trên ngón tay, tôi cũng đã nhờ ông mà thoát chết và
xin ông nhận cho tình bằng hữu của tôi. Một người Pháp không bao giờ
quên một lời nhục mạ hay một công ơn. Xin ông vui lòng nhận tình cảm của
tôi. Tôi chỉ muốn nói có thế thôi!
Giọng nói, vẻ mặt và cử chỉ của viên sĩ quan này có một cái gì hiền
lành và cao thượng (theo cách quan niệm của người Pháp về chữ này) đến
nỗi Piotr bất giác mỉm cười đáp lại nụ cười của người Pháp và khi hắn
giơ tay ra chàng cũng bắt tay hắn.
- Đại uý Rambal thuộc trung đoàn khinh binh thứ mười ba đã được tuyên
dương nhân trận mùng bẩy tháng chín - hắn tự giới thiệu với nụ cười tự
mãn không sao kiềm chế nổi làm cho môi hắn cong lên dưới bộ ria mép. -
Bây giờ xin ông cho tôi được rõ tôi đang được hân hạnh nói chuyện thú vị
như thế này với ai, trong khi lẽ ra tôi đã phải nằm ở trạm cưu thương
với viên đạn của thằng điên ấy trong người.
Piotr đáp rằng chàng không thể nói tên họ được, và đỏ mặt toan tìm
cách bịa ra một cái tên nào đấy và giãi bày những lý do khiến cho chàng
không thể nói rõ tên họ, nhưng người Pháp đã hối hả ngắt lời chàng:
- Thôi xin ông miễn cho! Tôi hiểu lý do của ông rồi: ông là một sĩ quan,
sĩ quan cao cấp cũng nên. Ông đã cầm khí giới chống lại chúng tôi.
Nhưng đó không phải là việc của tôi. Tôi đã nhờ ông mà thoát chết. Thế
là đủ rồi. Tôi là người của ông. Ông là một quí tộc chứ? - hắn nói thêm,
giọng hơi uốn cao lên như muốn hỏi. Piotr nghiêng đầu - Xin ông cho tôi
biết lên rửa tội? Tôi không dám hỏi gì hơn. Ông Piotr ạ. Tốt lắm. Tôi
chỉ cần biết có thế thôi.
Khi thịt cừu, chả trứng, ấm lò, vodka và rượu vang (chỗ rượu này họ
đã lấy ở một hàng rượu Nga mang đến đây) đã được bày ra bàn. Rambal mời
Piotr dự tiệc này và lập tức tự mình bắt tay vào ăn nhanh và rất ngon
miệng, chứng tỏ mình là một người khỏc mạnh và đang đói, hàm răng lực
lưỡng nhai ngấu nghiến, luôn luôn chép miệng và trầm trồ: "ngon quá,
ngon tuyệt". Mặt hắn ta đó bừng lên và lấm tấm mồ hôi. Piotr cũng đang
đói nên vui lòng dự vào bữa ăn.
Morel, tên lính cần vụ, bưng lên một sóng nước nóng và ngâm chai rượu
vang đỏ vào. Ngoài ra hắn lại mang đến một chai kvax(2) mà hắn đã lấy ở
nhà bếp để nếm thử. Bây giờ quân lính Pháp đã biết đến thứ nước ngọt này
và đặt tên cho nó là limonade de cochon (nước chanh của lợn). Morel
khen lấy khen để chai limonade de cochon mà hắn đã tìm thấy trong nhà
bếp. Nhưng vì viên đại uý đã có mấy chai rượu vang kiếm chác được khi đi
lại trong thành Moskva, cho nên hắn nhường chai kvax cho Morel và tấn
công vào chai Bordaux. Mambal lấy khăn bông cuốn vào cổ chai, rót rượu
cho mình và Piotr. Khi cơn đói đã dịu bớt và hơi men đã bốc, viên đại uý
càng thêm sôi nổi hoạt bát, suốt bữa ăn nói không ngớt miệng.
- Phải, ông Piotr thân mến ạ, đối với ông, tôi chịu một cái ơn rất lớn.
Ông đã cứu tôi thoát khỏi tay cái thằng hoá dại kia. Ông ạ, người tôi ăn
từng ấy đạn cũng đã đủ lắm rồi. Đây một viên này (hắn chỉ vào hông)
Vagram và hai viên nữa ở Smolensk - hắn chỉ cái sẹo bên má. - Lại còn
cái chân này nữa, ông cũng thấy đấy, nó chẳng buồn đi cho. Tôi bị vết
thương này trong trận đánh lớn hôm mùng bảy bên sông Moskva. Mẹ kiếp,
hùng vĩ thật! Phải biết, thật là một trận bão lửa. Các anh đã làm cho
chúng tôi vất vả ra trò. Thật tình mà nói, quả các anh có thể tự hào về
trận đó. Và mặc dù trong trận ấy tôi đã kiếm được cái này (hắn chỉ vào
chiếc huân chương chữ thập), tôi vẫn sẵn sàng chơi lại một trận nữa. Tôi
thương hại cho những kẻ nào không được dự trận vừa rồi.
- Tôi có dự trận ấy! - Piotr nói.
- Ô thật à! Thế thì càng tốt, - Người Pháp nói tiếp, - Các ngài thật là
những kẻ địch cừ khôi chứ không phải vừa… Hoả điểm chính kháng cự dai
thật đấy, bố khỉ, quả là ngài đã bắt chúng tôi trả bằng một giá rất dắt.
Cứ như tôi đây, tôi cũng đã xông lên chiến luỹ ấy ba lần. Đã ba lần
chúng tôi leo được lên mấy khẩu pháo rồi, và ba lần các ngài hất bật
chúng tôi ra như những thằng người giấy. Ô, thật là đẹp mắt, ông Piotr
ạ. Lính thủ pháo của các ngài cừ thật. Sáu lần liền tôi đã thấy họ dồn
hàng lại đi đều như duyệt binh. Kền thật! Quốc vương thành Napoli của
chúng tôi rất biết người biết của, ngài đã thốt lên: cừ quá! À! à! Ra
ông cũng là quân nhân như chúng tôi à? - Hắn nói sau một phút im lặng. -
Càng tốt, càng tốt ông Piotr ạ. Rất đáng sợ khi ra trận, rất lịch thiệp
với mỹ nhân - hắn mỉm cười nháy mắt - Người Pháp là thế đấy, có phải
không, hở ông Piotr?
Viên đại uý cởi mở, vui vẻ một cách ngây thơ và hồn hậu, lại có vẻ
tự mãn một cách thật thà đến nôi Piotr suýt nháy mắt theo, trong khi
đang vui vẻ nhìn hắn. Hình như chữ "lịch thiệp với phụ nữ" (galanl)
khiến cho viên đại uý sực nhớ đến tình trạng thành Moskva.
- À này, ông ạ, có đúng là bao nhiêu phụ nữ đều đã bỏ đi cả rồi không? Lạ thật! Họ sợ cái gì kia chứ?
- Ví phỏng quân Nga tiến vào Paris thì phụ nữ Pháp dễ thương không bỏ đi hay sao? - Piotr nói.
- Ha ha ha! - người Pháp vui vẻ phá lên cười, tiếng cười của những người
thịnh huyết, vừa cười vừa vỗ vỗ lên vai Piotr - Chà! Câu trả lời chúa
thật. Paris ấy à? Nhưng mà Paris, Paris.
- Paris thủ đô của thế giới. - Piotr đỡ lời hắn.
Viên đại uý đưa mắt nhìn Piotr. Hắn có thói quen đang giữa chừng câu
chuyện bỗng ngừng bặt và nhìn chằm chặp vào người tiếp chuyện với đôi
mắt tươi cười và thân mật.
- Ấy đấy giá ông không nói với tôi rằng ông là người Nga, thì tôi đã tin
chắc ông là dân Paris rồi. Ông có một cái gì tôi chả biết nói thế nào,
một cái gí nó… - nói xong lời tán dương này, hắn lại im lặng đưa mắt
nhìn Piotr.
- Tôi trước có ở Paris, tôi đã ở mấy năm. - Piotr nói.
- Ô, thảo nào! Paris. Làm người mà không biết Paris thì chẳng khác nào
một thằng mọi. Một người Paris thì dù cách xa hai dặm cũng đánh hơi thấy
được. Paris tức là Talma, là Duchesnois, là Pothier, là trường Sorbone
(3), là các đại lộ, - và nhận thấy các đại lộ này không được tương xứng
với các thứ kia, hắn vội vã nói thêm: - Trên đời này chỉ có một Paris mà
thôi. Ông đã từng ở Paris nhưng vẫn là người Nga. Ấy thế nhưng tôi vẫn
quý trọng ông như thường.
Vì ảnh hưởng của mấy cốc rượu vừa uống và sau những ngày sống cô độc
với tư tưởng đen tối của mình, Piotr bất giác thấy thích thú trong khi
ngồi nói chuyện với con người vui tính và thật thà này.
- Trở lại chuyện các cô các bà ở đây ấy mà, nghe đồn là họ đẹp lắm thì
phải. Ai đời tự dưng lại đi rúc vào các thảo nguyên khi mà quân đôi Pháp
đang ở Moskva. Họ đã lỡ một dịp may thật là hiếm có. Bọn mu-gich thì
chả nói làm gì, chứ như các ông các bà là người văn minh lẽ ra phải hiểu
chúng tôi hơn mới phải. Chúng tôi đã chiếm Viên, Berlin, Madrid, Napl,
Rome, Varsava, tất cả các thủ đô trên thế giới, người ta sợ chúng tôi,
nhưng cũng yêu mến chúng tôi. Hiểu biết chúng tôi cũng thú vị lắm chứ.
Hơn nữa Hoàng đế…
Piotr ngắt lời hắn.
- Hoàng đế. - Piotr nhắc lại và gương mặt chàng bỗng lộ vẻ buồn rầu và ngượng ngập. - Liệu hoàng đế có…
- Hoàng đế ấy à? Người chính là độ lượng, là khoan hồng. Là công lý, là
trật tự, là thiên tài, hoàng đế là như vậy đấy! Tôi đây là Rambal, tôi
xin nói với ông như vậy. Tám năm trước đây tôi hãy còn là một kẻ thù của
Người. Cha tôi là một bá tước lưu vong, nhưng con người ấy đã chinh
phục được tôi. Người đã nắm được tôi. Tôi không sao cưỡng lại được, khi
thấy cảnh tượng hùng vĩ và quang vinh mà người đã đem lại cho nước Pháp.
Khi tôi đã hiểu ý chí của người, khi tôi đã thấy được rằng người đang
làm cho chúng tôi một kiểu giường bằng nguyệt quê, ông ạ: tôi tự nhủ:
đây là một đấng minh quân, và tôi đã đem mình hiến dâng cho người ấy thế
đấy! Ồ đúng thế đấy ông bạn ạ, đó là con người vĩ đại nhất của những
thế kỷ đã qua và sắp đến!
- Hiện nay Ngài có ở Moskva không? - Piotr hỏi, giọng ấp úng, vẻ mặt như người có lỗi.
Người Pháp nhìn vẻ mặt có lỗi của Piotr và mỉm cười.
- Không, mai người mới ngự vào thành, - Nói đoạn hắn lại tiếp tục kể chuyện huyên thiên.
Đang dở chừng câu chuyện thì có mấy người quát tháo ở ngoài cổng, rồi
Morel vào bảo với viên đại uý là một đội phiêu kỵ Vurtemberg vừa mới
đến, cứ muốn buộc ngựa ngay trong sân nhà này, tuy đã có mấy con ngựa
của viên đại uý buộc ở đây. Sở dĩ việc đâm ra lôi thôi phần lớn là vì
bọn lính phiêu kỵ không biết tiếng Pháp.
Viên đại uý cho gọi viên hạ sĩ quan cao cấp nhất trong bọn vào và lấy
giọng nghiêm nghị hỏi hắn thuộc trung đoàn nào, ai chỉ huy, và hắn có
quyền gì mà lại dám đến chiếm một chỗ đã có người chiếm từ trước. Tên
lính Đức biết tiếng Pháp chẳng được bao lăm.
Nghe hai câu hỏi đầu, hắn nói tên trung đoàn và tên sĩ quan chỉ huy
của hắn, nhưng đến câu hỏi sau cùng thì hắn chả biết gì cả. Hắn dùng
tiếng Đức có chen những chữ Pháp nói sai bét trả lời rằng hắn là tiền
trạm của trung đoàn và đã được lệnh của thủ trưởng chiếm lĩnh tất cả các
nhà ở khu này. Piotr, vốn có biết tiếng Đức, dịch cho viên trung uý
nghe những điều tên lính Đức vừa nói và dịch cho tên phiêu kỵ Vurtemberg
nghe.
Khi hắn ta trở vào phòng, Piotr vẫn ngồi ở chỗ cũ, hai tay ôm đầu.
Gương mặt chàng lộ vẻ đau khổ. Quả nhiên, trong giây phút ấy Piotr rất
khổ tâm. Khi viên đại uý ra ngoài và Piotr ngồi lại một mình, chàng bỗng
sực nhớ ra và nhận thức được tình cảnh của mình lúc bấy giờ. Moskva đã
bị chiếm, và những kẻ chiến thắng diễm phúc kia đang hoành hành, lên mặt
chủ nhà, và chính họ đang che chở cho chàng;
Mặc dù những điều đó rất khó chịu đối với Piotr, nhưng giò phút
này cái làm cho chàng đau khổ không phải là những điều đó. Chàng đau khổ
là vì thấy rõ mình yếu đuối quá. Vài cốc rượu, dăm ba câu chuyện với
con người thật thà kia đã phá tan được cái tâm trạng đăm chiêu và u uất
của chàng trong mấy ngày qua, một tâm trạng rất cần thiết cho việc thực
hiện những ý định của chàng. Khẩu súng tay, con dao găm, bộ quần áo cải
trang đã sẵn sàng, ngày mai Napoléon sẽ đến. Piotr vẫn thấy giết tên bạo
tặc kia là một việc hữu ích và đáng trọng chẳng kém nào trước kia:
nhưng bây giờ chàng cảm thấy rằng mình sẽ không làm việc đó. Tại sao? -
chàng cũng chẳng biết nữa, nhưng chàng như cảm thấy trước rằng mình sẽ
không thực hiện được ý định. Chàng cố gắng cự lại cái ý thức cho rằng
mình yếu đuối, nhưng lại thấy lờ mờ rằng mình sẽ không đủ sức khắc phục
nó, rằng vừa mới tiếp xúc với một anh cha căng chú kiết nào mà ý chí
phục thù, ám sát và hy sinh trước đây của chàng đã đủ tiêu tan như mây
khói.
Viên đại uý chân hơi khập khiễng huýt sáo khe khẽ, bước vào phòng.
Những câu chuyện gẫu của người Pháp lúc nãy chàng thấy là ngộ
nghĩnh thì bây giờ chàng lại thấy nó khả ố quá. Và điệu hát mà hắn huýt
sáo mồm, và cả dáng đi, điệu bộ, cả cái cử chỉ vân vê ria mép của hắn
bây giờ Piotr đều thấy là những điều làm chàng xấu hổ.
"Ta sẽ đi ngay, ta sẽ không nói với hắn một lời nào nữa" Piotr suy
nghĩ như vậy, nhưng vân ngồi ở chỗ cũ. Một cảm giác yếu đuối kỳ dị như
đóng đinh chàng vào chiếc ghế. Chàng muốn đứng dậy bỏ đi nhưng không sao
đứng dậy được.
Viên đại uý thì ngược lại, có vẻ rất vui. Hắn đi qua đi lại hai lượt
trong gian phòng. Mắt hắn sáng long lanh, bộ ria khẽ nhích nhích lên như
thể hắn đang cười tủm tỉm một mình về một ý nghĩ gì rất ngộ nghĩnh.
- Thú tuyệt, - hắn bỗng nói, - Viên đại tá của ta cái bọn Vurtemberg thú
tuyệt! Lão ta là người Đức. Ấy thế mà lại rất tốt nhưng vẫn là người
Đức.
Hắn ngồi xuống trước mặt Piotr.
- Này thế ra ông cũng biết tiếng Đức à?
Piotr lặng thinh nhìn hắn.
- Nhà cứu tế tiếng Đức nói thế nào nhỉ?.
- Nhà cứu tế à? - Nhà cứu tế tiếng Đức là Unterkunft.
- Ông bảo sao? - Viên đại uý hỏi lại rất nhanh, vẻ bỡ ngỡ.
- Unterkunft - Piotr nhắc lại.
- Onterkoff. - Viên đại uý nói đoạn đưa dôi mắt tươi cười nhìn Piotr một
lát. - Người Đức họ ngốc ra trò, có phải không ông Piotr nhỉ? - Hắn kết
luận. - Nào, làm thêm một chai Bordeaux Moskva nữa chứ? Morel đem hâm
cho ta một chai nữa đi nào. Morel - viên đại uý vii vẻ cất tiếng gọi to.
Morel đem nến và rượu vang ra. Viên đại uý nhìn Piotr dưới ánh nến,
và hình như lấy làm lạ vì vẻ mặt ủ dột của chàng, Rambal, vẻ buồn rầu
và ái ngại thành thật, tiến lại gần Piotr và cúi xuống phía chàng.
- Thế nào anh bạn của tôi buồn à, - Hắn vừa nói vừa đặt tay lên cánh tay
Piotr. - Hay tôi có điều gì làm anh phải phật ý, không, chắc anh có gì
giận tôi thật rồi, - hắn hỏi lại. - Hay có lẽ vì tình thế hiện nay?
Piotr lặng thinh không đáp, nhưng dịu dàng nhìn thẳng vào mặt người Pháp. Vẻ ái ngại của hắn làm cho chàng thấy dễ chịu.
Xin lấy danh dự mà nói rằng dù không kể đến chuyện tôi chịu ơn ông
nữa, tôi cũng vẫn thấy mến ông lắm. Ông có cần tôi giúp việc gì không?
Xin ông cứ bảo. Sống chết tôi cũng xin hết lòng. Tôi xin để tay lên tim
mà nói như vậy! - hắn vừa nói vừa vỗ tay lên ngực.
- Cám ơn ông, - Piotr nói. Viên đại uý nhìn Piotr chằm chằm, đúng như
khi được biết nhà cứu tế tiếng Đức nói thế nào, và gương mặt hắn ta bỗng
bừng sáng lên.
- À! Nếu vậy tôi xin nâng cốc mừng tình bạn của chúng ta - hắn vui vẻ reo to và rót hai cốc rượu vang.
Piotr cầm lấy cốc rượu và uống cạn Rambal cũng uống cạn cốc của
mình, bắt tay Piotr một lần nữa và chống khuỷu tay lên bàn, trong một tư
thế u hoài và tư lự.
- Phải, bạn ạ, những cảnh xoay vần bất ngờ của số mệnh là thế đấy. Xưa
kia có ai dè rằng tôi là một quân nhân và là một đại uý long kỵ trong
quân đội của Bonaparte như hồi đó chúng tôi vẫn gọi Người. Ấy thế mà giờ
dây tôi đang ở Moskva với Người. Bạn thân mến ạ. - hắn nói tiếp với cái
giọng buồn buồn và đều như khi sắp kể một câu chuyện rất dài, - cần
phải nói để bạn rõ rằng dòng họ chúng tôi là một dòng quý tộc lâu đời
vào bậc nhất ở Pháp. - Và với thái độ cởi mở dễ dàng và ngây thơ mà
người Pháp vốn có, viên đại uý kể cho Piotr nghe chuyện các tổ tiên của
hắn ta, liệt kê tất cả các bà con họ hàng, các quan hệ tài sản và gia
đình. - Cố nhiên "bà mẹ đáng thương của tôi": đóng một vai trò quan
trọng trong câu chuyện này. Nhưng tất cả những thứ đó chỉ mới là sự dàn
cảnh của cuộc đời, thực chất của nó là ái tình kia. Ái tình! Có phải
không ông Piotr? - hắn càng nói càng hăng. - Thêm cốc nữa nhé!
Piotr lại uống cạn và rót cho mình một cốc nữa.
- Chao ôi! Đàn bà, đàn bà - và viên đại uý hai mắt sáng long lanh nhìn
Piotr, bắt đầu nói về tình yêu và kể lại những chuyện yêu đương của
mình. Những chuyện ấy rất nhiều. Cứ trông khuôn mặt bảnh bao và tự mãn
của viên sĩ quan và vẻ hứng khởi hân hoan của hắn ta khi nói đến đàn bà
cũng đủ có thể tin được điều đó. Mặc dầu tất cả những câu chuyện tình
của Rambal đều có cái sắc thái sàm sỡ mà người Pháp vẫn thường xem là
nhân tố tạo nên tất cả sức mê hoặc và thi vị của tình yêu, như một viên
đại uý kể chuyện mình với một lòng tin chắc chắn rằng chỉ riêng hắn ta
mới được nếm và biết hết những cái thú tuyệt vời của tình yêu, và mô tả
phụ nữ một cách duyên dáng hấp dẫn đến nỗi Piotr cũng phải tò mò lắng
nghe hắn ta.
Rõ ràng thứ ái tình mà người Pháp kia ưa thích say mê chẳng phải là
thứ tình yêu hạ đẳng và đơn giản mà Piotr đã từng có đối với vợ chàng,
cũng chẳng phải là thứ tình yêu lãng mạn của chàng đối với Natasa, một
tình yêu mà chính chàng đang cố nhen lên, cả hai loại ái tình này Rambal
đều khinh miệt như nhau - một loại là ái tình của bọn phu xe, loại kia
thì lại là ái tình của những thằng ngốc, thứ ái tình mà người Pháp thời
ấy thờ phụng chủ yếu xây dựng trên những quan hệ tự nhiên dối với phụ nữ
và trên sự kết hợp những cách bố trí kỳ quặc gây thành sức hấp dẫn
chính của tình cảm.
Chẳng hạn, viên đại uý kể câu chuyên tình lâm ly của hắn ta với một
hầu tước phu nhân ba mươi lăm tuổi rất mực kiều diễm và đồng thời với cô
con gái của phu nhân, một thiếu nữ mười bảy tuổi, ngây thơ và duyên
dáng tuyệt vời. Cuộc tranh đua về lòng đại lượng giữa hai mẹ con rốt
cuộc đi đến chỗ là người mẹ tự hy sinh, thuận lòng gả con gái cho tình
nhân của mình. Mãi cho đến nay, cuộc tranh đua ấy tuy chỉ là một kỷ niệm
xa xưa, nhưng vẫn làm cho viên đại uý xúc động. Sau đó hắn ta kể một
câu chuyện trong đó người chồng đóng vai trò tình nhân, còn hắn ta (tức
người tình nhân) thì lại đóng vai trò người chồng, và thêm nhiều mẩu
chuyện buồn cười khác trong số các kỷ niệm đất Đức, nơi mà nhà cứu tế
được gọi là Unterkunft, nơi mà các đức ông chồng ăn dưa bắp cải. Và là
nơi mà tóc các thiếu nữ quá vàng.
Cuối cùng là câu chuyện xảy ra cách đây không lâu ở Ba Lan, hãy còn
tươi rói trong ký ức của viên đại uý. Chuyện này hắn ta vừa kể vừa hoa
tay lia lịa, mặt đỏ bừng lên: Hắn đã cứu sống một người Ba Lan (nói
chung trong các câu chuyện của viên đại uý luôn luôn xảy ra những trường
hợp cứu mạng như thế) và người Ba Lan này giao người vợ kiều diễm của
mình (người thì Ba Lan nhưng tâm hồn thì lại là tâm hồn một cô gái
Paris) cho hắn ta trông nom hộ, còn bản thân người kia thì tình nguyện
xung vào quân đội Pháp.

Viên đại uý rất sung sướng, người thiếu nữ Ba Lan xinh đẹp muốn đi
trốn với hắn ta; nhưng vì lòng đại lượng, viên đại uý đã trả vợ lại cho
người Ba Lan, nói với anh chồng rằng: "Tôi đã cứu mạng cho ông, và bây
giờ thì tôi cứu vớt danh dự của ông!". Khi nhắc lại mấy lời này, viên
đại uý dịu mắt và lắc mạnh cái đầu như đề xua đuổi một cảm xúc uỷ mị
đang tràn vào lòng mình khi gợi lại những ỷ niệm động lòng ấy.
Trong lúc nghe viên đại uý kể chuyện, - những khi đêm đã khuya và có hơi
men người ta vẫn thường thấy như vậy - Piotr theo dõi tất cả những điều
viên đại uý nói, hiểu tất cả và đồng thời cũng lần theo dòng kỷ niệm
riêng của mình, những kỷ niệm bỗng dưng hiện lên trong trí nhớ của
chàng. Khi chàng nghe kể những câu chuyện tình ấy, chàng chợt nhớ lại
tình yêu của mình đối với Natasa, và trong khi ôn lại những bức tranh
của mối tình này chàng thầm so sánh những cảnh ấy với những câu chuyện
của Rambal.
Lắng nghe chuyện đấu tranh giữa tình yêu và bổn phận, Piotr thấy hiện ra
trước mắt cuộc gặp gỡ vừa rồi giữa chàng với người mà chàng yêu dấu ở
gần tháp Xukharev. Hôm ấy, cuộc gặp gỡ không có ảnh hưởng gì trong lòng
chàng; thậm chí chàng cũng không có lần nào nhớ lại cuộc gặp gỡ đó.
Nhưng bấy giờ chàng lại có cảm tưởng rằng cuộc gặp gỡ vừa qua có một cái
gì đầy ý nghĩa và rất nên thơ.
"Anh Piotr Kirilits, anh lại đây, tôi nhận ra anh rồi", - Câu nói của
Natasa như còn văng vẳng bên tai chàng, và đôi mắt, nụ cười, chiếc mũ
chụp đi đường trường, món tóc xổ ra ngoài vành mũ hiện rõ cả trước mắt
chàng, và chàng thấy tất cả những thứ đó có một cái gì cảm động lạ
thường khiến lòng chàng lại dịu hẳn đi.
Kể xong câu chuyện về cô gái Ba Lan kiều diễm, viên đại uý hỏi Piotr xem
chàng đã bao giờ có cái cảm giác của kẻ tự hy sinh vì tình yêu và lòng
ghen ghét đối với người chồng hợp Pháp như vậy chưa.
Được câu hỏi này khích lệ, Piotr ngẩng đầu lên và thấy cần phải nói
rõ những ý nghĩ đang khiến chàng bận tâm; chàng bắt đầu giãi bày rằng
mình có một quan niệm hơi khác về tình yêu đối với phụ nữ. Chàng nói
rằng suốt đời chàng chỉ yêu có một người đàn bà, nhưng người đàn bà ấy
không bao giờ có thể là vợ chàng.
- Chà! - Viên đại uý nói.
Sau đó Piotr phân trần rằng chàng đã yêu người đàn bà ấy từ thời
còn niên thiếu; vì nàng còn trẻ quá, còn chàng thì khi ấy chỉ là một đứa
con bất hợp pháp chẳng có tên họ. Rồi về sau, khi chàng đã có tên họ và
của cải, chàng cũng vẫn không dám nghĩ đến nàng, vì chàng yêu nàng quá,
chàng đặt nàng cao hơn tất cả, và do đó, lại càng quá cao đối với bản
thân chàng. Kể đến chỗ này, Piotr hỏi viên đại uý có hiểu điều đó không.
Viên đại uý làm một cử chỉ dù hắn ta hiểu chăng nữa cũng xin Piotr cứ kể tiếp cho.
- Tình yêu lý tưởng, mây mù… - Hắn lẩm bẩm. Không biết vì hơi men, hay
vì đang cần thổ lộ, hay vì nghĩ rằng người này hiện không biết và sẽ
không bao giờ biết được một nhân vật nào trong câu chuyện mình kể, hay
vì tất cả những thứ đó gộp lại, Piotr nói rất tự do, chẳng giữ gin gì
cả, đôi mắt mơ mộng nhìn vào cõi xa xăm, miệng dấp dính, Piotr lè nhè kể
lại tất cả chuyện đời của mình: cuộc hôn nhân của chàng, chuyện Natasa
yêu người bạn tốt nhất của chàng, chuyện nàng phản bội người yêu, và tất
cả những mối quan hệ đơn giản giữa chàng và nàng. Được những câu hỏi
của Rambal khích lệ thêm, chàng nói luôn cả những điều mà lúc đầu chàng
đã giấu giếm, - Địa vị của chàng trong xã hội và thậm chí cả tên họ
chàng nữa.
Trong câu chuyện củà Piotr kể, điều khiến cho viên đại uý kinh ngạc
hơn cả là Piotr rất giầu, chàng có hai toà lâu đài ở Moskva mà lại ở lại
trong thành phố, giấu kín tên họ và tung tích.
Đêm đã khuya khi họ cùng nhau bước ra phố. Đêm hôm ấy trời ấm áp và sáng
sủa. Về phía bên trái ngôi nhà, trên trời hừng lên một ánh sáng mờ mờ:
ánh lửa của đám cháy đầu tiên ở Moskva, bùng lên ở phố Pechovka. Về bên
phải, vầng trăng lưỡi liềm treo cao trên nền trời, và ở phía đối diện
với mặt trăng lơ lửng ngôi sao chổi vốn gắn bó với tình yêu của Piotr
trong lòng chàng. Bên cổng, bác Geraxim, bà nấu bếp cùng đứng với hai
người lính Pháp. Họ đang cười cười nói nói, mỗi đằng một thứ tiếng,
chẳng hiểu nhau tí gì cả.
Họ nhìn cái ráng đỏ chập chờn trên thành phố. Một vụ cháy nhỏ ở xa
trong một thành phố rộng lớn thì chẳng có gì là đáng sợ cả.
Nhìn bầu trời cao đầy sao, nhìn vầng trăng, ngôi sao chổi và ánh lửa mờ
mờ, Piotr thấy lòng vui khấp khởi và đồng thời dịu lại. "Đấy, thế này
cũng tốt quá rồi, còn cần gì hơn nữa?" - chàng thầm nghĩ. Và đột nhiên
sực nhớ lại ý định của mình, chàng chợt thấy choáng váng khó ở đến nỗi
chàng phải dựa vào hàng rào cho khỏi ngã.
Không cáo từ người bạn mới, Piotr loạng choạng rời cổng bước vào phòng, ngả lưng trên đi-văng và lập tức ngủ thiếp đi.

Chú thích:
(1) Quanter (tiếng Đức) hay kvartira (tiếng Nga) đều có nghĩa chỗ ở.
(2) Thứ nước giải khát làm bằng nước quả ép, vị hơi chua chua.
(3) François Joseph Talma, diễn viên bi kịch ưu tú của thời Napoléon(1763-1826)
Catherine Joséphine Duchesnois, nữ diễn viên bi kịch có tiếng (1777-1835)
Robet Joseph Pothier (1699 - 1772) nhà luật học: giáo sư và chánh án ở Orléant.
Tên trường thần học cao đẳng ở Paris, thành lập năm 1253, về sau là trường Đại học tổng hợp Paris.
hết: Chương - 27 -, xem tiếp: Chương -28 -29 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 EmptyWed Jan 05, 2011 9:39 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XI

Chương -28 -29 -


Ánh lửa của vụ hoả hoạn đầu tiên xảy ra hôm mồng hai tháng chín được
những người dân đang đi lánh nạn và những đạo quân đang rút lui nhìn
thấy từ nhiều nẻo đường khác nhau và với những tình cảm khác nhau.
Đêm hôm ấy, đoàn xe của gia đình Roxtov ghé lại Mytisi cách Moskva
hai mươi dặm. Ngày mồng một tháng chín, họ ra đi muộn, đường đi chật
ních những xe cộ và quân lính, đồ đạc thì bỏ quên rất nhiều, cứ phải
luôn luôn cho người về lấy, đến nỗi đêm hôm ấy phải quyết định dừng lại
nghỉ đêm cách Moskva năm dặm. Sáng hôm sau họ dậy muộn, và giữa đường
đi, phải dừng lại nhiều chặng, thành thử chỉ đi được đến Đại Mutisi. Đến
mười giờ, gia đình Roxtov và những người thương binh cùng đi với họ đều
phân tán vào các sân và các nhà nông dân trong làng. Gia nhân, xà ích
của nhà Roxtov và lính cần vụ của các sĩ quan bị thương, sau khi đã dọn
chỗ ngủ cho chủ, ngồi lại ăn bữa khuya, cho ngựa ăn cỏ và ra thềm đứng.
Trong ngôi nhà bên cạnh có một viên sĩ quan phụ tá của Raivexki, cổ
tay bị đập nát, vết thương đau đớn khủng khiếp khiến ông ta không ngừng
rên rỉ thảm thiết, và những tiếng rên ấy vang lên nghe thật rùng rợn
trong đêm thu tối mịt. Đêm hôm trước viên sĩ quan hành dinh này cùng ngủ
trong một sân với gia đình Roxtov.
Bá tước phu nhân nói rằng nói rằng bà nghe tiếng rên ấy không thể nào
chợp mắt được, cho nên khi đến Mytisi bà đã sang ở một ngôi nhà tồi tàn
hơn chỉ cốt sao cách xa người bị thương một chút.
Một người gia nhân nhìn qua nóc một chiếc xe song mã đỗ ở trước thềm
trông thấy trong đêm tối có ánh lửa của một đám cháy khác không lớn
lắm. Ánh lửa trước thì người ta đã thấy từ lâu và ai cũng biết rằng đó
là đám cháy ở Tiểu Mutisi do quán cô-dắc của Mamonov đốt lên.
Một người lính cần vụ nói:
- Này các bác, lại có một đám cháy khác kìa.
Mọi người đều chú ý đến ánh lửa mới hừng lên.
- Nghe nói là lính cô-dắc đốt Tiểu Mytisi đấy.
- Chính họ! Nhưng đấy không phải là Mytlisi, xa hơn kia.
- Nhìn mà xem cứ như ở Moskva ấy.
Hai người đày tớ bước xuống bậc thềm, đi vòng ra sau xe và ngồi lên bậc xe.
- Không phải ở Mytisi rồi! Mytisi ở về phía này, chếch sang bên phải, chứ đằng này lại chếch sang bên trái.
Mấy người nữa nhập bọn. Một người nói:
- Thấy chưa, cháy to lắm, đúng là ở Moskva rồi, các bác ạ; ở phố Xusevxkaya hay ở Rogxkya gì đấy.
Không ai đáp lại câu vừa rồi. Và đám người im lặng một lúc khá lâu nhìn ánh lửa bập bùng xa xa của đám cháy mới.
Danilo Terentits, người hầu phòng già của bá tước, lại gần đám đông và cất tiếng gọi Miska.
- Có cái gì đâu mà xem, cái thằng ôn con kia. Bá tước mà gọi một cái thì có ai thưa; đi vào mà xếp dọn quần áo.
- Thì cháu chỉ mới chạy ra lấy nước một tý thôi mà, - Miska nói.
- Bác thấy thế nào hở bác Danilo Terentits? - một người gia đình nói, - Cứ như ở Moskva ấy nhỉ?
Danilo Terentits lặng thinh không đáp, và mọi người lại im lặng hồi lâu. Ánh lửa lan rộng dần và mỗi lúc một to thêm.
- Lạy chúa! Trời thì hanh mà gió lại to thế này. - có tiếng nói.
- Xem kìa, cứ lan rộng ra mãi. Trời ơi! Trông thấy cả lũ quạ kia kìa.
- Lạy chúa tha tội!
- Chắc họ sẽ dập tắt, lo gì.
- Ai dập tắt mới được chứ? - Danilo Terentits nãy giờ lặng thinh, bỗng
cất tiếng nói, giọng bình tĩnh và chậm rãi - Chính là Moskva đấy các chú
ạ, chính thành phố mẹ đẻ của chúng ta, thành phố có những bức thành
trắng… - giọng nói của ông già nghẹn ngào trong cổ và bật lên thành
tiếng nấc khàn khàn của những người già cả. Và dường như mọi người chỉ
chờ đợi có thể để hiểu rõ ý nghĩ của cái ánh lửa bập bùng kia đối với
họ. Có những tiếng thở dài, tiếng lâm râm cầu nguyện và tiếng khóc thút
thít của người hầu phòng già của bá tước.

29.
Người hầu phòng quay trở vào và báo cáo với bá tước rằng Moskva đang bốc cháy. Bá tước mặc áo ngủ và ra ngoài xem.
Sonya, bấy giờ chưa cởi áo, và cả bà Schoss cũng cùng ra theo. Chỉ
còn Natasa và bá tước phu nhân ngồi lại trong phòng. (Petya bấy giờ
không ở với gia đình nữa, cậu ta đã cùng với trung đoàn đi đến Troisk).
Nghe tin Moskva bốc cháy, bá tước phu nhân khóc oà lên.
Natasa, gương mặt tái xanh, mắt đờ đẫn, ngồi trên chiếc ghế dài ở
phía dưới các tượng thánh (ngay ở chỗ nàng ngồi xuống khi vừa mới đến
đây) và không hề để ý những lời cha nàng vừa nói. Nàng lắng tai nghe
tiếng rên không ngớt của viên sĩ quan phụ tá tuy ở cách đây ba nhà mà
vẫn vọng tới.
Sonya từ ngoài sân trở vào run cầm cập, vẻ hoảng hốt, kêu lên:
- Trời ơi!, kinh khủng quá! Chắc là cả thành Moskva đang bốc cháy, ánh
lửa to quá! Natasa nhìn mà xem này, bây giờ nhìn ra cửa sổ cũng thấy
đấy, - nàng nói, chắc là muốn làm cho cô em khuây khoả. Natasa đưa mắt
nhìn nàng, nhưng không hiểu người ta muốn hỏi gì mình, rồi lại thẫn thờ
nhìn vào góc lò sưởi. Natasa thẫn thờ như vậy từ sáng hôm nay, ngay từ
khi Sonya tự dưng thấy cần nói cho Natasa biết công tước Andrey bị
thương và hiện cùng đi với đoàn xe của gia đình. Không hiểu tại sao
Sonya lại làm như vậy, và điều đó làm cho bá tước phu nhân rất ngạc
nhiên và bực mình; bà giận Sonya lắm, ít khi thấy bà nổi giận như vậy.
Sonya khóc và xin mẹ thứ lỗi, và bây giờ dường như để chuộc lỗi, nàng cứ
theo săn sóc Natasa từng ly từng tí.
- Natasa xem kìa, cháy ghê chưa, - Sonya nói.
- Cái gì cháy? - Natasa hỏi, - À phải, Moskva.
Và dường như không muốn từ chối, để cho Sonya khỏi phật lòng và để cho
cô ta đi cho rảnh, nàng quay đầu về phía cửa sổ nhìn một lúc - nhưng
nhìn như vậy rất rõ rệt là chẳng trông gì hết, - rồi lại ngồi yên như
cũ.
- Nhưng cô đã trông thấy gì đâu?
- Không, em thấy rồi, thật mà. - Natasa nói, giọng như van xin Sonya để cho mình yên.
Và cả bá tước phu nhân lẫn Sonya đều đều hiểu rõ rằng Moskva, đám
cháy ở Moskva hay dù là chuyện gì hay chăng nữa đều chẳng có nghĩa lý gì
với Natasa hết.
Bá tước lại trở về nằm sau tấm vách ngăn. Bá tước phu nhân lại gần
Natasa, lấy lưng bàn tay khẽ chạm lên đầu nàng như những khi nàng ốm,
rồi lại đưa môi chạm vào trán nàng như để xem nàng có sốt không và hôn
nàng, nói:
- Con lạnh à? Con run rẩy cả người. Con đi nằm đi con ạ.
- Đi nằm? Vâng được ạ, con sẽ đi nằm. Con sẽ đi nằm ngay, - Natasa nói.
Sáng hôm nay, từ khi biết được công tước Andrey bị thương nặng và
hiện đang đi trong đoàn xe của nhà nàng, lúc mới đầu Natasa hỏi tới tấp
những là chàng đi đâu? Chàng ra sao? Vết thương có nguy hiểm không? Có
thể gặp chàng được không? Nhưng sau khi nghe nói là không thể gặp công
tước Andrey được, là chàng bị thương nặng nhưng không nguy hiểm đến tính
mệnh, rõ ràng nàng không tin những điều đó, nhưng nàng biết chắc rằng
dù mình có hỏi gì thì người ta sẽ vẫn cứ trả lời y như thế, nên nàng
không hỏi và không nói gì nữa. Suốt dọc đường, đôi mắt nàng mở trừng
trừng, đôi mắt mà bá tước phu nhân biết rất rõ và rất sợ. Nàng ngồi im
không động đậy trong góc xe; và đến bây giờ nàng vẫn cứ ngồi im như thế
trên chiếc ghế dài từ khi vào nhà này. Nàng đã nghĩ ra một điều gì đây,
nàng đang quyết định hay đã quyết định xong một điều gì đây bá tước phu
nhân biết rõ như vậy, nhưng điều ấy là điều gì thì phu nhân không biết,
và chính vì vậy phu nhân lo sợ và khổ tâm.
- Natasa, cởi áo ra con ạ, nằm trên giường với mẹ. (Người ta chỉ dọn
giường cho mỗi một mình bá tước phu nhân: bà Schoss và hai cô tiểu thư
đều phải lót rạ nằm trên sàn nhà).
- Không, con nằm sàn thôi mẹ ạ, - Natasa bực bội trả lời. Nàng lại gần
cửa sổ và mở nó ra. Qua khung cửa sổ mở rộng, tiếng rên của viên sĩ quan
phụ tá nghe càng rõ mồn một. Nàng ló đầu ra ngoài không khí ẩm thấp của
ban đêm, và bá tước phu nhân thấy cái cổ mảnh nàng rung lên từng đợt
chạm vào khung cửa, Natasa biết rằng tiếng rên ấy không phải của công
tước Andrey. Nàng biết rằng công tước Andrey nằm cùng một nhà với gia
đình nàng, nhưng trong một gian khác, bên kia phòng ngoàì; nhưng tiếng
rên khủng khiếp không lúc nào ngớt ấy vẫn khiến nàng khóc ngất lên. Bá
tước phu nhân và Sonya đưa mắt nhìn nhau.
- Đi nằm đi con ạ, đi nàm đi, cô bạn nhỏ của mẹ! - bá tước vừa nói vừa
lấy tay khẽ chạm vào vai Natasa. - Nào thôi, đi nằm đi con.
- À vâng… Con đi nằm ngay bây giờ đây, - Natasa nói đoạn hấp tấp cởi
áo ngoài và tháo dây thắt lưng. Sau khi cởi áo và khoác chiếc áo ngủ lên
người, nàng xếp chân ngồì vào chỗ ngủ dành cho nàng ở giữa sân, vắt
chiếc bím tóc mỏng và không dài lắm qua vai và bắt đầu tết lại. Mấy ngón
tay thon thon của nàng nhanh nhẹn, khéo léo và thành thạo tháo bứn tóc,
tết lại rồi thắt nút ở phía dưới.
Mái đầu nàng nghiêng bên này rồi lại nghiêng sang bên kia với một cử
chỉ quen thuộc, nhưng đôi mắt nàng trừng trừng mở rộng như trong cơn
sốt cứ nhìn vào trước mặt. Khi đã soạn sửa xong để đi ngủ, Natasa từ từ
ngả lưng xuống tấm chăn trải trên lớp rạ cạnh cửa ra vào.
- Natasa nằm giữa nhé, - Sonya nói.
- Tôi nằm đây, - Natasa nói. - Kìa chị nằm đi chứ, - nàng nói thêm giọng gắt gỏng. Và nàng úp mặt vào một chiếc gối.
Bá tước phu nhân, bà Schoss và Sonya vội vã cởi áo đi nằm. Trong
phòng chỉ còn một ngọn đèn thờ leo lét. Nhưng ở bên ngoài ánh lửa cháy ở
tiểu Mytisi cách hai vecxta, vẫn toả sáng và từ quán rượu ở góc phố bị
lính cô-dắc Mamonov cướp phá vang lại những tiếng rên la ới ới.
Tiếng rên của viên sĩ quan vẫn kéo dài không ngớt.
Hồi lâu Natasa nằm yên không động đậy, lắng tai nghe ngóng những
tiếng động ở trong nhà và ở bên ngoài vẳng lại. Lúc đầu nàng, nghe tiếng
mẹ nàng cầu nguyện và thở dài, tiếng chiếc giường kêu răng rắc dưới
người bà, tiếng ngáy huýt lên như còi của bà Schoss mà nàng quen thuộc,
tiếng thở nhè nhẹ của Sonya. Rồi bá tước phu nhân cất tiếng gọi Natasa.
Natasa lặng thinh không đáp.
- Hình như nó ngủ rồi mẹ ạ, - Sonya khẽ nói. Bá tước phu nhân im lặng
một lúc rồi lại cất tiếng gọi lần nữa nhưng lần này chẳng có ai thưa cả.
Chẳng bao lâu nghe tiếng thở đều đều của mẹ. Natasa không nhúc nhích,
mặc dầu bàn chân nhỏ của nàng để thòi ra ngoài chăn chạm vào sàn nhà
lạnh buốt.
Dường như mừng rỡ vì đã thắng mọi vật, một con dế bắt đầu kêu ri rỉ
trong một khe vách. Có tiếng gà gáy xa xa, và một tiếng gà ở gần đâu đây
đáp lại. Những tiếng hò hét bên quán rượu đã im, chỉ còn tiếng rên của
viên sĩ quan phụ tá vẫn kéo dài như cũ. Natasa nhổm dậy.
- Sonya, chị ngủ rồi à? Mẹ ơi? - Nàng thì thào.
Không ai đáp lại Natasa chậm rãi và thận trọng đứng dậy, làm dấu thánh
giá và rón rén đặt bàn chân mảnh khảnh và mềm mại lên tấm sàn nhà bẩn
lạnh. Mấy tấm ván kêu cót két. Nàng thoăn thoắt đưa chân chạy mấy bước,
nhẹ nhàng như một con mèo con, và đặt tay lên cánh cửa lạnh buốt.
Nàng có cảm tưởng như một vật gì rất nặng đang nện thình thịch lên
các bức tường của ngôi nhà; đó là tiếng đập của quả tim nàng, đang lịm
đi, đang muốn vỡ tung ra vì sợ hãi, khủng khiếp và yêu đương.
Nàng mở cửa, bước qua ngưỡng cửa và đặt chân lên nền đất ẩm thấp và
lạnh lẽo của dãy nhà cầu. Không khí lạnh buốt thấm vào người khiến nàng
trở nên tỉnh táo. Nàng lấy bàn chân không thử chạm vào một người đang
nằm ngủ giữa phòng, bước ngang qua người ấy và mở cửa dẫn vào phòng công
tước Andrey. Trong phòng tối mịt. Ở góc phòng bên kia, bên cạnh cái
giường trên đấy có một hình người đang nằm dài, một ngọn đèn bạch lạp
chập chờn trên chiếc ghế dài sắp chảy xuống thành hình chiếc nấm lớn.
Ngay từ sáng nay, khi biết rằng công tước Andrey bị thương và hiện
đang đi cùng trong đoàn xe, Natasa quyết định là phải gặp chàng. Nàng
không biết gặp như thế để làm gì, nàng biết cuộc gặp mặt sẽ đau đớn,
nhưng chính vì vậy nàng càng thấy rõ ràng thế nào cũng phải gặp chàng.
Suốt ngày hôm nay nàng chỉ sống với hy vọng là đêm nay sẽ được gặp
chàng. Nhưng bây giờ, khi giây phút ấy đã đến, nàng bỗng thấy sợ hãi
những điều nàng sắp trông thấy. Chàng bị què quặt ra sao? Chàng còn lại
được những gì? Chàng có giống như tiếng rên không ngớt của viên sĩ quan
phụ tá kia không? Phải rồi chàng giống hệt như thế. Trong tưởng tượng
của nàng, chàng chính là hiện thân của tiếng rên kinh khủng ấy. Khi nàng
trông thấy cái khối lờ mờ trong góc phòng mà nhầm tưởng hai đầu gối của
chàng nhô lên dưới lớp chăn là hai vai của chàng, nàng hình dung thấy
một thân thể gì gớm guốc, và hoảng sợ dừng lại. Nhưng một sức mạnh không
sao cưỡng nổi lôi nàng về phía trước. Nàng rón rén bước một bước, một
bước nữa và thấy mình đứng giữa gian phòng chật hẹp chất đầy những đồ
đạc. Trên chiếc ghế dài, bên dưới các tượng thánh có một người nằm (đó
là Timokhin) và trên nền nhà lại có hai người khác nữa (đó là người thầy
thuốc và người hầu phòng).
Người hầu phòng nhổm dậy và nói thì thầm mấy tiếng gì không rõ.
Timokhin vì chân đau nhức không ngủ được, giương mắt to nhìn cái bóng
hiện hình kỳ dị của người con gái mặc áo thụng trắng và đội mũ chụp ban
đêm. Câu hỏi ngái ngủ và hoảng sợ của người hầu phòng: "Cái gì thế? Cô
muốn gì" chỉ làm cho Natasa rảo bước đi về phía cái hình người nằm ở góc
phòng. Dù cái hình thù dễ sợ ấy chẳng có gì giống người, nàng quyết
phải đến gặp nó. Nàng đi ngang qua người hầu phòng, cái nấm bằng sáp đổ
xuống và nàng nhìn rõ rệt công tước Andrey nằm trên tấm chăn, hai tay
dang rộng, vẫn giống hệt như trước kia nàng thường thấy.
Chàng vẫn như xưa: Nhưng nước da đỏ bừng trong cơn sốt, đôi mắt sáng
long lanh đang hân hoan nhìn nàng và nhất là cái mềm yếu như trẻ con lộ
ra ngoài cổ áo sơ mi mở rộng, làm cho chàng có một vẻ ngây thơ như con
trẻ, một vẻ gì đặc biệt mà dù sao nàng cũng chưa bao giờ thấy được ở
công tước Andrey. Nàng lại gần chàng và với một động tác nhanh nhẹn, mềm
mại, trẻ trung, nàng quỳ xuống cạnh giường.
Chàng mỉm cười và giơ tay về phía nàng.
hết: Chương -28 -29 -, xem tiếp: Chương - 30 -

Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 EmptyWed Jan 05, 2011 9:39 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XI

Chương - 30 -


Bẩy ngày đã trôi qua từ khi công tước Andrey hồi tỉnh ở trạm cứu
thương của chiến trường Borodino. Suốt thời gian ấy, hầu như chẳng lúc
nào chàng không mê man bất tỉnh. Theo ý kiến người bác sĩ được cử đi
theo người bị thương thì với trạng thái sốt nóng và chỗ ruột bị phạm
phát viêm lên như vậy, chàng sẽ không thể nào qua khỏi. Nhưng đến ngày
thứ bảy chàng ăn một miếng bánh mỳ và uống một ít nước trà thấy ngon
miệng, và người thầy thuốc nhận thấy trạng thái sốt nóng đã thuyên giảm.
Sáng hôm sau, công tước Andrey tỉnh lại. Đêm đầu tiên sau khi ra khỏi
Moskva trời khá ấm, cho nên họ để công tước Andrey nằm nghỉ đêm trong
chiếc xe song mã; Nhưng đến Mytisi thì chính người bị thương đòi được
khiêng vào nhà và bảo pha trà cho mình uống. Trong khi chuyển, chàng đau
quá và bật ra tiếng rên và ngất đi một lần nữa. Khi họ đặt chàng lên
chiếc giường xếp, chàng nằm im hồi lâu không động đậy, hai mắt nhắm
nghiền. Một lát sau chàng mở mắt ra và thì thào: "Thế nào có trà chưa?"
thấy chàng nhớ được những chi tiết sinh hoạt nhỏ nhặt như vậy, viên bác
sĩ rất lấy làm lạ. Ông ta bắt mạch cho chàng và khi nhận thấy mạch đập
tốt hơn trước, ông rất ngạc nhiên và phiền lòng. Phiền lòng vì kinh
nghiệm đã cho ông biết chắc chắn rằng công tước Andrey không thể sống
được, và nếu chàng không chết ngay thì cũng sẽ chết sau một thời gian
ngắn trong những cơn đau còn ghê gớm hơn nữa mà thôi. Đi cùng xe với
công tước Andrey có viên thiếu tá Timokhin mũi đỏ thuộc trung đoàn
chàng, đã bắt liên lạc với chàng ở Moskva. Ông ta bị thương ở chân, cũng
ở trong trận Borodino. Cùng đi với họ còn có ông thầy thuốc, người hầu
phòng và công tước, người xà ích của chàng và hai người lính cần vụ.
Họ dọn trà cho công tước Andrey. Chàng uống lấy uống để, đôi mắt
long lanh trong cơn sốt nhìn thẳng về phía cánh cửa trước mặt như đang
cố hiểu và nhớ lại một điều gì.
- Thưa công tước đại nhân, tôi đây ạ.
- Vết thương thế nào?
- Vết thương của tôi ấy à? Cũng đỡ. Nhưng công tước thì sao ạ?
Công tước Andrey lại trầm ngâm như muốn nhớ lại điều gì.
Làm sao kiếm được quyển sách ấy nhỉ? - Chàng nói.
- Quyển gì ạ?
- Quyển Phúc âm! Tôi hiện không có.
Người thầy thuốc hứa sẽ tìm cho chàng và hỏi xem chàng thấy trong
người ra sao. Công tước Andrey trả lời tất cả các câu hỏi của người thầy
thuốc một cách miễn cưỡng nhưng phải chăng, rồi nói rằng cần kê thêm
một cái gối dưới lưng, chứ không thì chàng thấy vướng và đau lắm. Người
thầy thuốc và người hầu phòng giở chiếc áo khoắc đắp lên người chàng,
và nhăn mặt vì mùi thịt rất nặng từ vết thương bốc lên, họ bắt đầu xem
xét cái chỗ khủng khiếp ấy(1).
Người thầy thuốc lộ vẻ bực bội một điều gì không rõ, nắn nắn chữa
chữa một lúc, đặt người bị thương nằm lại cách khác, khiến cho chàng rên
lên vì đau đớn và ngất đi một lần nữa. Chàng bắt đầu nói sảng. Chàng cứ
nhắc lại là phải kiếm ngay cho chàng quyển sách ấy và để nó bên cạnh
chàng.
- Thì các người có mất gì đâu nào! - Chàng nói. - Tôi hiện không có
quyển ấy, xin các người kiếm cho tôi, để đây cho tôi một lúc chàng nói
với một giọng thảm thương.
Bác sĩ ra phòng ngoài để rửa tay.
- Chà các anh thật là vô lương tâm, thật đấy, -¨Ông ta nói với người hầu
phòng bấy giờ đang dội nước cho ông rửa tay, - Tôi mới quay lưng ra một
phút mà nó đã thế, đau đến thế kia mà chịu được thì lạ thật.
- Lạy chúa, chúng ta đặt như vừa rồi may ra cũng đỡ, - người hầu phòng nói.
Lần đầu tiên công tước Andrey đã hiểu mình đang ở đâu và đã gặp
phải việc gì. Chàng nhớ ra rằng chàng bị thương, và cũng nhớ rằng chiếc
xe đỗ lại ở Mytisi chàng đã yêu cầu họ đưa chàng vào nhà, sau khi đau
quá ngất đi, chàng lại hồi tỉnh trong căn nhà gỗ khi chàng uống nước
trà, và đến đây chàng ôn lại một lần nữa trong trí nhớ tất cả những gì
đã xảy ra. Chàng hồi tưởng thấy lại rõ rệt hơn cả cái phút nằm trong
trạm cứu thương, khi mà trước cái cảnh kẻ thù của chàng quằn quại đau
đớn, những ý nghĩ mới mẻ đã đến chàng làm cho lòng chàng hạnh phúc. Và
những ý nghĩ này, tuy mơ hồ mông lung, bây giờ lại tràn ngập lòng chàng.
Chàng nhớ ra rằng nay chàng đã có một hạnh phúc mới, và cái hạnh phúc
này có liên quan thế nào đấy với quyển Phúc âm. Chính vì thế mà chàng
hỏi quyển sách này. Nhưng vì bị đặt nằm không thuận, rồi sau đó lại bị
trở người lần nữa, trí óc chàng lại chìm vào cõỉ hôn mê, và khi chàng
hồi tỉnh thứ ba thì quanh chàng là bóng đêm im phăng phắc.

Mọi người đều đã ngủ yên. Có tiếng dế ri rỉ lọt qua cửa phòng
ngoài, ngoài phố có ai reo và hát, mấy con gián chạy sột soạt trên bàn,
trên các bức tượng thánh và trên tường, một con nhặng húc đầu vào gối
chàng và bay vo ve quanh cây bạch lạp đặt cạnh giường chàng cháy thành
hình chiếc nấm lớn.
Tâm trí chàng đang ở một trạng thái không bình thường. Một người
khoẻ mạnh thường tư duy, cảm giác và nhớ lại rất nhiều điều trong một
lúc, nhưng lại có đủ sức lựa chọn lấy một loạt ý nghĩ hay hiện tượng nào
và hướng sự chú ý của mình vào đấy. Dù trong phút suy nghĩ đăm chiêu
nhất, người khoẻ mạnh cũng có thể dứt ra khỏi ý nghĩ của mình để chào
hỏi một người mới bước vào phòng, rồi sau đó lại trở về những ý nghĩ lúc
nãy. Về mặt tâm lý của công tước Andrey đang ở một trạng thái không
bình thường. Tất cả những công năng tinh thần của chàng bấy giờ linh
hoạt và sáng suốt hơn khi nào hết, nhưng nó hoạt động bên ngoài ý chí
của chàng. Những tư tưởng và những biểu tượng hết sức khác nhau đồng
thời tràn vào tâm trí chàng. Đôi khi tư duy của chàng đột nhiên bắt đầu
hoạt động, và hoạt dộng với một sức mạnh, một sự minh mẫn và một chiều
sâu mà trong trạng thái hoạt động như vậy, nó bỗng đứt quãng giữa chừng,
nhường chỗ cho một hình ảnh khác rất bất ngờ, và không sao có thể trở
lại với ý nghĩ cũ được nữa.
"Phải, ta đã thấy một hạnh phúc mới mẻ, không thể tách rời ra khỏi
con người, - Chàng nghĩ trong khi nằm trong gian phòng im lặng tối mờ
mờ, hai mắt trân trân mở rộng nhìn thẳng về phía trước. - Một hạnh phúc
không tuỳ thuộc những sức mạnh vật chất, những ảnh hưởng ngoại lai với
con người, hạnh phúc riêng của tâm hồn, hạnh phúc của tình thương! Bất
cứ người nào cũng có thể hiểu được điều đó nhưng chỉ có Thượng đế mới có
thể soi sáng và phán truyền điều đó được. Nhưng thượng đế phán truyền
đạo luật này như thế nào? Tại sao lại là Chúa Con?… "Rồi đột nhiên dòng
tư tưởng ấy lại bị cắt đứt, và công tước Andrey nghe (không biết trong
tâm hồn mê hay là trong cõi thực) một tiếng nói gì thì thầm khe khẽ nhắc
đi ahắc lại đều đặn: "I - pi - chi pi - chi pi - chi" rồi sau đó là "
chi - chi" rồi lại "pi - chi pi - chi" rồi lại "i - chi - chi". Đồng
thời, trong âm thanh rả rích của điệu nhạc này, công tước Andrey cảm
thấy ở trên mặt mình, ngay ở chính giữa, dần dần nổi lên một toà kiến
trúc kỳ lạ nhẹ nhàng như không khí, làm toàn bằng kim loại hay bằng vỏ
bào. Chàng cảm thấy (tuy điều đó làm cho chàng khổ sở) rằng mình phải cố
giữ thăng bằng sao cho toà kiến trúc ấy đừng đổ nhưng nó vẫn đổ sụp
xuống, rồi sau đó lại từ từ dựng lên trong những âm thanh đều đều của
điệu nhạc rả rích. "Nó cứ kéo dài? Cứ kéo dài mãi, càng dài càng mảnh,
và vẫn cứ kéo dài" - Công tước Andrey tự nhủ. Trong khi lo lắng nghe
tiếng nhạc thì thầm và cảm thấy toà kiến trúc bằng kim kia kéo dài và
dâng cao lên, công tước Andrey đồng thời cũng thấy cái quầng đỏ chập
chờn củangọn nến và nghe tiếng đàn gián bò sột soạt, tiếng vo ve của con
nhặng chốc chốc lại húc vào đầu gối và vào mặt chàng. Và cứ mỗi lần con
nhặng chạm vào mặt chàng, nó lại gây nên một cảm giác nhức buốl như khi
bị bỏng; nhưng đồng thời chàng lấy làm lạ không hiểu sao khi nó húc vào
toà kiến trúc đang dựng lên trên mặt chàng, nó lại gây nên một cảm giác
nhức buốt như bị bỏng; nhưng đồng thời chàng lấy làm lạ không hiểu sao
khi nó húc vào toà kiến trúc đang dựng lên trên mặt chàng, con nhặng lại
không làm cho toà kiến trúc ấy đổ xuống. Nhưng ngoài điều đó ra, lại
còn một điều nữa rất quan trọng. Đó là một cái gì trăng trắng ở cửa, đó
là một pho tượng của con Sphynx(2) và nó cũng đang đè nặng trên bóng vía
chàng.
"Nhưng có lẽ đây là chiếc áo sơ mi của ta để trên bàn - công tước Andrey
nghĩ, - và đây là chân của ta, còn đây là khung cửa; nhưng tại sao nó
lại cứ kéo dài, lan rộng ra mãi mãi và "pi - chi pi - chi i chi - chi i
pi - chi - pi - chi.".
- Thôi đủ rồi xin thôi cho, đừng thế nữa, - Công tước Andrey khó nhọc
cầu xin người nào không rõ. Và đột nhiên tư duy, cảm giác lại có một sức
mạnh và một sự minh mẫn lạ thường.
"Phải, tình yêu thương (chàng lại nghĩ một cách sáng suốt hoàn toàn),
nhưng không phải là thứ tình thương có lý do, có nguyên nhân và có mục
đích, mà là thứ tình thương ta đã cảm thấy lần đầu khi trên gường bệnh
ta trông thấy kẻ thù nhưng ta vẫn thương yêu kẻ đó. Ta đã có thể được
cái tình thương vốn chính là thực chất của linh hồn, thứ tình thương
không cần có đối tượng. Và ngay bây giờ đây ta cũng vẫn có cái tình cảm
diễm phúc đó. Thương yêu đồng loại, thương yêu kẻ thù của mình. Thương
yêu tất cả - thương yêu Thượng đế trong tất cả những sự thể hiện của
Người. Có thể thương yêu một người chí thân bằng tình yêu của con người,
nhưng chỉ có thể thương yêu một kẻ thù bằng tình yêu của Thượng đế.
Chính vì thế mà ta thấy vui sướng khi cảm thấy mình yêu thương người ấy.
Người ấy nay ra sao? Có còn sống không?… Khi yêu thương bằng tình yêu
của con người, có thể từ yêu thương chuyển sang thù ghét; nhưng tình yêu
của Thượng đế thì không thế thay đổi được. Không có gì, dù là cái chết
cũng vậy, không có gì có thể phá hoại tình yêu đó. Nó là thực chất của
linh hồn Trong đời ta, ta đã thù ghét biết bao nhiêu người. Và trong tất
cả mọi người, không có ai yêu thương và thù ghét cho bằng nàng". Và với
tất cả sức tưởng tưởng của mình, chàng hình dung Natasa không phải như
chàng vẫn hình dung trước kia, chỉ có những nét đáng yêu làm cho chàng
say sưa; nhưng lần đầu tiên chàng đã hình dung được tâm linh nàng. Và
chàng đã hiểu tình cảm của nàng, những nỗi đau khổ, sự hổ thẹn, lòng hối
hận của nàng. Bây giờ lần đầu tiên chàng đã hiểu được tất cả sự tàn
nhẫn của chàng khi cự tuyệt nàng, chàng đã thấy rõ sự tàn nhẫn của việc
đoạn tuyệt này. "Giá có thể gặp nàng một lần nữa thôi, để nhìn vào đôi
mắt ấy mà nói rằng…"
Pi - chi pi - chi. i chi - chi, i pi - chi pi - chi bùm! Con nhặng vừa
húc vào gối. Và sức chú ý của chàng bỗng chuyển sang một thế giới khác
vừa thực vừa ảo, trong đó đang xảy ra một điều gì khác thường. Trong thế
giới đó cái toà kiến trúc kia vẫn cứ từ từ dựng lên không ngừng, vẫn có
cái gì kéo dài mãi, ngọn nến vẫn cháy thành một quầng đỏ, vẫn chiếc áo
sơ mi Sphynx nằm ở cửa vào: nhưng ngoài tất cả các thứ đó ra có cái gì
kêu đánh kẹt một tiếng, một luồng gió mát thổi vào, và một con Sphynx
khác, trắng toát đứng thẳng, hiện ra trước khung cửa. Và mặt của con
Sphynx ấy chính là khuôn mặt xanh nhợt và đôi mắt long lanh của Natasa,
người mà chàng vừa nghĩ đến.
"Ôi cứ mê sảng liên miên như thế này thì khổ thật!" - công tước Andrey
nghĩ thầm, cố xua đuổi cái khuôn mặt ấy ra khỏì tâm trí tưởng tượng.
Nhưng khuôn mặt ấy cứ ở trước mặt chàng với sức mạnh của hiện thực, và
nó đang nhích lại gần. Công tước Andrey muốn trở về cái thế giới tư duy
thuần tuý trước dây, nhưng không được và cõi hôn mê lại lôi cuốn chàng
vào lĩnh vực của nó. Tiếng nhạc rả rích kia vẫn tiếp tục thì thầm, và có
một cái gì đè ép chàng, kéo dài ra, và khuôn mặt kỳ dị ấy đứng trước
mặt chàng. Công tước Andrey thu hết tàn lực để tỉnh dậy; chàng khẽ cựa
mình và trong tai chàng bỗng có một tiếng kêu ong ong, mắt chàng mờ tối,
và như một người chìm nghỉm xuống nước, chàng ngất đi. Khi chàng bừng
tỉnh, Natasa, chính Natasa bằng xương bằng thịt, người mà chàng tha
thiết ước ao được yêu với tình thương mới mẻ, tình yêu của Thượng đế
tình yêu thuần tuý mà chàng đã tìm thấy, chính Natasa đang quỳ trước mặt
chàng. Chàng đã hiểu rằng đây chính là Natasa thật, và chàng không ngạc
nhiên, mà chỉ thấy một nỗi vui mừng êm dịu. Natasa quỳ bên gường, đôi
mắt sợ hãi nhìn chàng không chớp (nàng không sao cử động được). Nàng cố
ghìm tiếng nấc; mặt nàng xanh xao và bất động. Chỉ có phía dưới hơi run
rẩy.

Công tước Andrey thở dài nhẹ nhõm, mỉm cười và đưa tay ra cho nàng.
- Cô đấy à! - Chàng nói - Sung sướng quá?
Natasa nhanh nhẹn nhưng thận trọng nhích đến gần chàng, cầm lấy tay
chàng và cúi mắt xuống hôn, môi chỉ khẽ chạm vào bàn tay.
- Anh tha thứ cho em! - Nàng nói thì thào và ngẩng dầu lên nhìn chàng. - Xin anh tha thứ cho em!
- Tôi yêu Natasa, - Công tước Andrey nói.
- Anh tha thứ…
- Tha thứ việc gì? - Công tước Andrey hỏi.
- Xin anh tha thứ tất cả… những gì em đã… làm - Natasa thì thầm,
giọng đứt quãng, khẽ đến nỗi công tước chỉ vừa đủ nghe thấy, và liên
tiếp hôn lên khắp bàn tay chàng, môi chỉ khẽ chạm vào da.
- Anh yêu em nhiều hơn, đằm thắm hơn trước, - Công tước Andrey nói và lấy tay nâng mặt nàng để có thể nhìn thẳng vào mắt nàng.
Đôi mắt ấy rưng rưng những giọt nước mặt vui sướng, đang rụt rè,
thương xót và âu yếm nhìn chàng. Khuôn mặt gầy xanh của Natasa với đôi
môi sưng húp trông chẳng đẹp chút nào, lại dễ sợ nữa. Nhưng công tước
Andrey không trông thấy khuôn mặt ấy, chàng trông thấy ánh mắt sáng long
lanh. Đôi mắt ấy đẹp lạ lùng. Phía sau họ có tiếng nói lao xao.
Piotr, người hầu phòng, bấy giờ đã tỉnh hẳn và đã đánh thức người
thầy thuốc dậy. Timokhin, suốt đêm không chợp mắt vì đau chân, đã trông
thấy từ lâu mọi việc đang xảy ra, và cố lấy chăn đắp kín tấm thân không
mặc áo của mình co ro trên ghế dài.
- Cái gì thế? - Người thầy thuốc nói trong khi nhổm dậy.
- Xin tiểu thư đi ra cho.
Vừa lúc ấy có tiếng gõ cửa của một người đầy tớ gái được bá tước phu nhân sai đi tìm Natasa.
Như một người mắc chứng mộng du (3) bị người ta đánh thức trong khi
đang ngủ say, Natasa đi ra và trở về phòng gieo mình xuống đệm rơm khóc
nức nở.

Từ hôm ấy, trong suốt cuộc hành trình của gia đình Roxtov, những khi
dừng lại hoặc nghỉ đêm, Natasa không lúc nào rời khỏi Bolkonxki, và
người thầy thuốc phải thú nhận rằng ông không ngờ một người con gái lại
có thể cương nghị và khéo léo chăm sóc người bị thương đến thế.
Tuy bá tước phu nhân rất khiếp sợ khi nghĩ rằng công tước Andrey có
thể chết trên tay con gái mình (theo lời người thầy thuốc thì điều đó
rất có thể xảy ra) bà vẫn không ngăn cấm Natasa được. Mặc dù sự gần gũi
giữa công tước Andrey và Natasa khiến người ta nghĩ rằng nếu chàng khỏi
thì những mối quan hệ trước kia giữa hai vợ chồng chưa cưới sẽ được nối
lại, trong nhà vẫn không ai nói đến điều đó: cái vấn đề chưa được giải
quyết, vấn đề sống hay chết, đang treo lơ lửng không những trên đầu công
tước Andrey mà còn trên đầu toàn thể nước Nga nữa, bây giờ đã lấn át
hết mọi ý nghĩ khác.

Chú thích:
(1) Y học thời ấy (1812) chưa biết cách ngừa và trị chứng hoại thư. Văn
hào Anton Tshekhov vốn là bác sĩ. Có nói rằng ông có thể chữa được chứng
hoại thư của công tước Andrey
(2) Một con vật hoang đường trong truyền thuyết Hy Lạp, tượng trưng cho
sự bí ẩn, thường được hình dung như một con sư tử đầu người có cánh
(3) Người mắc bệnh đi lang thang trong khi đang ngủ.
hết: Chương - 30 -, xem tiếp: Chương -31 -32 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 EmptyWed Jan 05, 2011 9:41 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XI

Chương -31 -32 -


Ngày mồng ba tháng chín Piotr dậy muộn. Đầu chàng nhức buốt, bộ quần
áo mà chàng không cởi ra khi đi ngủ làm cho thân thể chàng thấy bức bối,
và trong tâm trí chàng có ý thức mơ hồ rằng hôm qua mình đã làm một
việc gì đáng hổ thẹn: đó là cuộc nói chuyện với đại uý Rambal.
Đồng hồ chỉ mười một giờ, nhưng ở bên ngoài trời có vẻ u ám lạ
thường. Piotr đứng dậy, địu mắt và khi trông thấy khẩu súng tay với
chiếc cán chạm mà Geraxim đã đặt lại trên bàn viết, Piotr sực nhớ mình
hiện đang ở đâu, và ngày hôm nay mình phải làm gì.
"Không biết có chậm không? - Piotr nghĩ - Không có lẽ ít nhất phải
đến mười hai giờ hắn mới vào Moskva". Piotr không cho phép mình nghĩ
ngợi về những điều sắp phải làm, nhưng vội vã tìm cách hành động cho
thật chóng.
Chàng xốc lại áo, cầm lấy khẩu súng ngắn và đã toan đi. Nhưng đến
đây, lần đầu tiên chàng băn khoăn tự hỏi mình sẽ mang vũ khí như thế nào
để đi giữa đường. Cầm ở tay thì không được rồi. Ngay dưới tà áo kaftan
rộng thùng thình cũng khó lòng giấu được khẩu súng to tướng. Giắt ở lưng
hay cắp ở nách thì người ta trông thấy mất. Hơn nữa, viên đạn trong
khẩu súng đã bắn ra rồi, và Piotr chưa kịp nạp lại viên khác. "Thôi,
dao găm cũng được", Piotr tự nhủ mặc dầu. Trong khi suy tính cách thực
hiện ý định, chàng đã nhiều lần nghĩ rằng cái sai lầm chủ yếu của người
sinh viên năm 1809 là ở chỗ anh ta muốn giết Napoléon bằng dao găm.
Nhưng tựa hồ như mục đích chính của Piotr không phải là thực hiện một
công việc đã dự tính, mà là cố sao tỏ rõ cho bản thân mình thấy rằng
mình không từ bỏ cái ý định và đang làm đủ cách để thực hiện ý định đó,
Piotr vội vã cấm lấy con dao găm vừa cùn vừa đút trong chiếc vỏ xanh mà
chàng đã mua ở tháp Xukharev cùng với một khẩu súng ngắn, rồi giấu nó
dưới lần áo gi-lê.
Sau khi đã thắt áo kaftan và đội cái mũ chụp xuống mắt. Piotr cố
tránh mặt viên đại uý, đi thật im lặng qua hành lang và ra đường.
Đám cháy mà tối hôm qua chàng đã đứng một cách thản nhiên như vậy,
nay qua một đêm đã to lên khá nhiều. Bây giờ thành Moskva đã bốc cháy từ
nhiều phía. Xóm hàng xe, khu tả ngạn Moskva, khu Goxtiny Dvor, phố
Povarxkaya, xóm thợ thuyền trên sông Moskva và khu chợ củi cầu
Dorogomilov cùng cháy một lúc.
Đường đi của Piotr băng qua các ngõ hẻm đến phố Povarxkaya và từ đó
rẽ sang Arbat, đi về phía nhà thờ Nikolai Yavlefmy, nơi mà từ lâu trong
trí tưởng tượng chàng đã chọn để thực hiện ý định cúa mình. Phần lớn các
nhà đều đóng cửa kín mít. Phố xá và ngõ hẻm đều vắng tanh. Không khí
phảng phất mùi khói và mùi cháy khét. Thỉnh thoảng mới gặp những người
Nga với bộ điệu của một đám quân vô lệnh đi nghênh ngang ở chính giữa
phòng. Cả người Nga lẫn người Pháp đều nhìn Piotr có vẻ ngạc nhiên.
Ngoài cái thân hình cao lớn đẫy đà, ngoài cái vẻ mặt và dáng điệu đăm
chiêu, ủ dột và khổ sở rất kỳ lạ của chàng, người Nga còn chú ý nhìn
Piotr vì họ không hiểu con người kia thuộc tầng lớp nào. Còn người Pháp
thì ngạc nhiên đưa mẳt nhìn theo chàng đặc biệt vì trong khi tất cả
những người Nga khác đều nhìn người Pháp một cách sợ sệt và tò mò, thì
trái lại Piotr chẳng hề để ý đến họ một chút nào cả. Ở bên cổng một ngôi
nhà chàng đi qua, ba người Pháp đang muốn nói gì với mấy người Nga
nhưng họ nghe chẳng hiểu gì cả, bèn chặn Piotr lại hỏi xem chàng có biết
tiếng Pháp không.
Piotr lắc đầu ra hiệu không biết và tiếp tục đi. Ở một ngõ khác, một
tên lính canh đứng cạnh một cái thùng sơn xanh, lớn tiếng gọi chàng, và
mãi đến khi nghe tiếng quát thứ hai và tiếng súng lách cách của tên
lính canh đang giơ súng lên. Piotr mới hiểu ra rằng chàng chẳng nghe
thấy gicả, chẳng trông thấy gì ở xunh quanh hết.
Hấp tấp và sợ hãi, chàng mang cái ý định của mình trong lòng như một vật
gì kinh khủng và xa lạ đối với chàng, chỉ sợ xao nhãng mất ý định ấy,
kinh nghiệm tối qua đã giữ trọn được tâm trạng của mình cho đến nơi đến
chốn. Hơn nữa, trên đường đi không có gì trở ngại, ý định của chàng cũng
không thể nào thực hiện được nữa rồi, vì một lẽ giản đơn là Napoléon đã
từ ngoại ô Dorogomilov đi qua Arbat để vào thành Kreml cách đây bốn
tiếng đồng hồ và hiện đang ngồi ở phòng giấy của Sa hoàng trong cung
điện với một tâm trạng thật là ảo não, và đang ra những mệnh lệnh tỷ mỉ,
tường tận về những biện pháp cần thi hành để dập tắt đám cháy, ngăn cản
việc cướp bóc và ổn định nhân tâm. Nhưng Piotr không biết thế, tâm trí
chàng dồn cả vào việc làm, chàng khổ sở như những người đang cố tâm mưu
đồ một việc gì không thể làm được, không phải vì việc đó có nhiều khó
khăn mà vì nó không hợp chút nào với bản thân của mình, chàng khổ sở vì
sợ rằng mình sẽ nao núng trong giờ phút quyết liệt và sau đó sẽ tự khinh
mình.
Tuy chàng chẳng nghe thấy gì, chẳng trông thấy gì ở xung quanh, nhưng
trực giác cũng mách chàng đi đúng đường, và chàng đã không lạc lối khi
đi vào các ngõ hẻm dẫn đến phố Povarxkaya.
Càng đến gần phố Povarxkaya, khói càng dày đặc, và thậm chí càng thấy
nóng người lên vì hơi lửa toả ra. Thỉnh thoảng lại trông thấy những ngọn
lửa liếm trên cái mái nhà. Trên đường phố gặp nhiều người hơn trước và
những người đó lại có vẻ lo lắng hơn.
Nhưng tuy chàng cảm thấy có một cái gì đó khác thường đang diễn ra
quanh mình. Piotr cũng vẫn không nhận thức được rằng mình đang đến gần
một đám cháy. Đang đi theo một con đường mòn băng qua một khoảng đất
trống chưa xây nhà, một mặt giáp với phố Povarxkaya còn mặt kia thì giáp
khu vườn của nhà công tước Gruzinxki, Piotr chợt nghe tiếng một người
đàn bà khóc thảm thiết ngay sát cạnh mình. Chàng dừng lại sực tỉnh và
ngẩng đầu lên.
Bên cạnh con đường, trên lớp cỏ cháy khô và phủ bụi, chồng đống một
mớ những đồ gia dụng: nệm lông, ấm lò, tượng thánh và rương hòm. Bên
cạnh mấy cái hòm có một bà đã lớn tuổi, gầy gò, răng dài và vẩu mặc áo
choàng màu đen và đội mũ chụp, đang ngồi giữa đất.
Người đàn bà ấy vừa lắc lư vừa khóc nức nở, mồm không ngớt kể lể than
vãn. Hai đứa con gái khoảng từ mười đến hai mươi, mình mặc váy ngắn và
sợ hãi trên gương mặt tái xanh. Một đứa bé con trai lên bảy, mặc chiếc
áo rộng và đội một cái mũ lưỡi trai to tướng, đang khóc lè nhè trên tay
bà u già. Một người đầy tớ gái bẩn thỉu đi chân không ngồi trên chiếc
hòm đang tháo cái bứn tóc màu vàng chốc chốc lại đưa lên mũi ngửi. Người
chồng, một người thâm thấp, mặc y phục công chức, lưng hơi gù, râu quai
nón, hai thái dương phẳng phiu lộ rõ dưới chiếc mũ lưỡi trai đội rất
ngay ngắn, vẻ mặt đờ đẫn, đang xê dịch mấy cái rương chồng lên nhau, tôi
ra mấy thứ quần áo. Trông thấy Piotr, người đàn bà gần như phủ phục
xuống chân chàng.
- Các ông ơi, các ông là người Cơ-đốc chính giáo, các ông cứu giúp
chúng tôi với, xin các ông rủ lòng thương cho! Có ai cứu tôi với! Con
gái tôi! Họ bỏ sót đứa con gái út của tôi lại rồi! Nó chết cháy mất!
Trời ô - ô - ôi! Mẹ nuôi dưỡng nâng niu con bấy lâu mà bây giờ ô - ô -
ôi!
- Thôi đi nào, Maria Nikolaievna, - người chồng nói khẽ với vợ, hẳn là
chỉ để thanh minh trước người lạ mặt. - Chắc là cô em đã bế nó rồi, chứ
không thì sao chẳng thấy nó đâu cả!
- Đồ quỷ sứ, đồ khốn nạn? - người đàn bà bỗng thôi khóc, rít lên một
cách hằn học - Mày thật không có lương tâm, con mày mà mày cũng không
biết thương. Giá người khác thì người ta đã xông vào lửa cứu nó ra rồi.
Còn mày là quỷ chứ không phải là người, mày không phải là người bố. Ông
là người có lòng tốt, - người đàn bà quay sang Piotr, nói rất nhanh; vừa
nói vừa khóc thút thít. - Nhà bên cạnh cháy, thế là lan sang nhà chúng
tôi. Con sen kêu: cháy rồi! Chúng tôi chạy đi vơ vén đồ đạc. Vớ được cái
gì thì mang cái ấy. Đây ngần này đồ đạc đây… Cái tủ thờ và cái gương
hồi môn đều mất cả. Khi nhìn lại bầy con thì chẳng thấy con Katya đâu.
Trời ô ô - ôi! và bà ta lại khóc nấc lên. - Con tôi, đứa con yêu quý của
tôi chết cháy mất rồi! Chết cháy mất rồi!
- Nhưng nó ở đâu, nó ở đâu mới được chứ? - Piotr hỏi.
Trông vẻ mặt hăm hở của chàng người đàn bà kia đã hiểu rằng người này có thể giúp được mình.
- Con ơi! Con đẻ của tôi! - bà ta kêu lên, ôm chặt lấy chân chàng. - Ân
nhân ơi, xin ông cứu giúp cho tôi yên lòng… Aniska, con trời đánh kia,
đi đi, đưa ông ấy đi - bà ta giận dữ há mồm ra quát người đày tớ gái,
làm cho mấy cái răng vẩu lộ rõ hơn nữa.
- Chị đưa tôi đi, tôi tôi sẽ làm, - Piotr nói vội, giọng hớt hải.
Người con gái bẩn thỉu ngồi trên rương đứng dậy, sửa lại bím tóc thở
dài rồi bước trên hai bàn chân đất to tướng và bẩn thỉu, đi theo con
đường mòn. Piotr như sực tỉnh sau một cơn mê rất dài.
Chàng cất cao mái đầu lên, mắt chàng sáng long lanh và đầy sinh khí,
chàng bước nhanh theo người đầy tớ gái, vượt qua chị ta và bước ra phố
Povarxkaya. Suốt dãy phố bị che kín trong một đám khói đen nghịt. Dân
chúng chen chúc thành một đám rất đông đứng trước đám cháy. Ở giữa đường
một viên tướng Pháp đang đứng nói gì với mấy người vây quanh. Piotr và
người đầy tớ gái toan đến gần chỗ viên tướng, nhưng một tốp lính Pháp
chặn họ lại.
- Không đi được! - có tiếng quát.
- Đi lối này bác ạ người đày tớ gái nói, - Ta sẽ vào ngõ, đi qua sân nhà bác Nikulin.
Piotr quay trở lại và bước ra, chốc chốc lại nhảy mấy bước để theo
kịp chị ta, người đày tớ gái chạy qua đường, quay sang trái, rẽ vào ngõ
và đi qua ba nhà rồi quay sang phải, rẽ vào một cái cổng.
- Đây sắp đến rồi, - chị ta nói, đoạn chạy qua sân mở một cánh cửa đi
qua một hàng rào bằng gỗ, rồi đứng lại chỉ cho Piotr thấy một dãy nhà
ngang nhỏ bằng gỗ đang cháy rất to, hơi lửa bốc ra nóng hừng hực. Một
bên nhà đã sụp xuống, bên kia thì đang cháy, và những ngọn lửa sáng rực
từ trong các khung cửa sổ và từ dưới mái nhà lem lém bùng lên.
- Nhà nào, nhà nào? - Chàng nói.
Trời ô - ôi - người đày tớ gái kêu rống lên và giơ tay chỉ dãy nhà ngang.
- Chính đây, nhà chúng tôi ở đây. Cô chết cháy mất rồi cô Katya ơi là cô
Katya! Trời ô - ô - ôi! - Aniska tru tréo lên: khi trông thấy căn nhà
cháy, chị ta cũng cảm thấy cần thổ lộ tình cảm của mình ra như vậy.
Piotr lao mình về phía căn nhà, nhưng lửa nóng lên đến nỗi chàng
bất giác đi vòng quanh dãy nhà và thấy mình đứng trước mặt một toà nhà
lớn chỉ mới cháy một bên mái. Bên cạnh toà nhà có một đám đông lính Pháp
đi lại lố nhố. Lúc đầu không hiểu bọn lính này làm gì mà lôi kéo đồ đạc
đi như vậy; nhưng khi thấy một tên lính Pháp dùng sống gươm đánh một
người mu-gich và cởi chiếc áo khoác lông chồn của anh ta, Piotr hiểu lờ
mờ rằng họ đang cướp của, nhưng chàng không có thì giờ nghĩ đến việc
này.
Tiếng những bức vách gỗ và những tấm trần nhà gãy răng rắc và đổ
xuống ầm ám, tiếng lửa réo ù ù và tiếng kêu la ơi ới của dân chúng, cảnh
những đám khói khi thì ùn ùn tụ lại dày đặc và đến ngòm, khi thì bốc
lên sáng rực với những tia lửa tung toé, những ngọn lửa đang táp lên các
bức tường, nơi thì đỏ và dày như những bó lúa, nơi thì vàng óng lên,
hơi nóng, khói và những động tác mau lẹ tất cả những thứ đó đã có tác
dụng kích thích Piotr như các đám cháy vẫn thường có. Đối với Piotr, các
tác dụng này lại càng mạnh hơn nữa là vì khi trông thấy đám cháy, Piotr
bỗng cảm thấy mình được giải thoát ra khỏi những ý nghĩ đang đè nặng
lên tâm tư.
Chàng cảm thấy mình trẻ trung, vui vẻ, nhanh nhẹn và quả quyết.
Chàng chạy vòng qua dãy nhà ngang từ phía toà nhà lớn và đã toan
xông vào gian nhà còn đứng vững, thì ngay trên đỉnh đầu chàng nghe có
mấy tiếng người kêu lên và tiếp theo là tiếng một vật gì nặng đổ xuống
ầm ầm bên cạnh chàng.
Piotr ngẩng lên nhìn và thấy. Ở khung cửa sổ của toà nhà có mấy tên
lính Pháp vừa vứt xuống một cái ô kéo tủ ngăn đựng đầy những đồ đạc bằng
kim loại. Mấy tên khác đứng ở dưới đang đi về phía cái ô kéo.
- Này cái anh kia muốn gì hả? - Một tên lính Pháp quát Piotr.
- Có một đưa bé đang ở trong nhà. Các ông có thấy một đứa bé không? - Piotr nói.
- Chà, cái thằng cha kia nói lảm nhảm cái gì thế hả? cút đi! - có mấy
tiếng nói, và mòt tên lính Pháp, chắc là sợ Piotr lấy mất chỗ đồ bạc và
đồ đồng trong ô kéo, liền tiến về phía chàng, vẻ mặt dữ tợn.
- Một đứa bé à? - một tên lính Pháp ở trên gác nói to. - Tớ có nghe cái
gì léo nhéo ở ngoài vườn ấy. Có lẽ là thằng nhóc của lão kia cũng nên.
Phải nhân đạo chứ, các cậu…
- Nó ở đâu? Nó ở đâu rồi? - Piotr hỏi.
- Phía này này, phía này này! - tên lính Pháp trên cửa sổ nói to, tay
chỉ ra khu vườn ở sau nhà. - Đợi một tí tôi sẽ xuống ngayl
Và quả nhiên một phút sau tên lính Pháp, một gã trai tráng mắt đen có
cái bớt ở bên má, mình chỉ mặc áo sơ mi, từ khung cửa sổ tầng dưới nhảy
ra và vỗ vai Piotr một cái rồi cùng chàng chạy ra vườn.
- Còn các chú kia nhanh lên, - hắn quát bọn lính, - Bắt đầul nóng quá rồi đấy!
Họ vòng ra sau nhà và chạy vào một lối đi rải cát. Tên lính Pháp kéo
tay Piotr và chỉ cho chàng một vật gì tròn tròn. Dưới một cái ghế dài
có một đứa con gái ba tuổi mặc áo dài màu hồng nằm co ro.
- Thằng nhóc của ông đấy. À! Một đứa con gái, càng tốt, - tên Pháp nói, -
Chào ông béo, ông phải nhân đạo chứ. Chúng ta đều là người, đều có lúc
chết cả ông ạ! - Nói đoạn tên Pháp có cái bớt ở má chạy về phía các bạn
hắn.
Piotr mừng đến nghẹt thở vội chạy đến gần đứa bé và toan bế nó lên.
Nhưng trông thấy người lạ, đứa con gái, vẻ ốm yếu và cam sài, trông rất
dễ ghét, giống hệt mẹ nó, bỗng kêu thét lên và vùng chạy.
Tuy vậy, Piotr chộp lấy nó và bế nó lên; nó hét lên the thé, giọng
hằn học, lấy hai tay cố gỡ tay Piotr ra và giơ cái mồm đầy rãi nhớt ra,
cắn tay chàng. Piotr thấy kinh hãi và ghê tởm như khi nhỡ chạm vào một
con sâu. Tuy vậy chàng cố tự chủ để đừng thả rơi đứa bé, và bế nó chạy
về phía toà nhà lớn. Nhưng bây giờ không thể nào trở về theo lối cũ được
nữa; cô đày tớ gái Aniska chẳng thấy đâu, và Piotr, trong lòng vừa
thương hại vừa ghê tởm, cố ôm đứa bé ướt át vào lòng một cách dịu dàng
trong khi nó khóc hét lên, rồi chàng chạy qua vườn đi tìm một lối ra
khác.

32
Sau khi chạy qua mấy cái sân và mấy ngõ hẻm, Piotr ẵm đứa bé chạy về phía khu vườn của nhà Gruzinxki ở góc phố Povarxkaya.
Thoạt tiên, chàng không nhận ra nơi mà chàng đã xuất phát để đi tìm
đứa bé: nơi ấy chật ních những người và chất đầy đồ đạc từ trong các nhà
lôi ra. Ngoài các gia đình Nga với của cải của họ vừa chạy được, ở đây
còn có mấy người lính Pháp mặc nhiểu thứ y phục khác nhau. Piotr không
chú ý đến họ. Chàng vội vã đi tìm gia đình người công chức để trả đứa
con gái cho mẹ nó và đi cứu thêm vài người nữa. Piotr có cảm tưởng như
mình đang cần làm nhiều việc nữa - mà phải làm cho thật nhanh. Người
nóng bừng lên vì hơi lửa và vì chạy nhanh, giờ phút này Piotr, càng thấy
rõ hơn nữa cái cảm giác trẻ trung, hưng phấn và quả quyết đã tràn vào
lòng chàng khi chàng chạy đi cứu đứa bé. Bấy giờ đứa con gái đã nín, và
hai tay bám vào chiếc áo kaftan của Piotr, nó ngồi trên tay chàng và đưa
mắt nhìn quanh như một con thú rừng nhỏ. Piotr thỉnh thoảng lại nhìn nó
và mỉm cười. Chàng có cảm giác là trong cái khuôn mặt ốm yếu và hoảng
sợ của nó có một cái gì rất ngây thơ và cảm động.
Ở chỗ hồi nãy chẳng thấy vợ chồng người công chức đâu nữa.
Piotr bước nhanh giữa đám đông, nhìn mặt những người ở xunh quanh.
Chàng bất giác để ý đến một gia đình người Gruzin hay người Armeni gì
đấy, gồm một cụ già rất cao tuổi, khuôn mặt kiểu Đông phương rất đẹp,
mình mặc một chiếc áo tu-lúp mới có phủ dạ, chân đi đôi ủng mới, một bà
già cũng kiểu mặt như thế và một người thiếu phụ. Piotr thấy người thiếu
phụ trẻ măng ấy thật là một khuôn mặt tuyệt với của sắc đẹp phương
Đông, với đôi lông mày đen uốn vòng cung, với nước da màu hồng mơn mởn
mịn lạ thường trên một khuôn mặt trái xoan rất đẹp, không biểu lộ một
tình cảm nào. Ở giữa những đống đồ đạc ngồn ngang, giữa đám người chen
chúc trên khoảng đất trống, mình mặc chiếc áo xa-tanh sang trọng và đầu
trùm chiếc khăn màu tím tươi, nàng giống như một đoá hoa mềm dịu vốn nở
trong một lồng lánh ủ cây mà bị vứt ra giữa tuyết lạnh. Nàng ngồi trên
mấy cái tay nải sau bà già một quãng, đôi mắt lá răm to và đen với đôi
hàng mi dài đăm đăm nhìn xuống đất. Hình như nàng cũng biết mình đẹp và
lo sợ cho nhan sắc của mình.
Khuôn mặt ấy khiến Piotr cũng ngoái lại nhìn nàng mấy lần. Đi đến
cuối dãy hàng rào và không thấy những người chàng đang tìm, Piotr dừng
lại đưa mắt nhìn quanh.

Bóng dáng Piotr ẵm đứa bé trên tay bấy giờ lại càng dễ được mọi người
chú ý hơn, và đã có mấy người Nga, vừa đàn ông vừa đàn bà, xúm lại
quanh chàng.
- Hình như ông lạc mất người nào thì phải? Ông là người quý phái phải không - họ hỏi chàng.
Piotr đáp lại rằng đứa trẻ này là con một mụ đàn bà mặc áo đen, hồi nãy
với mấy đứa con ở chỗ này, và hỏi xem có ai biết bà ta không và bà ta đi
đâu rồi.
- Chắc là gia đình nhà Anferov, - một ông thầy dòng già nói với một
người đàn bà mặt rỗ, - Lạy chúa tôi, - ông ta nói thêm với cái giọng
trầm quen thuộc.
- Anferov nào? - người đàn bà mặt rỗ nói, - Nhà Anferov đi từ sáng sớm
rồi còn gì. Đây chắc phải là Maria Nikolaievna hay nhà Ivanov.
- Ông ấy nói là một mụ đàn bà, còn Maria Nikolaievna là một bà lớn kia mà, - một người gia đinh nói.
- Chắc các người biết bà ta, răng vẩu, người gầy thế này này, - Piotr nói.
- Đúng bà Maria Nikolaievna rồi. Họ đang đi vào khu vườn kia thì bọn lang sói ấy ập đến, - người đàn bà chỉ bọ lính Pháp nói.
- Ôi lạy Chúa, - Ông thấy dòng lại nói. - Ông đi lại đằng kia kìa, họ đang ở đấy. Chính bà ta ở đấy.
- Suốt buổi chỉ khóc lóc kêu gào, - người đàn bà nói thêm.
- Chính bà ta đấy. Phía này này.
Nhưng Piotr không nghe họ nói gì. Đã mấy giây đồng hồ chàng chăm
chú nhìn một việc đang xảy ra cách chàng mấy bước. Chàng nhìn cái gia
đình người Armeni và hai tên lính thấp bé, vẻ rất láu lỉnh, mặc một áo
khoác xanh thắt một sợi dây thừng. Hắn đội một cái mũ chụp, đi chân
không. Tên kia khiến Piotr đặc biệt chú ý: đó là một người cao và gầy,
lưng hơi gù, tóc vàng, có những động tác chậm chạp một vẻ mặt đần độn.
Tên này mặc một chiếc áo ca-pốt dạ xù, một cái quần xanh và đi đôi ủng
kỵ binh đã rách. Tên lính thấp bé đi chân không và mặc áo khoác xanh đến
gần mấy người Armeni nói mấy tiếng gì không rõ rồi lập tức nắm lấy chân
ông già.
Ông già hối hả cởi ủng ra. Tên mặc áo ca-pốt dừng lạỉ trước mặt cô
gái Armeni xinh đẹp kia và hai tay đút túi đứng im nhìn nàng.
- Bế lấy, bế lấy đứa bé, - Piotr vừa nói vừa vội trao đứa con gái cho
người đàn bà. Chàng nói to gần như quát lên, giọng như ra lệnh. - Bà
mang đi trả cho người ta, mang đi!Nhanh lên !
Chàng đặt đứa bé đang khóc xuống đất và quay lại nhìn hai tên lính
Pháp và gia đình mấy người Armeni. Ông già đã cởi một chiếc ủng. Tên
Pháp thấp bé rút chiếc kia ra và đập đập hai chiếc ủng vào nhau. Ông già
vừa khóc vừa nói một câu gì nhưng Piotr chỉ thấy thoang thoáng những
việc đó; tất cả sức chú ý chàng đều tập trung vào tên lính mặc áo ca-pốt
lúc bấy giờ đang khệnh khạng bước chậm rãi gần người thiếu phụ và rút
hai tay ra khỏi túi nắm lấy cổ nàng.
Người thiếu phụ Armeni xinh đẹp vẫn ngồi im như cũ, hai hàng mi dài
cụp xuống, có vẻ như không thấy và không hề hay biết tên lính kia làm gì
mình.
Khi Piotr chạy đến nơi thì tên cướp cao lênh khênh mặc ca-pốt kia đã
tháo được chiếc vòng của người thiếu phụ đang đeo. Nàng giơ hai tay lên
cổ và kêu thét lên.
- Không được động đến người đàn bà này! - Piotr gầm lên, giọng giận dữ.
Chàng nắm lấy hai vai tên lính cao và gù kia ẩy ra phía sau. Hắn ngã
ngửa ra, lồm cồm bò dậy và bỏ chạy. Nhưng tên lính kia ném đôi ủng xuống
đất, rút đoản kiếm ra và tiến về phía Piotr, vẻ dữ tợn. Hắn quát:
- Này, đừng có lôi thôi!
Piotr đang ở trong một cơn giận điên cuồng, không còn nhớ gì nữa;
sức chàng tăng lên gấp mười lúc thường. Chàng xông vào tên lính Pháp đi
chân không, và tên này chưa kịp rút gươm đã bị ngã lăn; chàng nện hai
quả đấm tới tấp vào người hắn. Trong đám đông đứng xung quanh có tiếng
gieo hò tán thưởng, và cùng một lúc ấy từ góc phố hiện ra một đội kỵ
binh U-lan của Pháp đi tuần tiễu. Đội U-lan phóng nước kiệu về phía
Piotr và tên lính Pháp, và vây quanh hai người, Piotr không còn nhớ gì
những việc đã xảy ra sau đó nữa. Chàng chỉ nhớ mang máng là chàng có
đánh một người nào, rồi người ta đánh chàng và cuối cùng chàng thấy tay
mình bị trói lại, rồi một đám lính Pháp đứng quanh chàng và lục soát
chàng.
- Thưa trung uý, hắn có một con dao găm! - Đó là những lời đầu tiên mà Piotr hiểu được.
- À, có vũ khí à? - Viên sĩ quan nói đoạn quay về phía tên lính đi chân không lúc bấy giờ cũng cùng bị bắt với Piotr.
- Được ra toà án binh sẽ nói chuyện, - Viên sĩ quan nói xong lại quay về
phía Piotr hỏi - Anh có biết nói tiếng Pháp không, anh kia?
Piotr đưa đôi mắt đỏ ngầu nhìn quanh và lặng thinh không đáp.
Chắc vẻ mặt của chàng trông rất khủng khiếp cho nên viên sĩ quan
quay ra nói thì thầm mấy tiếng, và thêm bốn người lính U-lan nữa tách ra
khỏi hàng ngũ đến đứng kèm hai bên Piotr.
- Anh có biết nói tiếng Pháp không? - viên sĩ quan đứng cách Piotr khá xa nhắc lại câu hỏi. - Gọi thông ngôn lại đây!
Từ trong hàng ngũ bước ra một người nhỏ loắt choắt mặc thường phục
kiểu Nga. Trông lối ăn mặc và nghe giọng nói, Piotr nhận ra hắn là một
người Pháp kiều làm trong một cửa hiệu buôn ở Moskva.
Người thông ngôn ngắm nghía Piotr một lúc rồi nói:
- Trông hắn không có vẻ là một người bình dân.
- Ồ, ồ! Ta trông tên này dáng một tên đốt nhà lắm. - viên sĩ quan nói. - Thư hỏi hắn xem hắn là ai.
- Mày là ai? - viên thông ngôn hỏi. - Mày phải trả lời quan trên. - Hắn nói thêm.
- Tôi sẽ không nói cho các người biết tôi là ai đâu. Tôi là tù binh của
các người. Các người cứ dẫn tôi đi! - Piotr bỗng nói bằng tiếng Pháp.
- À à! Viên sĩ quan cau mày nói. - Thôi, đi.
Chung quanh toàn lính U-lan người đứng xem khá đông. Đứng gần Piotr
là người đàn bà mặt rỗ bế đứa con gái: khi toán lính thúc ngựa đi, bà ta
tiến lên mấy bước nói:
- Ông ơi, họ đem ông đi đâu thế? Thế còn con bé thì sao? Nếu không phải con họ thì tôi biết mang nó đi đâu.
- Mụ kia muốn gì thế? - Viên sĩ quan hỏi.
Piotr bấy giờ như người say rượu. Cái tâm trạng phấn khích của chàng lại
càng tăng thêm trông thấy đứa con gái mà chàng đã cứu sống. Chàng nói:
- Bà ta nói gì ấy à? Bà ta đem đưa con gái của tôi lại cho tôi.
- Tôi vừa cứu nó ở trong đám cháy ra, - chàng nói, - Thôi vĩnh biệt! -
chàng cũng không biết tại sao mình lại thốt ra một lời nói dối vô ích
như vậy nữa. Chàng bước quả quyết và dõng dạc đi giữa toán lính Pháp.
Đội tuần tiễu vừa rồi là một trong những đội được phái đi khắp các
phố Moskva theo lệnh của Duronel để ngăn chặn việc cướp bóc và nhất là
để bắt những kẻ đốt nhà, vì hôm ấy ý kiến chung của những sĩ quan cao
cấp của Pháp đều cho rằng có những kẻ đã gây ra những đám cháy nhà. Sau
khi vòng qua mấy phố đội tuần tiễu bắt thêm năm người Nga khả nghi nữa,
gồm một người chủ hiệu buôn, hai người học trò trường dòng, một người
mu-gich và một người gia nô. Ngoài ra, họ còn bắt thêm mấy tên lính đi
ăn cướp. Nhưng trong số những người khả nghi ấy thì Piotr trông có vẻ
khả nghi hơn cả.
Khi quân Pháp dẫn họ vào nghỉ đêm trong toà nhà lớn cạnh thành
Zubovxki, nơi có lập một đồn cảnh sát, Piotr được giam riêng ra một nơi
và được canh phòng cẩn mật.
hết: Chương -31 -32 -, xem tiếp: Phần XII- Chương - 1 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 EmptyWed Jan 05, 2011 9:42 pm

Phần XII

CHương I


Ở Petersburg,
trong các giới cao cấp diễn ra một cuộc đấu tranh gay gắt hơn bao giờ
hết giữa các đảng phái của Rumiantev, của các quan lại Pháp, của Maria
Feodorovna(1), của thái tử của mấy người khác nữa. Cũng như xưa nay vẫn
thế, cuộc tranh chấp này diễn ra trong tiếng vo ve của bầy ong đực trong
triều đình.
Nhưng cuộc sống Petersburg yên tĩnh, xa hoa, chỉ bận tâm lo đến những
ảo ảnh, những phản ánh của cuộc đời, vẫn tiếp tục theo nếp cũ cho nên
phải cố gắng lắm mới có thể nhận thức được nguy cơ và tình cảnh khó khăn
của nhân dân Nga hồi bấy giờ. Vẫn những buổi lâm triều ấy, những cuộc
vũ hội ấy, đoàn kịch Pháp ấy, cũng vẫn những cuộc tranh chấp ấy, chạy
chọt, kèn cựa như trước ở cung đình và trong quan trường. Chỉ có trong
các giới cao cấp nhất người ta mới cố gắng nhớ tới sự khó khăn của tình
thế lúc bấy giờ. Người ta thì thầm rỉ tai nhau chuyện hai hoàng hậu
chống đối nhau trong những hoàn cảnh khó khăn như vậy. Hoàng hậu Maria
Feodorovna, luôn cố gắng đến các cơ quan từ thiện và giáo dục dưới quyền
chủ trì của người, đã thu xếp dời tất cả cơ quan này về Kazan, và bấy
giờ đồ đạc của các cơ quan đó đều đã được đóng gói sẵn sàng. Còn hoàng
hậu Elizaveta Alekxeyevna(2) thì khi có người hỏi người có truyền bảo gì
không, hoàng hậu đã trả lời với lòng ái quốc đặc biệt Nga của mình rằng
người không thể truyền bảo gì về cơ quan của nhà nước được vì đó là
việc của hoàng thượng; còn về phần riêng, thì người đã có lòng phán rằng
người sẽ là người cuối cùng rời khỏi Petersburg.
Ở nhà Anna Pavlovna, tối hôm mười sáu tháng tám, đúng vào ngày diễn ra
trận Borodino, có tổ chức một buổi tiếp tân. Tiết mục then chốt của tối
tiếp tân này là tuyên đọc bức thư của đức cha giám mục gửi kèm theo bức
tượng thánh Xergey gửi lên hoàng đế. Bấy giờ bức thư này được xem là mẫu
mực của thể văn hùng biện ái quốc của giới tăng lữ. Người đọc bức thư
sẽ là công tước Vaxili, người nổi tiếng về nghệ thuật đọc (chính ông ta
vẫn thường đọc trong cung hoàng hậu). Theo quan niệm thời bấy giờ thì
nghệ thuật đọc là ở chỗ đọc cho to, giọng ngân nga luôn chuyển từ tiếng
the thé sang tiếng thì thầm êm dịu, hoàn toàn không đếm xỉa gì đến ý
nghĩa của câu văn, cho nên từ này được đọc the thé lên, từ kia được đọc
thì thầm, đều hoàn toàn là chuyện tình cờ. Việc đọc này, cũng như tất cả
các buổi tiếp tân của Anna Pavlovna, đều có một ý nghĩa chính trị. Đến
dự tối tiếp tân sẽ có một số nhân vật quan trọng cần phải làm cho họ xấu
hổ vì họ thường hay lui tới kịch viện Pháp, và cần phải thức tỉnh tình
yêu nước trong lòng họ. Các tân khách đều đã khá đông, nhưng Anna
Pavlovna thấy trong phòng khách chưa đủ mặt những người cần có mặt nên
chưa cho họ đọc, mà chỉ cầm trịch cho tân khách nói chuyện chung chung.
Tin sốt dẻo nhất trong ngày hôm ấy là tin bá tước phu nhân Bezukhova
ốm. Cách đây mấy hôm, bá tước phu nhân bỗng lâm bệnh, bỏ mấy buổi dịp
trong đó lẽ ra phu nhân phải là vật trang hoàng, và nghe nói phu nhân
không tiếp ai cả, không mời các bác sĩ nổi tiếng ở Petersburg xưa nay
vẫn chữa cho phu nhân, mà lại phó mình cho một ông thầy thuốc người Ý
nào đó chữa theo một phương pháp gì đấy rất mới, rất lạ.
Mọi người đều biết rõ rằng vị bá tước phu nhân kiều diễm ấy lâm
bệnh là vì lâm vào tình cảnh éo le một lúc lấy hai chồng, và cách chữa
bệnh của ông thầy thuốc người Ý chính là làm thế nào khắc phục được cái
tinh cảnh éo le ấy, nhưng trước mặt Anna Pavlovna không những không ai
dám nghĩ đến điều đó, mà thậm chí người ta còn làm như không ai hay biết
tí gì về việc đó.
- Tội nghiệp, nghe nói bá tước phu nhân ốm nặng lắm. Ông thầy thuốc bảo đó là bệnh viêm ức.
- Viêm ức à? Ồ! Đó là một thứ bệnh rất đáng sợ.
- Nghe nói hai kẻ tình địch đã hoà giải nhờ cái bệnh viêm ức này.
Người ta nhắc đi nhắc lại hai chữ "viêm ức" một cách khoái trá.
- Nghe nói vị bá tước già tội nghiệp lắm thì phải. Ông ta đã khóc như
một đưa trẻ khi bác sĩ nói với ông ta rằng trường hợp này nguy hiểm .
- Ồ, phu nhân có mệnh hệ nào thì thật là một tổn thất kinh khủng. Phu nhân là một người đàn bà kiều diễm mê hồn.
- Các vị đang nói đến bá tước phu nhân đáng thương của chúng ta đấy ư? -
Anna Pavlovna lại gần nói. - Tôi đã cho người đi hỏi tin tức. Nghe nói
phu nhân đã đỡ được chút ít.
- Ồ chắc chắn nàng là người đàn bà đáng thương nhất đời - Anna Pavlovna
nói đoạn mỉm cười như để chế giễu thái độ bồng bột của mình, - Phu nhân
với tôi hai người thuộc hai phái khác nhau, nhưng điều đó không hề ngăn
trở tôi quý trọng phu nhân đúng như phu nhân xứng đáng được quý trọng.
Phu nhân thật là bất hạnh! - Anna Pavlovna nói thêm. Cho rằng Anna
Pavlovna nói câu này là đã hé mở bức màn bí mật phủ trên bệnh tình của
bá tước phu nhân, một chàng thanh niên thận trọng đã dám tỏ ý ngạc nhiên
không hiểu tại sao người ta lại không cho mời những người vị danh y mà
lại dùng một anh lang băm có thể cho phu nhân uống những liều thuốc nguy
hiểm.
Những tin tức mà ông thu lượm được có thể chính xác hơn của tôi. -
Anna Pavlovna bỗng dùng một giọng chua chát đáp lại chàng thanh niên
thiếu lịch lãm - Nhưng tôi được biết qua một nghồn tin chắc chắn rằng
ông thầy thuôc đó là một người rất uyên bác và tài giỏi. Đó là vị thầy
thuốc thân cận của hoàng hậu Tây ban nha. Và sau khi đã giáng lên chàng
thanh niên kia một đòn chí mạng như vậy, Anna Pavlovna quay về phía
Bilibin bấy giờ đang đứng ở một nhóm khác nói chuyện về người Áo, da
trán co lại, hẳn là đang chuẩn bị cho nó dãn ra để buông một câl dí dỏm.
- Tôi cho là rất thú vị! - Bilibin nói về sự kiện ngoại giao gửi về Viên
kèm theo mấy lá cờ áo do Vitghenstain, vị anh hùng thành Petropol chiếm
được. (ở Petersburg thường gọi Vitghenstain như vậy)
- Sao, thế nào? - Anna Pavlovna hỏi Bilibin, có ý để mọi người im lặng
nghe cái câu dí dỏm Bilibin sắp nói ra (câu này bà ta đã biết trước), và
Bilibin nhắc lại nguyên văn câu sau đây trong bức thông điệp ngoại giao
mà chính ông ta đã viết ra: - Hoàng đế gửi lại mấy lá cờ áo, - Bilibin
nói, - Đây là những lá cờ của nước bạn đã thất lạc mà ngài đã tìm thấy
ngoài lề đường! - Bilibin vừa nói vừa cho lớp da trên trán dãn ra.
- Thú tuyệt, thú tuyệt! - công tước Vaxili nói.
- Có lẽ đó là con đường Varsava chăng? - công tước Ippolit bỗng nói rất
to và rất bất ngờ. Mọi người đều quay lại nhìn Ippolit không hiểu chàng
muốn ngụ ý gì. Công tước Ippolit cũng vui vẻ và ngạc nhiên đưa mắt nhìn
quanh.
Cũng như mọi người, chính chàng cũng không hiểu câu mình vừa nói ngụ
ý gì. Trong sự nghiệp ngoại giao của chàng, Ippolit đã có lần nhận thấy
rằng những câu nói ra một cách đột ngột như vậy nhiều khi lại đâm ra
rất dí dỏm, cho nên hễ có dịp là chàng cứ nói bất cứ một câu gì. Chưa
biết chừng thế mà hoá ra hay cũng nên, chàng nghĩ, - và dù không hay đi
nữa, thì rồi họ cũng tìm ra được cách hiểu. Quả nhiên, trong đám tân
khách vừa bắt đầu có một phút im lặng nặng nề, thì nhân vật thiếu lòng
ái quốc mà Anna Pavlovna đang chờ đợi và muốn cảm hoá đã bước vào phòng.
Anna Pavlovna mỉm cười đưa ngón tay lên doạ Ippolit, rồi cùng công tước
Vaxili ra bàn; đem lại cho ông ta hai cây nến và bản chép tay bức thư
giám mục, đoạn yêu cầu ông ta bắt đầu. Trong phòng lặng hẳn đi.
- Tâu bệ hạ chính nhân chí thánh - công tước Vaxili cất giọng nghiêm
trang đọc lớn, đoạn đưa mắt nhìn qua cử toạ một lượt như muốn hỏi xem có
ai phản đối gì không. Nhưng chẳng có ai nói gì cả Moskva, thủ đô đầu
tiên của chúng ta, thành Jexusalem mới, đang tiếp đón đấng Cơ đốc của nó
- ông ta nhấn mạnh hai chữ của nó - như người mẹ hiền đón những người
con hiếu thảo vào lòng và qua bóng đen vừa xuất hiện vẫn nhìn thấy trước
ánh vinh quang rực rỡ của triều đại Người, thành Moskva hân hoan cất
tiếng ca "Hoxanna, cầu Thượng đế ban phước cho người sắp đến!"(3) - Công
tước Vaxili đọc câu cuối cùng này với một giọng như sắp khóc.
Bilibin chăm chú quan sát mấy cái móng tay của mình, và có nhiều người có vẻ bối rối như tự không biết mình phạm lỗi gì?
Anna Pavlovna thì thầm nhắc trước câu sắp đến, như một bà già xuýt xoa
khấn khứa bài kinh nhận mình thánh: "Cứ mặc cho tên Goliath hỗn xược và
trơ tráo"(4).
Công tước Vaxili đọc tiếp:
- Cứ mặc cho tên Goliath hỗn xược và trơ tráo kia từ biên cương nước
Pháp, đem đến tận biên thuỳ nước Nga những nỗi thê lương khủng khiếp và
đầy tử khí, cái đức tính khiêm tốn, cái ná của David Nga sẽ bất thần
đánh mạnh vào cái đầu kiêu hãnh khát máu của nó. Bức tượng thánh này của
đức thánh Xerghi, vị chiến sĩ nhiệt thành xưa kia đã từng bảo vệ hạnh
phúc của tổ quốc ta, thần xin dâng lên Sa hoàng bệ hạ. Thần lấy làm ân
hận rằng tuổi già sức yếu không cho phép mình có được diễm phúc đến
chiêm ngưỡng dung mạo tối anh minh của bệ hạ. Thần xin gửi lên đấng cao
xanh những lời cầu nguyện nhiệt thành, cầu đấng Vạn năng phù hộ cho dòng
dõi những người chính trực và thực hiện những ước nguyện của bệ hạ
được.
- Hùng tráng quá! Văn hay quá! - chung quanh có tiếng trầm trồ khen ngợi
người đọc và người viết thư. Được bài văn này cổ vũ, các tân khách của
Anna Pavlovna còn bàn tán hồi lâu về tình cảnh của tổ quốc và đưa ra
nhiều ức thuyết khác nhau về kết quả trận đánh sắp diễn ra nay mai.
- Rồi các vị sẽ xem2 - Anna Pavlovna nói, - Ngày mai, ngày sinh nhật của
hoàng thượng, ta sẽ nhận được những tin mới. Linh tính tôi báo trước là
tin rất lành.

Chú thích:
(1) Tức hoàng hậu Maria Feodorovna vợ Pavel và đương kim hoàng hậu Elizaveta Alekxeyevna, vợ Alekcxandr đệ nhất
(2) Hoàng hậu Elizaveta Alekxeyvna là công chúa xứ Baden (Đức) nhưng sau
khi lấy chồng thì lại biểu dương một lòng ái quốc "đặc biệt Nga"
(3) Lời hoan hô chào đón Jesus Cơ dốc (Phúc âm).
(4) Goliath là người khổng lồ của quân Philixtin bị David, người chăn cừu xứ Israel giết chết (Cựu ước)
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 EmptyWed Jan 05, 2011 9:42 pm

Chương 2-3


Ở Petersburg,
trong các giới cao cấp diễn ra một cuộc đấu tranh gay gắt hơn bao giờ
hết giữa các đảng phái của Rumiantev, của các quan lại Pháp, của Maria
Feodorovna(1), của thái tử của mấy người khác nữa. Cũng như xưa nay vẫn
thế, cuộc tranh chấp này diễn ra trong tiếng vo ve của bầy ong đực trong
triều đình.
Nhưng cuộc sống Petersburg yên tĩnh, xa hoa, chỉ bận tâm lo đến những
ảo ảnh, những phản ánh của cuộc đời, vẫn tiếp tục theo nếp cũ cho nên
phải cố gắng lắm mới có thể nhận thức được nguy cơ và tình cảnh khó khăn
của nhân dân Nga hồi bấy giờ. Vẫn những buổi lâm triều ấy, những cuộc
vũ hội ấy, đoàn kịch Pháp ấy, cũng vẫn những cuộc tranh chấp ấy, chạy
chọt, kèn cựa như trước ở cung đình và trong quan trường. Chỉ có trong
các giới cao cấp nhất người ta mới cố gắng nhớ tới sự khó khăn của tình
thế lúc bấy giờ. Người ta thì thầm rỉ tai nhau chuyện hai hoàng hậu
chống đối nhau trong những hoàn cảnh khó khăn như vậy. Hoàng hậu Maria
Feodorovna, luôn cố gắng đến các cơ quan từ thiện và giáo dục dưới quyền
chủ trì của người, đã thu xếp dời tất cả cơ quan này về Kazan, và bấy
giờ đồ đạc của các cơ quan đó đều đã được đóng gói sẵn sàng. Còn hoàng
hậu Elizaveta Alekxeyevna(2) thì khi có người hỏi người có truyền bảo gì
không, hoàng hậu đã trả lời với lòng ái quốc đặc biệt Nga của mình rằng
người không thể truyền bảo gì về cơ quan của nhà nước được vì đó là
việc của hoàng thượng; còn về phần riêng, thì người đã có lòng phán rằng
người sẽ là người cuối cùng rời khỏi Petersburg.
Ở nhà Anna Pavlovna, tối hôm mười sáu tháng tám, đúng vào ngày diễn ra
trận Borodino, có tổ chức một buổi tiếp tân. Tiết mục then chốt của tối
tiếp tân này là tuyên đọc bức thư của đức cha giám mục gửi kèm theo bức
tượng thánh Xergey gửi lên hoàng đế. Bấy giờ bức thư này được xem là mẫu
mực của thể văn hùng biện ái quốc của giới tăng lữ. Người đọc bức thư
sẽ là công tước Vaxili, người nổi tiếng về nghệ thuật đọc (chính ông ta
vẫn thường đọc trong cung hoàng hậu). Theo quan niệm thời bấy giờ thì
nghệ thuật đọc là ở chỗ đọc cho to, giọng ngân nga luôn chuyển từ tiếng
the thé sang tiếng thì thầm êm dịu, hoàn toàn không đếm xỉa gì đến ý
nghĩa của câu văn, cho nên từ này được đọc the thé lên, từ kia được đọc
thì thầm, đều hoàn toàn là chuyện tình cờ. Việc đọc này, cũng như tất cả
các buổi tiếp tân của Anna Pavlovna, đều có một ý nghĩa chính trị. Đến
dự tối tiếp tân sẽ có một số nhân vật quan trọng cần phải làm cho họ xấu
hổ vì họ thường hay lui tới kịch viện Pháp, và cần phải thức tỉnh tình
yêu nước trong lòng họ. Các tân khách đều đã khá đông, nhưng Anna
Pavlovna thấy trong phòng khách chưa đủ mặt những người cần có mặt nên
chưa cho họ đọc, mà chỉ cầm trịch cho tân khách nói chuyện chung chung.
Tin sốt dẻo nhất trong ngày hôm ấy là tin bá tước phu nhân Bezukhova
ốm. Cách đây mấy hôm, bá tước phu nhân bỗng lâm bệnh, bỏ mấy buổi dịp
trong đó lẽ ra phu nhân phải là vật trang hoàng, và nghe nói phu nhân
không tiếp ai cả, không mời các bác sĩ nổi tiếng ở Petersburg xưa nay
vẫn chữa cho phu nhân, mà lại phó mình cho một ông thầy thuốc người Ý
nào đó chữa theo một phương pháp gì đấy rất mới, rất lạ.
Mọi người đều biết rõ rằng vị bá tước phu nhân kiều diễm ấy lâm
bệnh là vì lâm vào tình cảnh éo le một lúc lấy hai chồng, và cách chữa
bệnh của ông thầy thuốc người Ý chính là làm thế nào khắc phục được cái
tinh cảnh éo le ấy, nhưng trước mặt Anna Pavlovna không những không ai
dám nghĩ đến điều đó, mà thậm chí người ta còn làm như không ai hay biết
tí gì về việc đó.
- Tội nghiệp, nghe nói bá tước phu nhân ốm nặng lắm. Ông thầy thuốc bảo đó là bệnh viêm ức.
- Viêm ức à? Ồ! Đó là một thứ bệnh rất đáng sợ.
- Nghe nói hai kẻ tình địch đã hoà giải nhờ cái bệnh viêm ức này.
Người ta nhắc đi nhắc lại hai chữ "viêm ức" một cách khoái trá.
- Nghe nói vị bá tước già tội nghiệp lắm thì phải. Ông ta đã khóc như
một đưa trẻ khi bác sĩ nói với ông ta rằng trường hợp này nguy hiểm .
- Ồ, phu nhân có mệnh hệ nào thì thật là một tổn thất kinh khủng. Phu nhân là một người đàn bà kiều diễm mê hồn.
- Các vị đang nói đến bá tước phu nhân đáng thương của chúng ta đấy ư? -
Anna Pavlovna lại gần nói. - Tôi đã cho người đi hỏi tin tức. Nghe nói
phu nhân đã đỡ được chút ít.
- Ồ chắc chắn nàng là người đàn bà đáng thương nhất đời - Anna Pavlovna
nói đoạn mỉm cười như để chế giễu thái độ bồng bột của mình, - Phu nhân
với tôi hai người thuộc hai phái khác nhau, nhưng điều đó không hề ngăn
trở tôi quý trọng phu nhân đúng như phu nhân xứng đáng được quý trọng.
Phu nhân thật là bất hạnh! - Anna Pavlovna nói thêm. Cho rằng Anna
Pavlovna nói câu này là đã hé mở bức màn bí mật phủ trên bệnh tình của
bá tước phu nhân, một chàng thanh niên thận trọng đã dám tỏ ý ngạc nhiên
không hiểu tại sao người ta lại không cho mời những người vị danh y mà
lại dùng một anh lang băm có thể cho phu nhân uống những liều thuốc nguy
hiểm.
Những tin tức mà ông thu lượm được có thể chính xác hơn của tôi. -
Anna Pavlovna bỗng dùng một giọng chua chát đáp lại chàng thanh niên
thiếu lịch lãm - Nhưng tôi được biết qua một nghồn tin chắc chắn rằng
ông thầy thuôc đó là một người rất uyên bác và tài giỏi. Đó là vị thầy
thuốc thân cận của hoàng hậu Tây ban nha. Và sau khi đã giáng lên chàng
thanh niên kia một đòn chí mạng như vậy, Anna Pavlovna quay về phía
Bilibin bấy giờ đang đứng ở một nhóm khác nói chuyện về người Áo, da
trán co lại, hẳn là đang chuẩn bị cho nó dãn ra để buông một câl dí dỏm.
- Tôi cho là rất thú vị! - Bilibin nói về sự kiện ngoại giao gửi về Viên
kèm theo mấy lá cờ áo do Vitghenstain, vị anh hùng thành Petropol chiếm
được. (ở Petersburg thường gọi Vitghenstain như vậy)
- Sao, thế nào? - Anna Pavlovna hỏi Bilibin, có ý để mọi người im lặng
nghe cái câu dí dỏm Bilibin sắp nói ra (câu này bà ta đã biết trước), và
Bilibin nhắc lại nguyên văn câu sau đây trong bức thông điệp ngoại giao
mà chính ông ta đã viết ra: - Hoàng đế gửi lại mấy lá cờ áo, - Bilibin
nói, - Đây là những lá cờ của nước bạn đã thất lạc mà ngài đã tìm thấy
ngoài lề đường! - Bilibin vừa nói vừa cho lớp da trên trán dãn ra.
- Thú tuyệt, thú tuyệt! - công tước Vaxili nói.
- Có lẽ đó là con đường Varsava chăng? - công tước Ippolit bỗng nói rất
to và rất bất ngờ. Mọi người đều quay lại nhìn Ippolit không hiểu chàng
muốn ngụ ý gì. Công tước Ippolit cũng vui vẻ và ngạc nhiên đưa mắt nhìn
quanh.
Cũng như mọi người, chính chàng cũng không hiểu câu mình vừa nói ngụ
ý gì. Trong sự nghiệp ngoại giao của chàng, Ippolit đã có lần nhận thấy
rằng những câu nói ra một cách đột ngột như vậy nhiều khi lại đâm ra
rất dí dỏm, cho nên hễ có dịp là chàng cứ nói bất cứ một câu gì. Chưa
biết chừng thế mà hoá ra hay cũng nên, chàng nghĩ, - và dù không hay đi
nữa, thì rồi họ cũng tìm ra được cách hiểu. Quả nhiên, trong đám tân
khách vừa bắt đầu có một phút im lặng nặng nề, thì nhân vật thiếu lòng
ái quốc mà Anna Pavlovna đang chờ đợi và muốn cảm hoá đã bước vào phòng.
Anna Pavlovna mỉm cười đưa ngón tay lên doạ Ippolit, rồi cùng công tước
Vaxili ra bàn; đem lại cho ông ta hai cây nến và bản chép tay bức thư
giám mục, đoạn yêu cầu ông ta bắt đầu. Trong phòng lặng hẳn đi.
- Tâu bệ hạ chính nhân chí thánh - công tước Vaxili cất giọng nghiêm
trang đọc lớn, đoạn đưa mắt nhìn qua cử toạ một lượt như muốn hỏi xem có
ai phản đối gì không. Nhưng chẳng có ai nói gì cả Moskva, thủ đô đầu
tiên của chúng ta, thành Jexusalem mới, đang tiếp đón đấng Cơ đốc của nó
- ông ta nhấn mạnh hai chữ của nó - như người mẹ hiền đón những người
con hiếu thảo vào lòng và qua bóng đen vừa xuất hiện vẫn nhìn thấy trước
ánh vinh quang rực rỡ của triều đại Người, thành Moskva hân hoan cất
tiếng ca "Hoxanna, cầu Thượng đế ban phước cho người sắp đến!"(3) - Công
tước Vaxili đọc câu cuối cùng này với một giọng như sắp khóc.
Bilibin chăm chú quan sát mấy cái móng tay của mình, và có nhiều người có vẻ bối rối như tự không biết mình phạm lỗi gì?
Anna Pavlovna thì thầm nhắc trước câu sắp đến, như một bà già xuýt xoa
khấn khứa bài kinh nhận mình thánh: "Cứ mặc cho tên Goliath hỗn xược và
trơ tráo"(4).
Công tước Vaxili đọc tiếp:
- Cứ mặc cho tên Goliath hỗn xược và trơ tráo kia từ biên cương nước
Pháp, đem đến tận biên thuỳ nước Nga những nỗi thê lương khủng khiếp và
đầy tử khí, cái đức tính khiêm tốn, cái ná của David Nga sẽ bất thần
đánh mạnh vào cái đầu kiêu hãnh khát máu của nó. Bức tượng thánh này của
đức thánh Xerghi, vị chiến sĩ nhiệt thành xưa kia đã từng bảo vệ hạnh
phúc của tổ quốc ta, thần xin dâng lên Sa hoàng bệ hạ. Thần lấy làm ân
hận rằng tuổi già sức yếu không cho phép mình có được diễm phúc đến
chiêm ngưỡng dung mạo tối anh minh của bệ hạ. Thần xin gửi lên đấng cao
xanh những lời cầu nguyện nhiệt thành, cầu đấng Vạn năng phù hộ cho dòng
dõi những người chính trực và thực hiện những ước nguyện của bệ hạ
được.
- Hùng tráng quá! Văn hay quá! - chung quanh có tiếng trầm trồ khen ngợi
người đọc và người viết thư. Được bài văn này cổ vũ, các tân khách của
Anna Pavlovna còn bàn tán hồi lâu về tình cảnh của tổ quốc và đưa ra
nhiều ức thuyết khác nhau về kết quả trận đánh sắp diễn ra nay mai.
- Rồi các vị sẽ xem2 - Anna Pavlovna nói, - Ngày mai, ngày sinh nhật của
hoàng thượng, ta sẽ nhận được những tin mới. Linh tính tôi báo trước là
tin rất lành.

Chú thích:
(1) Tức hoàng hậu Maria Feodorovna vợ Pavel và đương kim hoàng hậu Elizaveta Alekxeyevna, vợ Alekcxandr đệ nhất
(2) Hoàng hậu Elizaveta Alekxeyvna là công chúa xứ Baden (Đức) nhưng sau
khi lấy chồng thì lại biểu dương một lòng ái quốc "đặc biệt Nga"
(3) Lời hoan hô chào đón Jesus Cơ dốc (Phúc âm).
(4) Goliath là người khổng lồ của quân Philixtin bị David, người chăn cừu xứ Israel giết chết (Cựu ước)
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 EmptyWed Jan 05, 2011 9:42 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XII

Chương -4 - 5 -


Trong khi nước Nga đã bị chiếm mất một nửa, dân cư Moskva đã đi lánh
nạn về những tỉnh xa, và các đoàn dân binh lần lượt đứng lên bảo vệ tổ
quốc, thì chúng ta, những người không sống vào thời kỳ bấy giờ, không
khỏi hình dung rằng tất cả những người Nga, từ bé đến lớn, đều chỉ một
lòng muốn hy sinh thân mình, cứu nguy cho tổ quốc hay khóc thương trước
hoạ diệt vong của đất nước.
Những truyện ký, những bài văn miêu tả thời đấy giờ đều nhất thiết
nói đến sự hy sinh quên mình, đến tình yêu tổ quốc, đến sự tuyệt vọng,
nỗi đau buồn và lòng dũng cảm của người Nga, song thực tế không phải như
vậy. Chẳng qua ta chỉ có cảm tưởng như vậy thôi, bởi vì khi nhìn về quá
khứ ta chỉ thấy cái lợi ích chung về lịch sử của thời đại, ta không
thấy được tất cả những quyền lợi cá nhân, có tính chất người, của những
người thời bấy giờ. Thế nhưng trong thực tế thì những quyền lợi cá nhân
ấy quan trọng hơn những lợi ích chung, đến nỗi thường lấn át và thậm chí
còn che lấp hẳn những lợi ích chung nữa là khác. Phần đông những người
thời ấy đều không hề chú ý đến quá trình diễn biến đại thể của sự việc,
mà chỉ hành động theo những quyền lợi và những suy tính thiết thân đối
với cá nhân họ trong hiện tại. Và chính những người đó là những con
người hữu ích nhất của thời đại bấy giờ.
Còn những người cố hiểu quá trình diễn biến chung của tình hình và
muốn tham gia vào đấy một cách anh dũng và hy sinh cái gì họ cũng hiểu
sai lệch đi, và tất cả những việc đó để đem lại lợi ích cho tổ quốc đều
chỉ là những trò nhảm nhí vô bổ, như các trung đoàn dân binh của Piotr,
của Mamonov, chỉ giỏi đi cướp phá các làng mạc Nga, hay như những mớ vải
xô để buộc vết thương của các tiểu thư làm, chẳng bao giờ đến tay
thương binh, v.v… ngay cả những người thích lý sự và bày tỏ tình cảm của
mình, trong khi bàn bạc về tình hình hiện nay tại các nước Nga, bất
giác cũng có những lời lẽ vờ vĩnh và dối trá, hoặc những lời phê phán
hằn học vô bổ dối với những người khác, gán cho họ những tội mà không ai
có thể là thủ phạm. Qua các biến cố lịch sử có thể thấy rõ hơn cả tại
sao lại có lệnh cấm quả cây trí thức(1). Chỉ có một hoạt động bất tự
giác mới có thể mang lại kết quả, và con người đóng một vai trò nào đó
trong một biến cố lịch sử không bao giờ hiểu ý nghĩa của biến cố đó. Nếu
con người đó cố tìm cách hiểu thì hoạt động của hắn sẽ không đem lại
kết quả gì hết.
Về các biến cố đang diễn ra lúc bấy giờ ở Nga thì con người càng tham
gia tnrc tiếp vào đấy càng khó thấy rõ ý nghĩa của nó. Ở Petersburg và ở
các nơi tỉnh xa Moskva, các phu nhân và các ông lớn mặc quân phục dân
binh thương khóc nước Nga, thương khóc thủ đô và luôn luôn nói đèn sự hy
sinh quên mình v.v… nhưng trong quân đội bấy giờ vừa rút về phía nam
Moskva người ta hầu như không nói gì và không nghĩ gì đến Moskva cả, và
khi nhìn ánh lửa cháy nhà, không ai thề thốt trả thù quân Pháp, người ta
chỉ nghĩ đến số tiền lương sắp được lĩnh quý sau, đến địa điểm trú ngụ
sắp tới, cô bán hàng rong Matrioska v.v.
Nikolai Roxtov, chẳng vì mục đích hy sinh quên mình nào cả, mà
chỉ vì tình cờ chiến tranh xảy ra trong khi chàng đang tại ngũ, đã trực
tiếp tham gia vào việc bảo vệ tổ quốc trong một thời gian dài, và vì
vậy, đã nhìn nhận những sự việc diễn ra ở đất Nga thời bấy giờ một cách
bình tĩnh, không tuyệt vọng, không có những suy diễn bi quan. Giá có ai
hỏi chàng nghĩ gì về tình hình hiện nay của nước Nga thì chàng sẽ nói
rằng mình chẳng việc gì phải nghĩ đến cả đã có Kutuzov và nhiều người
khác làm việc đó; còn các trung đoàn, chắc là sẽ còn đánh nhau lâu, và
trong tình hình hiện nay rất có thể chỉ vài năm nữa chàng sẽ được nhận
chỉ huy một trung đoàn.
Vì chàng nhìn nhận sự việc như vậy, nên khi được tin phải đi
Voronez làm công tác bổ sung số ngựa cho trung đoàn, không những chàng
không thấy buồn bực vì không được tham gia vào cuộc chiến đấu quyết
liệt, mà chàng lấy làm thích thú vô cùng, điều đó chàng cũng không giấu
giếm, và các bạn đồng ngũ của chàng hiểu rõ tâm trạng này.
Trước trận Borodino ít hôm, Nikolai nhận được tiền bạc, giấy tờ và
sau khi phái một người lính kỵ binh đi trước chàng lên xe trạm đi
Voronez.
Chỉ có người nào đã từng trải qua cảnh ngộ đó, nghĩa là sống mấy
tháng liền trong bầu không khí nhà binh, trong sinh hoạt chiến đấu mới
có thể hiểu được cái khoái cảm mà Nikolai thể nghiệm khi chàng ra khỏi
khu vực quân đội thường lui tới để lấy cỏ cho ngựa, kiếm lương thực và
lập bệnh xá, khị chàng trông thấy những làng mạc không có lính, không có
xe tải nhà binh, không có những dấu vết bẩn thỉu của một doanh trại
đóng gần đâu đấy, những làng mạc với những bác mu-gich, những cô gái
quê, những toà nhà của trang chủ, những cánh đồng lác đác những súc vật
đang ăn cỏ, những ngôi trạm với những bác coi trạm đang ngủ gật, chàng
thấy lòng phơi phới tưởng như lần đầu tiên được trông thấy những thứ
này.
Và đặc biệt, điều làm cho chàng ngạc nhiên và vui mừng mãi là được
gặp những người đàn bà, trẻ trung, khoẻ mạnh, và mỗi người như vậy lại
không bị hàng chục sĩ quan đi theo ve vãn, và đều lấy làm mừng và hãnh
diện khi thấy người sĩ quan qua đường đùa cợt với họ.
Trong một tâm trạng cao hứng tột độ Nikolai đến Voronez vào ban đêm,
chàng tới khách sạn gọi tất cả những món ăn mà trong quân đội đã lâu
chàng phải nhịn, và hôm sau, râu cạo nhẵn thín, mình mặc một bộ đại quân
phục duyệt binh đã từ lâu không mặc tới chàng đến trình diện các cấp
chỉ huy sở tại.
Viên thủ trưởng dân binh là một viên quan văn đã già; ông ta có vẻ
thích thú với các chức vị và cấp bậc của mình lắm. Ông ta tiếp Nikolai
một cách cáu kỉnh (vì cho đó là tác phong nhà binh) và hỏi chuyện chàng
một cách quan trọng, vừa hỏi vừa bàn luận về tình hình của chiến sự, khi
thì tỏ ra ý tán thành, khi thì tỏ ý phàn nàn, làm như mình có quyền phê
phán những việc đó. Nikolai đang vui cho nên những điều đó chàng chỉ
thấy ngộ nghĩnh mà thôi.
Sau khi gặp viên thủ trưởng dân binh, chàng đến tìm viên tổng đốc.
Viên tổng đốc là một người nhỏ nhắn, linh lợi, rất niềm nở và xuề xoà.
Ông ta thích cho Nikolai biết những trại có thể đến tìm ngựa, giới thiệu
cho chàng một anh lái ngựa trong thành phố và một trang chủ ở cách thị
xã hai mươi dặm, có những con ngựa tốt nhất vùng, và hứa sẽ hết sức giúp
đỡ chàng.
- Ông là con trai bá tước Ilya Andreyevich phải không? Ngày trước nhà
tôi chơi thân với bà cụ thân sinh ông lắm đấy. Thứ năm nào nhà tôi cũng
tiếp khách; hôm nay là thứ năm, mời ông cứ đến chơi tự nhiên nhé, - viên
tổng đốc nói khi chàng cáo từ ra về.
Ở nhà viên tổng đốc ra, Nikolai thuê ngay một cỗ xe trạm vào cùng
viên tào trưởng đến trại người trang chủ cách thị xã hai mươi dặm. Trong
thời gian mới đến Voronez, Nikolai thấy việc gì cũng dễ dàng và vui vẻ,
và khi người ta đang ở trong một tậm trạng như vậy thì làm việc gì cũng
hường có kết quả mỹ mãn.
Người trang chủ mà Nikolai đến gặp là một viên sĩ quan kỵ binh già
sống độc thân, một tay chơi ngựa rất sành, thích săn bắn. Ông ta có một
hầm rượu hồ tiêu để lâu hàng trăm năm, có rượu vang Hungary và những con
ngựa rất hay.
Hai bên chỉ trao đổi qua vài câu là Nikolai đã bằng lòng mua ngay
mười bảy con ngựa đực ưu tú (như chàng nói) với giá sáu nghìn rúp, để
cung cấp cho đơn vị. Sau khi ăn bữa chiều và uống khá nhiều rượu Hung,
Roxtov ôm hôn ông chủ nhà (hai người đã gọi nhau bằng "cậu") rồi lên
đường về thị xã, trong lòng cao hứng đến tột độ, luôn mồm thúc giục
người xà ích cho ngựa phi thật nhanh để kịp về dự tối tiếp tân ở nhà
quan tổng đốc.
Sau khi thay quần áo, xức nước hoa và gội đầu bằng nước lạnh,
Nikolai đến nhà quan tổng đốc. Chàng đến hơi muộn, nhưng đã sắp sẵn một
câu "Thà muộn còn hơn không" để tự bào chữa.
Đây không phải là một vũ hội, và chẳng có ai nói rằng tối hôm nay sẽ có
khiêu vũ; nhưng mọi người đều biết rằng Katerina Petrovna sẽ chơi những
bài Valse và những điệu nhảy Scotland trên đàn dương cầm, và người ta sẽ
khiêu vũ, cho nên mọi người đều phục sức như khi đi dự hội.
Cuộc sống ở tỉnh nhỏ vào năm một ngàn tám trăm mười hai cũng giống
như mọi năm khác, chỉ khác một điều là không khí trong thị xã nhộn nhịp
hơn vì có nhiều gia đình giàu có ở Moskva mới về, và cũng như trong tất
cả nước việc diễn ra ở nước Nga lúc bấy giờ, có thể nhận thấy một cái gì
vô tư lự, phóng túng đặc biệt, và ngoài ra, những câu chuyện gẫu rất
cần trong khi giao thiệp và trước kia vẫn nói về thời tiết và những
người quen chung, thì nay lại nói về Moskva, về quân đội và Napoléon.
Đám tân khách tụ tập ở nhà viên tổng đốc là những người thượng lưu
vào bậc nhất ở Voronez. Số phụ nữ rất nhiều, trong đó có mấy người quen
cũ của Nikolai ở Moskva, nhưng trong đám nam giới thì không ai có thể
kình địch phần nào với chàng sĩ quan phiêu kỵ đeo huân chương Georges,
đồng thời lại là bá tước Roxtov, hồn nhiên và phong nhã.
Trong số tân khách nam giới có một người tù binh Ý - vốn là sĩ
quan của quân đội Pháp, và Nikolai cảm thấy sự có mặt của người tù binh
này lại càng đề cao phẩm giá một trang anh hùng Nga như chàng. Người đó
dường như là một chiến lợi phẩm. Nikolai thấy như vậy, và chàng có cảm
tưởng mọi người cũng nhìn người Ý ấy với quan niệm như vậy, cho nên đối
với hắn chàng tỏ ra hoà nhã một cách nghiêm trang và dè đặt.
Khi Nikolai vừa bước vào, mình mặc quân phục phiêu kỵ, sực nức mùi
nước hoa và rượu vang, mấy lần nói lại và được nghe lại câu "Thà muộn
còn hơn không", thì mọi người đều vây lấy chàng; bao nhiêu con mắt đều
đổ dồn vào chàng, và chàng cảm thấy ngay rằng mình đã trở về với địa vị
của con người được mọi người quý mến, địa vị chính đáng của chàng ở tỉnh
nhỏ, địa vị mà xưa nay chàng vẫn thích, nhưng bây giờ, sau một thời
gian dài sống thiếu thốn, lại càng khiến chàng say sưa ngây ngất. Không
những ở các trạm xe, ở các quán trọ, ở phòng khách của người chủ bán
ngựa, các cô hầu gái đều lấy làm thích thú được chàng để ý đến, mà ngay ở
đây trong buổi tối dạ hội của viên tổng đốc, cũng có vô số những phu
nhân còn trẻ và những tiểu thư xinh đẹp (chàng có cảm tưởng như vậy)
đang nóng lòng chỉ mong sao Nikolai để ý đến họ. Các phu nhân và các
tiểu thư làm duyên làm dáng với chàng, và ngay từ đầu các ông già bà già
đã nghĩ ngay đến chuyện kiếm vợ cho cái anh chàng phiêu kỵ bảnh trai và
tinh nghịch này để cho anh ta trở nên chí thú. Trong số những người ấy
có cả bà tổng đốc: bà ta tiếp chàng như một người bà con gần, gọi chàng
là "Nikolai", là "cậu".
Katerina Petrovna quả nhiên bắt đầu chơi những điệu Valse và những điệu
vũ Scotland, và cuộc khiêu vũ khai mạc Nikolai nhảy rất cừ, và lại càng
làm cho đám tân khách tỉnh nhỏ này say mê hơn nữa. Thậm chí chàng còn
làm cho mọi người phải kinh ngạc vì cái phong cách phóng túng đặc biệt
của chàng trong khi khiêu vũ.
Chính Nikolai cũng hơi lấy làm lạ về cách khiêu vũ của mình tối hôm ấy.
Trước kia ở Moskva chàng không bao giờ nhảy quá phóng túng như thế và
thậm chí còn cho rằng lối nhảy quá phóng túng ấy là không đớng đắn, là
phong cách kéml, nhưng ở đây chàng thấy cần phải có một cái gì khác
thường để cho họ ngạc nhiên, một cái gì mà chắc họ phải tưởng là thông
thường ở hai thủ đô, nhơng vì ở tỉnh nhỏ nên họ chưa biết.
Suốt buổi tối hôm ấy Nikolai để ý hơn cả đến một thiếu phụ tóc vàng,
người đầy đặn, mắt màu thanh thiên, trông rất dễ thương. Đó là vợ của
một viên chức trong tỉnh. Với cái lòng tin tưởng ngây thơ của những
người trẻ tuổi đang cao hứng cho rằng vợ mình sinh ra để mua vui cho
mình, Roxtov cứ bám riết lấy người thiếu phụ và nói năng với người chồng
một cách thân mật như chỗ bạn bè hay thậm chí gần như một người đồng
loã: chàng làm như thể chàng và ông chồng ấy… Tuy không nói ra lời nào
nhưng cả hai đều biết rằng họ (tức là Nikolai và vợ ông ta) rất hợp ý
nhau. Song ông chồng hình như không đồng tình với những ý nghĩ đó, và có
vẻ hậm hực khi nói chuyện với Roxtov. Nhưng thái độ của Nikolai ngây
thơ, thật thà đến nỗi ông chồng cũng bất giác nhiễm cái tâm trạng vui vẻ
của chàng. Nhưng về cuối buổi dạ hội, mặt người vợ càng ửng đỏ và càng
hồ hởi, thì mặt người chồng lại càng đạo mạo và buồn rầu, tưởng chừng
như cả hai vợ chồng chỉ có chung một liều lượng vui vẻ nhất định cho nên
vợ càng vui lên thì chồng lại càng kém vui đi.

Chú thích:
(1) Theo truyền thuyết thánh kinh, khi hai con người đầu tiên là Adame
và Eva đang ở vườn Eden (thiên đường trần gian) thượng đế cấm họ ăn quả
tri thức. Chính vì vi phạm lệnh cấm này mà loài người bị thượng đế đày
đoạ (Cựu ước)

5.

Nikolai, một nụ cười bất tuyệt luôn nở trên môi, ngồi trên ghế
bành nghiêng mình sát người thiếu phụ tóc vàng và nói với nàng những lời
tán dương như trong thần thoại.
Hai chân bó sát trong ống quần đi ngựa luôn luôn đổi tư thế với
những động tác nhanh nhẹn thoải mái, khắp người sực nức mùi nước hoa,
Nikolai thích thú đưa mắt ngắm người bạn gái ngắm mình, ngắm hình dáng
đẹp đẽ của đôi chân mình bó sát trong đôi quần nẹp da. Chàng nói với
thiếu phụ tóc vàng ở chốn Voronez này chàng đang có ý muốn bắt cóc một
thiếu phụ.
- Người nào thế?
- Một mỹ nhân tuyệt thế, đẹp như một nữ thần. Mắt nàng (Nikolai nhìn vào
thiếu phụ) màu thanh thiên, môi nàng tựa san hô, nước da nàng trắng nõn
- Chàng nhìn lên vai nàng - dáng vóc của nàng chẳng khác Diana.
Ông chồng lại gần chàng và hầm hầm hỏi vợ đang nói chuyện gì.
- À ông Nikita Ivanyts, - Nikolai vừa nói vừa lễ phép đứng dậy.
Và dường như muốn cho Nikolai Ivanyts cũng tham dự vào những chuyện
đùa của mình, chàng bắt đầu kể cho ông ta rõ mình có ý định bắt cóc một
cô gái tóc vàng.
Người chồng mỉm cười khó chịu, người vợ mỉm cười rất vui vẻ.
Bà tổng đốc tốt bụng, vẻ như có ý quở trách, lại gần chàng.
Bà Anna Ingatieva muốn gặp cậu đấy, cậu Nikolai ạ, - Bà nói mấy chữ
Anna Ingatieva với một giọng đặc biệt khiến cho Nikolai hiểu ngay rằng
bà Anna Ingatieva là một mệnh phụ rất oai vệ - Ta đi đi Nikolai, cậu cho
phép tôi gọi cậu như thế chứ?
- Ồ thưa bác, được chứ! Ai thế ạ?
- Bà Anna Ingatieva Malvintxeva. Bà đã được nghe cô cháu gái nói chuyện về cậu: cậu đã cứu cô ta. Cậu đoán ra rồi chứ?
- Cháu cứu khối người ra chứ có phải riêng ai! - Nikolai nói.
- Cháu gái của phu nhân là công tước tiểu thư Bolkonxkaya. Tiểu thư hiện đang ở đây với bà dì. A ha, đỏ mặt kìa! Sao, hay là…
- Hoàn toàn không phải thế. Cháu xin bác…
- Thôi được, thôi được. Chà cái cậu này!
Tổng đốc phu nhân dẫn chàng đến trước một bà già cao lớn đẫy đà mũ
chịt đầu màu xanh nhạt, bấy giờ vừa đánh xong ván bài với nhân vật quan
trọng nhất thành phố. Đó là bà Malvintxeva, dì của công tước tiểu thư
Maria, một bà quả phụ giàu không có con, bao giờ cũng ở Voronez. Bà ta
đang chung tiền thua bạc khi Roxtov đến.
Bà ta nheo nheo cặp mắt một cách nghiêm khắc và oai vệ, nhìn chàng rồi tiếp tục càu nhàu với vị tướng vừa được bạc bà ta.
- Rất sung sướng được gặp cậu, - Bà chìa bàn tay ra nói. - Mời cậu đến chơi nhà tôi.
Sau khi nói dăm câu về công tước tiểu thư Maria và người cha quá
cố của nàng, mà hình như bà ta cũng chẳng ưa gì, và hỏi Nikolai xem có
biết tin gì về công tước Andrey mà hình như và ta cũng chẳng có cảm tình
gì cho lắm, bà già oai vệ nhắc lại lời mời Roxtov đến nhà chơi, đoạn
cho chàng cáo lui.
Nikolai hứa sẽ đến, rồi lại đỏ mặt khi cúi đầu chào bà Malvintxeva.
Khi nhắc đến công tước tiểu thư Maria, Roxtov có cái cảm giác e thẹn,
thậm chí sợ hãi nữa, mà chàng không sao hiểu được.
Sau khi cáo từ bà Malvintxeva, Roxtov định trở ra khiêu vũ nhưng bà
tổng đốc thấp bé đặt bàn tay múp míp của bà ta lên ống tay áo Nikolai
bảo rằng mình cần nói chuyện với chàng đoạn dẫn chàng vào phòng đi-văng.
Những người đang ngồi trong phòng lập tức đứng dậy ra ngoài để khỏi làm
phiền tổng đốc phu nhân.
- Anh bạn ạ, - tổng đốc nói, khuôn mặt nhỏ và hiền nghiêm trang hẳn lên -
đây chính là một đám rất tốt cho anh đấy; anh có muốn bác làm mối cho
không?
- Làm mối với ai ạ, thưa bác? - Nikolai hỏi.
- Với công tước tiểu thư ấy. Katerina Petrovna bảo là nên làm mối cô
Lily, nhưng bác thì không ưng, - công tước tiểu thư kia mới được. Anh có
thích không? Bác chắc mẹ anh sẽ cảm ơn bác thật nhiều đấy, tiểu thư
thật là một người con gái đáng yêu tuyệt trần! Và thật ra cũng không đến
nỗi xấu.
- Không xấu tí nào! - Nikolai nói như có ý giận, - Bác ạ, cháu là một
quân nhân, nên không bao giờ đỏi hỏi mà cũng chẳng từ khước điều gì, -
Roxtov nói mà chưa kịp nghĩ xem mình cần nói gì.
- Thế thì nhớ đấy: không phải chuyện đùa đâu nhé.
- Đùa thế nào được ạ.
- Phải, phải, - tổng đốc phu nhân nói như thể nói một mình. À nhân thể
nói với anh bạn điều này nhé. Anh theo cô kia riết quá đấy, cô tóc vàng
ấy Trông ông chồng đến thảm, thật đấy.
- Ồ không, ông ta với cháu rất quý nhau, - Nikolai thật thà nói, chàng
không hề thoáng có ý nghĩ rằng một cách tiêu khiển vui như thế mà lại có
thể làm cho một người nào phiền lòng.
Nhưng ta nói nhảm những gì với bà tổng đốc thế nhỉ! - Trong bữa ăn khuya
Nikolai bỗng sực nhớ lại. - Thế nào bà ta cũng đi làm mối. Thế còn
Sonya? Và đến lúc từ biệt bà tổng đốc, khi bà ta nói với chàng: "Thôi
anh nhớ đấy nhé", - thì chàng nói riêng với bà:
- Thế này bác ạ, cháu phải nói thật với bác là…
- Sao, chuyện gì thế anh bạn; ta lại đây ngồi.
Nikolai bỗng cảm thấy muốn và cần phải nói rõ tất cả những ý nghĩ thầm
kín của mình ra (những ý nghĩ mà giá với mẹ với em hay với bạn chàng,
chàng không cần nói) cho người đàn bà gần như không quen biết này rõ. Về
sau, một sự cởi mở vô cớ, khó hiểu, nhưng đã có những hậu quả rất quan
trọng đối với chàng, Nikolai (cũng như bất cứ ai trong những trường hợp
như vậy) có cảm tưởng đó chỉ là một hành động ngốc nghếch bất thường,
nhưng thật ra phút cởi mở đó, cùng với sự việc nhỏ nhặt khác, đã có
người hậu quả hết sức quan trọng đối với chàng và cả gia đình chàng.
- Thế này bác ạ. Đã từ lâu mẹ cháu muốn cưới cho cháu một cô vợ giàu,
nhưng nghĩ đến chuyện lấy vợ vì tiền, cháu thấy khó chịu quá.
- Ồ phải rồi; bác hiểu lắm, - bà tổng đốc nói.
Nhưng công tước tiểu thư Bolkonxkaya thì lại là việc khác; trước hết,
cháu xin nói thật với bác rằng cháu cũng thích cô ấy lắm, cô ấy rất hợp ý
cháu, với lại lần cháu gặp cô ta trong những hoàn cảnh kỳ lạ như vậy,
cháu thường có ý nghĩ rằng đây là số mệnh.
Bác thử nghĩ mà xem: mẹ cháu đã nghĩ về việc này từ lâu, không hiểu
vì sao. Và hồi ấy, khi em gái cháu còn là vị hôn thê của anh cô ta, dĩ
nhiên cháu không thể tình chuyện lấy cô ta được. Không biết số phận run
rủi thế nào mà cháu gặp cô ta đúng vào lúc việc hôn nhân của Natasa đã
tan vỡ, thế rồi tất cả những chuỵện kia. Phải, thế đấy bác ạ. Cháu chưa
hề nói và sẽ không nói gì về chuyện này. Cháu chỉ xin nói với bác thôi.
Bà tổng đốc xiết khuỷu tay chàng tỏ ý cảm ơn.
Bác có biết Sofia em họ cháu không? Cháu yêu cô ấy, cháu đã hứa lấy và
sẽ lấy cô ấy. Cho nên, bác thấy không, không thể nào nói đến chuyện này
được, - Nikolai đỏ mặt lên, nói ấp úng.
- Anh bạn ơi, anh bạn ơi! - Anh nói gì lạ vậy? Sofia không có gì cả, mà
chính anh đã nói rằng công việc nhà cửa của ba anh rất khó khăn kia mà.
Còn mẹ anh thì sao? Mẹ anh đến chết vì chuyện này mất, thế là một. Sau
nữa nếu Sofia là một người con gái có tình, thì đời cô ta sẽ ra sao? Mẹ
thì phiền muộn, cửa nhà thì khánh kiệt không, anh bạn ạ, anh với Sofia
phải hiểu điều đó chứ.
Nikolai lặng thinh. Chàng thấy dễ chịu khi nghe lời biện luận này.
- Sao, bác ạ, việc đó cũng không thể được, chàng thở dài nói sau một lát
im lặng, - mà liệu công tước tiểu thư có thuận lấy cháu không? Vả lại
hiện nay tiểu thư đang có tang. Làm sao có thể nghĩ đến chuyện ấy được?
- Chả nhẽ anh tưởng tôi định bắt anh cưới ngay bây giờ hay sao? Làm gì cũng phải có khoảng cách chứ? - bà tổng đốc nói.
- Bác thật là một bà mối giỏi, bác ạ… - Nikolai vừa nói vừa hôn tay mũm mĩm của bà.
hết: Chương -4 - 5 -, xem tiếp: Chương -6 -7 -
Đánh máy: Nguyễn Học ( Mõ Hà Nội )
Nguồn: Nhà xuất bản PHỤ NỮ 2006
Dịch giả: Cao Xuân Hạo, Nhữ Thanh, Hoàng Thiếu Sơn, Thường Xuyên
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 EmptyWed Jan 05, 2011 9:43 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XII

Chương -6 -7 -


Đến Moskva sau lần gặp Roxtov, công tước tiểu thư Maria gặp đứa
cháu trai cùng với ông gia sư và bắt được bức thư của công tước Andrey
dặn nàng đến Voronez tìm dì Malvintxeva. Những nỗi lo âu về việc di
chuyển, về bệnh trạng của anh, những công việc xếp đặt cho cuộc sống ở
nhà mới, những nhân vật mới quen, việc dạy dỗ cho cháu - Tất cả những
cái đó đã lấn át cái cảm giác hầu như cám dỗ đã từng giày vò nàng trong
thời gian cha nàng lâm bệnh, sau khi cha nàng qua đời và nhất là sau
cuộc gặp gỡ với Roxtov. Nàng buồn lắm. Trong tâm hồn nàng, cái chết của
cha nàng thêm vào hoàn cảnh điêu vong của nước Nga gây nên một ấn tượng
đau đớn, ấn tượng đó càng ngày càng da diết thêm. Lòng nàng bồn chồn lo
lắng: nghĩ đến những nguy cơ đang đe doạ anh nàng, người thân duy nhất
còn lại, nàng không giây phút nào khỏi bứt rứt. Nàng luôn lo việc dạy dỗ
đứa cháu trai, một công việc mà nàng vẫn cảm thấy mình không đủ sức
làm; nhưng trong thâm tâm nàng đã có sự thoả thuận với bản thân khi nghĩ
rằng mình đã trấn áp được những mơ ước và hy vọng cá nhân đã chớm nở
khi Roxtov xuất hiện.
Sau buổi tiếp tân ở nhà mình một hôm, bà tổng đốc đến nhà bà
Malkintxeva và nói chuyện với bà dì về những dự định của mình (và có nói
thêm rằng tuy trong hoàn cảnh hiện nay chưa thể nghĩ đến việc mối mai
chính thức, nhưng vẫn có thể tìm cách cho hai trẻ gặp nhau và tìm hiểu
cho rõ), và sau khi được bà dì tán đồng, bà tổng đốc chọn lúc có cả tiểu
thư Maria ngồi đấy để khơi chuyện nói về Roxtov, khen ngợi chàng và kể
lại rằng chàng đã đỏ mặt khi nghe nhắc đến công tước tiểu thư. Nghe bà
ta nói, công tước tiểu thư Maria không thấy vui, mà lại có một cảm giác
đau xót. Sự thoả thuận nội tâm của nàng không còn nữa, và trong lòng
nàng lại dấy lên những nỗi ước mong, những mối nghi ngờ, những lời trách
móc và những niềm hy vọng.
Trong khoảng hai hôm kể từ khi nhận được tin này cho tới khi Roxtov
đến thăm, tiểu thư Maria không ngừng suy nghĩ không biết nên cư xử với
Roxtov ra sao. Khi thì nàng quyết định rằng lúc chàng đến gặp bà bác
mình sẽ không ra phòng khách, rằng trong khi có tang mà lại ra tiếp
khách là một điều thất nghi, khi thì nàng nghĩ rằng, dối với một người
đã cứu mình mà lại tránh mặt người ta là vô lễ; khi thì nàng lại nghĩ
rằng dì nàng và bà tổng đốc đang cố ý nhăm nhe gì cho nàng và Roxtov
(những cái nhìn và những lời lẽ của họ đôi khi hình như cũng xác nhận
điều phỏng đoán này); khi thì nàng tự nhủ rằng chỉ vì tâm địa nàng bất
chính nên mới gán cho họ những ý định đó: Họ không thể không nhớ rằng
trong tình cảnh của nàng, khi nàng hãy còn mặc áo đại tang - thì mai mối
như vậy là xúc phạm đến nàng và hương hồn cha nàng. Những lúc giả thiết
rằng mình sẽ ra gặp chàng, công tước tiểu thư Maria tưởng tượng những
lời chàng sẽ nói với nàng và những lời nàng sẽ nói với chàng; và khi thì
nàng thấy những lời đó quá lạnh nhạt, khi thì lại thấy những lời đó có
một ý nghĩ quá rõ rệt. Điều mà nàng sợ nhất là nàng biết chắc rằng hễ
trông thấy Roxtov là nàng sẽ luống cuống và để lộ những cảm nghĩ thầm
của mình.
Nhưng hôm chủ nhật ấy, sau buổi xem lễ, khi người nô bộc vào phòng
khách báo là có bá tước Roxtov đến, công tước tiểu thư không lộ vẻ gì
luống cuống; má nàng chỉ hơi ửng hồng và mắt nàng bừng lên một ánh sáng
mới mẻ, xán lạn.
- Dì đã gặp ông ấy chưa, thưa dì? - Công tước tiểu thư Maria nói, và
chính nàng cũng không biết làm sao bề ngoài mình lại có thể bình thản và
tự nhiên như vậy.
Khi Roxtov bước vào phòng, công tước tiểu thư cúi đầu một lát như
để cho khách có đủ thì giờ chào hỏi mọi bà dì, và sau đó, ngay khi
Roxtov quay sang phía nàng, nàng ngẩng đầu lên và đưa đôi mắt trong sáng
nhìn vào mắt chàng. Với một động tác chững chạc và uyển chuyển, nàng
đứng dậy mỉm cười vui vẻ, đưa bàn tay mảnh dẻ và mềm mại ra cho chàng và
trong giọng nói của nàng lần đầu tiên đã vang lên một âm điệu thâm trầm
của người đàn bà. Cô Burien bấy giờ cũng đang ở trong phòng khách, kinh
ngạc và ngỡ ngàng nhìn nữ công tước Maria. Tuy vốn là người lơ trai lọc
lõi, cô ta cũng không thể nào khéo léo hơn nàng khi muốn làm xiêu lòng
một người mới gặp.
"Không biết vì màu đen của tang phục hợp với nước da tiểu thư đến
thế, hay vì tiểu thư dạo này đẹp ra mà mình không để ý. Và cái chính là
dáng điệu của tiểu thư thật là tế nhị và yểu điệu!". - cô Burien
nghĩ.
Giả sử công tước tiểu thư Maria có đủ sức để suy nghĩ trong giây lát
này, thì nàng sẽ còn ngạc nhiên về sự thay đổi đang diễn ra trong người
nàng hơn cả cô Burien nữa. Từ cái phút nàng trông thấy khuôn mặt đáng
yêu mà nàng yêu dấu ấy, một thứ sinh lực mới đã trào vào người nàng và
buộc nàng phải nói, phải hành động vượt ra ngoài ý muốn của nàng. Từ khi
Roxtov bước vào, gương mặt nàng chợt thay đổi hẳn. Khi thắp ngọn nến
lên trong một chiếc đèn lồng, những nét chạm trổ tinh vi và trang hoàng
mỹ thuật trước kia tưởng chừng thô sơ, tối tăm và vô nghĩa bỗng hiện lên
lồng đèn với một vẻ đẹp lộng lẫy đến bất ngờ; gương mặt của công tước
tiểu thư Maria cũng biến đổi như vậy; lần đầu tiên cuộc sống nội tâm
thuần khiết của Maria từ trước đến nay bỗng lộ ra ngoài. Tất cả cái hoạt
động tinh thần trước đây làm cho nàng luôn bất mãn với bản thân, những
nỗi thơng khổ, ý muốn vươn lên cõi chí thiện, lòng thuận thảo, nhân ái.
quên mình - tất cả những cái đó sáng bừng lên trong đôi mắt long lanh,
trong nụ cười tế nhị, trong mỗi đường nét dịu dàng trên khuôn mặt nàng.
Roxtov trông thấy tất cả những điều đó một cách rõ ràng tưởng chừng
như chàng đã biết rõ tất cả cuộc đời nàng. Chàng cảm thấy con người
đang đứng trước mặt mình là một con người khác hẳn, tốt hơn nhiều so với
tất cả những người chàng đã từng gặp trước đây và nhất là hơn cả bản
thân chàng.
Câu chuyện giữa hai người hết sức đơn giản và bình thường. Họ nói
đến chiến tranh, và cũng bất giác phóng đại như mọi người khác nỗi buồn
của mình khi nghĩ đến biến cố này, họ nói đến cuộc gặp gỡ vừa rồi, và
Nikolai cố lái câu chuyện sang hướng khác; họ nói đến bà tổng đốc tốt
bụng, đến những người thân của Nikolai và công tước tiểu thư Maria. Công
tước tiểu thư Maria không nhắc đến anh. Dì nàng vừa nói đến công tước
Andrey thì nàng đã lái câu chuyện sang hướng khác.
Có thể thấy rõ rằng về cơn hoạn nạn của nước Nga thì nàng còn có thể
nói một cách vờ vĩnh được, chứ anh nàng là một đối tượng quá thân thiết
đối với nàng, cho nên nàng không muốn và không thể nói đến chàng một
cách hời hợt như vậy. Nikolai nhận thấy thế, và nói chung hôm ấy, trái
với thường lệ, chàng tự dưng có được một năng lực quan sát sắc sảo cho
phép chàng nhận thấy tất cả những sắc thái tinh vi trong nhân cách của
công tước tiểu thư Maria. Tất cả những sắc thái ấy đều chỉ làm cho chàng
tin chắc hơn nữa rằng nàng là một con người hoàn toàn đặc sắc và phi
thường. Cũng đúng như công tước tiểu thư Maria, Nikolai đỏ mặt và luống
cuống mỗi khi có ai nhắc đến nàng và ngay cả những khi nghĩ đến nàng
nữa, nhưng trước mặl nàng thì chàng cảm thấy mình hoàn toàn thoải mái và
nói năng khác hẳn những điều mà chàng đã chuẩn bị trước; chàng nói như
những điều chợt hiện lên trong trí chàng ngay lúc ấy và bao giờ cũng
hiện lên đúng lúc.
Trong một lát im lặng, Nikolai, cũng như người ta vẫn thường làm khi
đến chơi một nhà có trẻ con, quay sang đứa con trai nhỏ của công tước
Andrey cho đỡ lúng túng, vuốt ve và hỏi nó có muốn làm lính phiêu kỵ
không. Chàng bế đứa bé lên, vui vẻ quay nó mấy vòng và đưa mắt nhìn công
tước tiểu thư Maria. Đôi mắt nàng cảm động, sung sướng rụt rè nhìn theo
đứa cháu trai cưng của nàng trên tay người đàn ông mà nàng yêu dấu.
Nikolai nhận thấy cái nhìn này và dường như hiểu được ý nghĩ của nó,
chàng đỏ mặt lên vì thích thú và hôn đứa bé một cách vui vẻ hồn hậu.
Vì đang có tang, công tước tiểu thư Maria không đi đâu cả, và
Nikolai cũng thấy không nên lui tới nhà nàng; nhưng bà tổng đốc vẫn tlếp
tục công việc mai mối, bà truyền đạt lại cho Nikolai rõ những lời lẽ
của tiểu thư Maria khen ngợi chàng và ngược lại cũng nói với tiểu thư
Maria những điều chàng nói về nàng, rồi khẩn khoản khuyên Nikolai ngỏ ý
với công tước tiểu thư Maria. Để chàng có dịp ngỏ ý, bà dàn xếp một buổi
gặp mặt ở nhà Đức Tổng giám mục trước buổi xem lễ.
Tuy Roxtov có nói với bà tổng đốc rằng chàng sẽ không ngỏ lời với công tước tiểu thư Maria, nhưng chàng cũng hứa là sẽ đến.
Nếu dạo ở Tilzit, Roxtov không cho phép mình nghi ngờ tự hỏi những
điều mà mọi người đều thừa nhận là tốt có tốt thật không, thì bây giờ
cũng vậy, sau một cuộc giằng co ngắn ngủi, nhưng thành thực giữa ý muốn
thu xếp cuộc đời dúng như lý trí mình đòi hỏi và sự phục tùng hoàn cảnh,
chàng đã chọn cách sau này và phó thác cho cái sức mạnh mà không sao
cưỡng lại nổi mà chàng cảm thấy đang lôi cuốn chàng đến một nơi nào
không rõ. Chàng biết rằng đã giao ước với Sonya mà lại còn bày tỏ tình
cảm đối với tiểu thư Maria là làm một việc mà chàng vẫn gọi là ti tiện.
Và chàng cũng biết (không những chàng biết, mà tự trong thâm tâm chàng
cũng cảm thấy như vậy) rằng trong khi phó mình cho uy lực của hoàn cảnh
và của những người hướng dẫn chàng, không những chàng không làm việc gì
xấu xa, mà chàng lại còn làm một việc gì rất quan trọng, quan trọng hơn
hết thảy mọi việc mà chàng đã từng làm trong đời.

Sau buổi gặp mặt công tước tiểu thư Maria: tuy bề ngoài nếp sống
của chàng vẫn cứ như cũ, nhưng tất cả những thú vui trước kia của chàng
đều mất hết thú vị. Chàng hay nghĩ đến công tước tiểu thư Maria, nhưng
chàng không bao giờ nghĩ đến nàng như xưa nay chàng vẫn nghĩ đến tất cả
các tiểu thư mà chàng đã gặp trong xã hội thượng lưu, không từ một ai,
cũng không như chàng đã say sưa nghĩ đến Sonya trong một thời gian dài.
Cũng như hầu hết những người thanh niên trung thực, mỗi khi nghĩ đến một
vài người con gái nào chàng lại thử hình dung đó sẽ là vợ. Chàng và
phác ra trong tưởng tượng tất cả những cảnh sống gia đình về sau: chiếc
áo nội tấm trắng, người vợ ngồi bên ấm xamavar, lũ con nhỏ, mama và
papa, cảnh sống mẹ con v.v… và những hình ảnh tương lai ấy làm cho chàng
thích thú; nhưng khi chàng nghĩ đến công tước tiểu thư Maria, người mà
họ làm mối cho chàng, chàng không lúc nào có thể hình dung được một nét
gì trong cuộc sống vợ chồng sau này.
Dù chàng có cố hình dung chẳng nữa, thì cũng chỉ thấy được những hình
ảnh rời rạc và ngang trái, khiến chàng thấy sợ hãi nhiều hơn.

7.
Những tin tức khủng khiếp về trận Borodino, về những tổn thất,
thương vong của quân ta, và cái tin khủng khiếp hơn nữa là Moskva đã
thất thủ, được đưa đến Voronez vào trung tuần tháng chín. Công tước tiểu
thư Maria chỉ biết tin anh bị thương qua các báo, ngoài ra chẳng được
tin gì thêm nữa: nàng bèn sửa soạn lên đường đi tìm công tước Andrey.
Nikolai nghe người ta nói lại như vậy, vì mấy lâu nay chàng không được
gặp công tước tiểu thư. Được tin xảy ra trận Borodino và Moskva bị bỏ
ngỏ, chàng nóng lòng phục thù, nhưng bỗng thấy chán và bực mình về cảnh
sống ở Voronez, chàng cứ có một cảm giác ngượng nghịu và lúng túng thế
nào ấy. Tất cả những chuyện trò mà chàng nghe thấy đều có vẻ vờ lĩnh;
chàng không biết nên phán đoán như thế nào về tất cả những điều đó, và
cảm thấy chỉ có ở trung đoàn mọi việc mới trở lại rõ ràng minh bạch như
cũ. Chàng vội vã lo việc mua ngựa cho xong và thường hay cáu gắt người
đầy tớ và người tào trưởng của chàng một cách vô lý.
Trước ngày Roxtov ra đi mấy hôm, ở nhà thờ có làm lê cầu nguyện tạ ơn Chúa nhân dịp Nga thắng trận. Nikolai đến xem lễ.
Chàng đứng ở phía sau ông tổng đốc một quãng, tư thế đĩnh đạc như
đang làm một công vụ gì, tâm trí suy nghĩ lan man hết việc này đến việc
nọ đến hết buổi lễ. Khi buổi lễ kết thúc; bà tổng đốc gọi chàng lại.
- Anh đã gặp công tước tiểu thư chưa? - bà nói, đoạn hất đầu chỉ một người đàn bà mặc áo đen đưng sau lễ đàn.
Nikolai lập tức nhận ra tiểu thư Maria, không phải vì chàng đã
thoáng trông thấy những đường nét trông nghlêng của nàng dưới chiếc mũ,
mà vì có một cảm giác trân trọng, sợ hãi và ái ngại lập tức tràn ngập
lòng chàng. Công tước tiểu thư Maria, hẳn đang mái suy nghĩ miên man,
làm dấu thánh giá vài lần cuối cùng trước khi ra khỏi nhà thờ.
Nikolai ngạc nhiên nhìn mặt nàng. Đó vẫn là khuôn mặt mà chàng đã
tìm dạo trước, khuôn mặt ấy vẫn biểu hiện những đường nét tinh vi của
hoạt động nội tâm, nhưng bây giờ nó hiện ra dưới một ánh sáng khác hẳn.
Bây giờ trên khuôn mặt ấy có vẻ u buồn, cầu khẩn và hy vọng khiến người
ta phải động lòng. Cũng như trước kia mỗi khi có nàng, Nikolai không đợi
cho bà tổng đốc khuyên và cũng không tự hỏi xem ở đây, trong nhà thờ:
mà đến hỏi thăm nàng thì có nên không, có đúng lễ nghi không, chàng đến
bên nàng và nói rằng mình đã được nghe nàng có tin buồn và chàng chân
thành chia sẻ nỗi buồn của nàng. Nàng vừa nghe giọng nói của chàng, thì
một ánh sáng rực rỡ bỗng bừng lên gương mặt nàng, dọi sáng trong cùng
một lúc nỗi buồn và niềm vui của nàng.
- Tôi chỉ xin nói với công tước tiểu thư một điều, - Roxtov nói, là giả
sử công tước Andrey Nikolaievich không còn nữa, người ta đã công bố tin
này trên các báo, vì công tước là một vị chỉ huy trung đoàn.
Công tước tiểu thư nhìn chàng, không hiểu câu nói của chàng nhưng vui sướng vì vẻ ái ngại trên gương mặt chàng.
- Vả lại tôi có biết nhiều trường hợp bị thương vì mảnh đạn như vậy
(trên các báo có nói là bị thương vì tạc đạn): thường thường thì một là
người bị đạn chết ngay, hai là ngược lại vết thương rất nhẹ, - Nikolai
nói, - Phải hy vọng điều tốt lành, và tôi tin chắc rằng.
Công tước tiểu thư Maria ngắt lời chàng.
- Nhỡ ra có làm sao thì thật là khủng khiếp. - nàng mở đầu, nhưng rồi
xúc động quá không nói hết được. Nàng cúi đầu với một động tác duyên
dáng (như tất cả những gì nàng làm trước mặt chàng) và sau khi đưa mắt
đầy lòng biết ơn nhìn chàng, nàng đi theo bà dì. Tối hôm ấy Nikolai
không đi chơi đâu cả. Chàng ở nhà thanh toán cho xong những việc tiền
nong với mấy người bán ngựa.
Khi công việc đã quá giờ đi chơi nhưng vẫn chưa đến giờ đi ngủ, nên
Nikolai một mình đi đi lại lại hồi lâu trong phòng, suy nghĩ về đời
mình, một việc rất ít khi thấy chàng làm.
Hôm ở gần Smolensk, công tước tiểu thư đã gây nên trong lòng chàng
một ấn tượng dễ chịu. Chàng đã gặp nàng trong một hoàn cảnh khác
thường, và nàng lại chính là người mà mẹ chàng đã có thời chỉ cho chàng
đặc biệt chú ý đến nàng. Ở Voronez, hôm chàng đến thăm nàng, ấn tượng đó
không những dễ chịu mà còn mãnh mẽ nữa. Nikolai đã có một ấn tượng rất
mạnh trước vẻ đẹp đặc biệt, vẻ đẹp tinh thần mà lần này chàng mới nhận
thấy ở nàng. Nhưng chàng vẫn sửa soạn ra đi, và không hề có ý tiếc rằng
rời Voronez chàng sẽ không có dịp gặp lại công tước tiểu thư nữa.
Nhưng lần gặp tiểu thư Maria trong nhà thờ hôm nay (Nikolai cảm
thấy như vậy) đã khắc vào lòng chàng sâu hơn là trước kia chàng vẫn
tưởng, và sâu hơn là chàng muốn, vì nó đã có phương hại đến sự yên tĩnh
của tâm hồn chàng. Khuôn mặt xanh xao, tế nhị, u buồn ấy cái nhìn trong
sáng ấy, những động tác nhỏ nhẹ, uyển chuyển ấy và nhất là nỗi buồn sâu
sắc và dịu dàng lộ rõ trên các nét mặt của nàng, đã khuấy động lòng
chàng và đòi hỏi chàng phải chia sẻ những tình cảm của nàng. Ở những
người đàn ông thì Roxtov không sao chịu nổi những dấu hiệu của một cuộc
sống tinh thần cao cả (vì thế mà chàng không ưa công tước Andrey) chàng
khinh bỉ gọi đó là triết 1ý, là mơ mộng; nhưng ở công tước tiểu thư
Maria, chàng lại cảm thấy chính cái vẻ u buồn đó, một vẻ u buồn biểu lộ
tất cả cái thuần tuý của một thế giới tinh thần xa lạ dối với Nikolai,
có một sức hấp dẫn không sao cưỡng nổi.
"Thật là một thiếu nữ tuyệt vời; đúng là một vị thiên thần! -
Nikolai tự nhủ. - Vì đâu ta không được tự do, vì sao ta lại vội vã hứa
hẹn với Sonya?". Và chàng bất giác so sánh hai người: một đằng thì nghèo
nàn, một đằng thì lại phong phú về những thiên bẩm tinh thần mà Nikolai
không có và chính vì vậy mà chàng đánh giá rất cao. Chàng thử hình dung
sự việc sẽ ra sao nếu chàng không bị ràng buộc. Chàng sẽ ngỏ lời cầu
hôn ra sao và nàng sẽ trở thành vợ chàng như thế nào? Không, chàng không
thể hình dung được điều đó Chàng bỗng thấy sờ sợ và không tưởng tượng
ra được một hình ảnh nào cho rõ nét cả. Với Sonya thì từ lâu chàng đã
dựng lên một bức tranh tương lai; và tất cả đều đơn giản và rõ lang
chính vì tất cả đều do chàng nghĩ ra, và chàng biết rõ tất cả những gì
có trong Sonya, nhưng với công tước tiểu thư Maria thì không sao hình
dung được cuộc sống sau này, vì chàng không hiểu nàng, mà chỉ yêu nàng
thôi.
Những ước mong về Sonya có một cái vẻ gì vui vẻ, giống như một trò chơi.
Nhưng nghĩ đến công tước tiểu thư Maria thì bao giờ cũng thấy một cái
khó khăn và đáng sợ.
"Nàng cầu nguyện chân thành quá. - Chàng nhớ lại. - Thật là nàng đem
hết cả tâm hồn trút vào lời cầu nguyện. Phải, đó chính là lời cầu
nguyện có sức chuyển núi dời sông, và ta tin chắc rằng lời cầu nguyện
cho những điều mà ta cần có? - chàng nhớ lại. - Ta cần có gì? Cần tự do,
cần đoạn tuyệt với Sonya. Bà ấy nói đúng, - chàng nhớ lại những lời lẽ
của bà tổng đốc, - Ta mà lấy Sonya thì chỉ khổ thôi, chỉ thêm rối ren,
mẹ sẽ buồn phiền… công việc… một tình trạng rối ren, rối ren ghê gớm! Vả
chăng ta cũng không yêu Sonya. Phải, tình yêu ấy không phải là tình yêu
thật sự. Lạy Chúa!
- Hãy đưa con ta khỏi cái tình cảnh đáng sợ, không có lối thoát này -
Chàng bỗng bắt đầu cầu nguyện. - Phải, lời cầu nguyện có sức chuyển núi
dời sông, nhưng phải tin, và phải cầu nguyện không phải như hồi còn nhỏ
ta với Natasa cầu nguyện cho tuyết biến thành đường rồi chạy ra xem thử
tuyết đã hoá thành đường chưa. Không, bây giờ ta không cầu nguyện vớ vẩn
- Chàng nói đoạn đặt tẩu thuốc vào một góc và chắp tay đến đứng trước
bức tượng thánh. Và lòng hồi hộp cảm động nhớ đến công tước tiểu thư
Maria, chàng bắt đầu cầu nguyện. Đã lâu chàng không có lần nào cầu
nguyện như thế.
Nước mắt rưng rưng trên mi và nghẹn ngào trong cổ chàng khi Luvruska cầm mấy tờ giấy gì không rõ bước vào phòng.
- Đồ ngu! Người ta không gọi sao lại cứ dẫn xác vào! - Nikolai vừa nói vừa vội vàng thay đổi tư thế.
- Của quan tổng đốc, - Luvruska nói, giọng ngái ngủ, - Liên lạc vừa đưa đến, có thư gửi cho ông.
- Được cám ơn, chú ra đi.
Nikolai cầm lấy hai bức thư. Một bức là của mẹ chàng, bức kia là của
Sonya. Chàng nhận ra nét chữ của hai người, và bóc phong bì của Sonya ra
trước. Chàng mới đọc qua được mấy dòng thì mặt chàng bỗng tái đi và mắt
chàng mở rộng lộ vẻ sợ hãi và vui mừng.
- Không, không có lẽ - Chàng nói to một mình.
Không sao ngồi yên được một chỗ, chàng cầm bức thư trong tay, vừa đi đi
lại lại trong phòng vừa đọc. Chàng đọc qua một lượt thật nhanh, rồi đọc
lại, xong lại đọc lại lần nữa, rồi so vai và dang tay ra, chàng dừng lại
ở giữa phòng, mồm há hốc, mắt đờ đẫn. Điều mà chàng vừa cầu nguyện với
lòng tin vững chắc rằng Chúa sẽ ưng chuẩn cho của chàng, nay đã được
thực hiện; nhưng Nikolai lấy làm kinh ngạc dường như đó là một điều gì
phi thường, và không bao giờ chàng ngờ đến. Điều đó đã được thực hiện
một cách nhanh chóng đến nỗi chàng có cảm tưởng đó là một bằng chứng
chứng tỏ ra rằng việc vừa xảy ra không phải vì Chúa đã chuẩn y lời cầu
nguyện của chàng mà chỉ là do một sự ngẫu nhiên tầm thường.
Cái nút đang ràng buộc chàng và tưởng chừng như không thể nào gỡ ra
được, cái nút ấy đã được bức thư đột ngột, vô cớ (Nikolai tưởng như vậy)
của Sonya tháo tung ra. Trong thư nàng viết rằng vì những sự việc không
mảy may xảy ra gần đây, vì gia đình Roxtov đã mất hết tài sản ở Moskva,
vì Borodino, phu nhân đã mấy lần bày tỏ ước nguyện mong Nikolai lấy
công tước tiểu thư Bolkonxkaya, và vì thời gian gần đây chàng có nhiều
lạnh nhạt và không gởi thư gì cho nàng, cho nên nàng đành phải gạt bỏ
lời hẹn ước cũ cho chàng và để chàng hoàn toàn tự do.
"Em quá khổ tâm khi nghĩ rằng mình có thể làm một nguyên nhân gây
nên sự buồn phiền và xích mích trong gia đình những ân nhân của em, -
Nàng viết, - Và tình yêu của em chỉ có một mục đích là hạnh phúc của
những người mà em thương yêu; vì vậy em van anh, anh Nikolai, và xin anh
tin rằng dù sao chăng nữa cũng không ai có thể yêu anh tha thiết như
Sonya của anh". Cả hai bức thư đều gửi từ Troisk - bức thư kia là của bá
tước phu nhân. Trong thư có kể lại những ngày cuối cùng ở Moskva lúc ra
đi, trận hoả hoạn và việc cả gia sản bị tiêu vong. Trong thư, bá tước
phu nhân cũng viết rằng công tước Andrey cùng đi với gia đình trong số
những người thương binh. Tình trạng của chàng rất nguy kịch, nhưng hiện
nay bác sĩ nói rằng đã có nhiều hy vọng hơn trước. Sonya và Natasa hiện
đang săn sóc chàng như hai người hộ lý.
Ngày hôm sau Nikolai cầm bức thư này đến nhà công tước tiểu thư
Maria. Nikolai cũng như tiểu thư Maria đều không nói gì về ý nghĩa của
câu "Natasa săn sóc công tước Andrey" nhưng nhờ bức thư này Nikolai đã
gần gũi thêm công tước tiểu thư và quan hệ của họ bấy giờ đã gần như
quan hệ họ hàng.

Ngày hôm sau, Roxtov tiễn công tước tiểu thư Maria đi Yaroxlav và được ít hôm sau chàng cũng trở về trung đoàn.
hết: Chương -6 -7 -, xem tiếp: Chương -8 -9 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 EmptyWed Jan 05, 2011 9:43 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XII

Chương -8 -9 -


Bức thư của Sonya gửi cho Nikolai, bức thư thực hiện lời cầu nguyện của chàng, được viết ra trong khi nàng ở Troisk.
Và đây là những nguyên do đã khiến cho nàng viết bức thư này.
Ý nghĩ lấy cho Nikolai một người vợ giàu càng ngày càng ám ảnh bá
tước phu nhân. Bà biết rằng Sonya là cái chướng ngại chủ yếu ngăn trở
việc này. Và cuộc sống của Sonya trong thời gian gần đây, nhất là sau
bức thư của Nikolai kể lại cuộc gặp gỡ với công tước tiểu thư Maria ở
Bogotsanrovo, mỗi ngày một thêm nặng nề khổ sở trong nhà bá tước phu
nhân. Phu nhân không bỏ lỡ một dịp nào để nói cạnh nói khoé Sonya một
cách cay độc và tàn nhẫn.
Nhưng trước khi lên đường rời khỏi Moskva mấy hôm, mủi lòng và xúc
động vì tất cả những việc đã xảy ra, bá tước phu nhân gọi cho Sonya lại,
và không trách móc đòi hỏi như trước đây nữa, bà ứa nước mắt van lơn
nàng hãy hy sinh mình để đền đáp những ân huệ của gia đình đối với nàng,
cầu xin nàng đoạn tuyệt với Nikolai.
- Chỉ khi nào cháu hứa với bác, thì bác mới yên tâm, - bá tước phu nhân nói.
Sonya khóc nức nở như trong một cơn điên loạn, và trả lời qua những
tiếng nấc rằng nàng sẽ làm tất cả, nàng sẵn sàng chịu tất cả, nhưng lại
không hứa cụ thể và trong thâm tâm nàng không sao đành lòng làm cái
việc mà người ta đòi hỏi nàng. Phải hy sinh mình cho hạnh phúc của cái
gia đình đã nuôi nấng và dạy dỗ nàng. Hy sinh mình cho người khác sung
sướng đã thành một thói quen của Sonya. Với địa vị của nàng trong gia
đình, chỉ có bằng sự hy sinh nàng mới bộc lộ được những đức tính của
nàng, cho nên nàng đã quen và thích hy sinh. Nhưng trước kia trong tất
cả những hành động hy sinh như thế nàng vui sướng nhận thức rằng hy sinh
mình, nàng tự nâng cao phẩm giá của mình lên trong quan niệm của những
người khác và càng thêm xứng đáng với Nikolai, người mà nàng yêu hơn tất
cả mọi thứ ở trên đời; nhưng bây giờ sự hy sinh của nàng lại là phải từ
bỏ cái mà đối với nàng là phần thưởng duy nhất của sự hy sinh, là ý
nghĩa duy nhất của sự hy sinh, và là ý nghĩa duy nhất của cuộc sống. Và
lần đầu trong đời, nàng thấy oán giận những người đã làm ơn cho nàng để
rồi lại làm cho nàng đau khổ nhiều hơn. Nàng thấy ghen tị với Natasa,
người chưa bao giờ trải qua một việc gì tương tự, chưa bao giờ cần phải
hy sinh, chỉ bắt những người khác hy sinh cho mình, mà vẫn được mọi
người yêu quý. Và lần đầu tiên Sonya cảm thấy tình yêu dịu dàng trong
sạch của nàng đối với Nikolai bỗng nhiên biến thành một tình cảm bồng
bột say đắm vượt hẳn lên trên mọi quy tắc, vượt lên trên đạo đức và tôn
giáo; và dưới sự chi phối của tình cảm này Sonya, mà cuộc sống lệ thuộc
đã biến thành một người kín đáo quen che giấu những cảm nghĩ thành thật
của mình, bất giác trả lời bá tước phu nhân với những lời lẽ mơ hồ,
tránh nói chuyện với phu nhân, và quyết định chờ đợi một cuộc gặp gỡ mặt
với Nikolai, không phải để trả lại tự đo cho chàng mà trái lại để vĩnh
viễn gắn chặt đời mình vào đời chàng.
Những nỗi lo âu và kinh hãi của những ngày cuối cùng gia đình
Roxtov còn ở Moskva đã lấn át những ý nghĩ u ám đang đè nặng lên tâm hồn
Sonya. Nàng vui mừng được tìm cách thoát khỏi những ý nghĩ đó trong
những công việc thực tế. Nhưng khi nàng được biết công tước Andrey đang ở
nhà, tuy nàng chân thành thương xót chàng và Natasa, lòng Sonya đã tràn
ngập một niềm vui sướng đậm màu mê tín: nàng thấy trời không muốn cho
nàng phải đoạn tuyệt với Nikolai. Nàng biết rằng Natasa chỉ yêu một mình
công tước Andrey và đến nay vẫn yêu chàng. Nàng biết rằng bây giờ, gặp
lại nhau trong hoàn cảnh hãi hùng như thế này, họ nhất định sẽ lại yêu
nhau và đến khi đó thì quan hệ thân thuộc sẽ khiến Nikolai không thể lấy
công tước tiểu thư Maria được. Cho nên tuy trong những ngày cuối cùng ở
Moskva và những ngày đầu tiên của cuộc hành trình đã xảy ra những việc
hết sức ghê sợ, cái cảm giác, cái ý thức là bàn tay Chúa đã can thiệp
vào cuộc sống cá nhân của nàng đã khiến Sonya vui mừng.

Ở tu viện Troisk, gia đình Roxtov ghé lại nghỉ ngơi lần đầu tiên trong cuộc hành trình của họ.
Người ta cắt cho gia đình Roxtov ba gian lớn của tu viện, trong đó một
gian được dành riêng cho công tước Andrey. Hôm ấy chàng thấy đỡ nhiều.
Natasa ngồi bên cạnh chàng. Ở phòng bên, bá tước phu nhân kính cẩn nói
chuyện với cha bề trên vừa đến thăm gia đình Roxtov và những người quen
cũ trước kia vẫn cung tiến cho tu viện. Sonya cũng ngồi ở phòng ấy, lòng
bứt rứt vì đang tò mò muốn biết công tước Andrey và Natasa nói với nhau
những gì, nàng lắng nghe tiếng nói của họ qua cánh cửa. Bỗng cửa phòng
công tước Andrey xịch mở ra, Natasa bước ra vẻ mặt xúc động, từ trong
phòng bước ra. Không để ý thấy vị tu sĩ bấy giờ đang đứng dậy để đón
nàng, tay giữ lấy cổ áo rộng bên phải, nàng lại gần Sonya và cầm lấy tay
bạn.
- Natasa, con làm sao thế? Lại đây, - bá tước phu nhân nói.
Natasa đến cạnh vị tu sĩ để nhận phép lành, và cha bề trên khuyên nàng nên cầu xin. Chúa và vị thánh của Người phù hộ chol.
Ngay sau khi cha bề trên ra về, Natasa cầm lấy tay Sonya và cùng đi với bạn sang gian phòng trống bên cạnh.
- Sonya, có đúng không? Anh ấy sẽ sống chứ? - nàng nói, - Sonya ạ, em
sung sướng quá và đau khổ quá! Sonya ạ, chị yêu dấu của em, - Mọi việc
đều như cũ. Miễn sao anh ấy sống được. Anh ấy không thể… bởi vì… vì, vì…
- và Natasa khóc oà lên.
- Thế à? - Mình biết mà? Đội ơn Chúa, - Sonya nói. - Anh ấy sẽ sống.
Sonya xúc động chẳng kém gì bạn, xúc động vì nỗi sợ hãi và đau buồn
của bạn, và vì những ý nghĩ riêng của mình, những ý nghĩ mà nàng không
hề nói cho ai biết. Nàng nghẹn ngào hỏi Natasa và an ủi bạn "Miễn sao
anh ấy sống được?" - Sonya thầm nghĩ. Sau khi khóc và nói với nhau một
lúc, hai người bạn gái lau nước mắt rồi đến bên cửa phòng công tước
Andrey, Natasa thận trọng mở cửa ghé mình vào phòng. Sonya đứng cạnh
nàng bên cánh cửa hé mở.
Công tước Andrey nằm kê cao đầu lên ba chiếc gối. Khuôn mặt xanh xao
của chàng điềm tĩnh, hai mắt nhắm nghiền, và có thể thấy ngực chàng khẽ
nâng lên hạ xuống theo nhịp thở đều đặn.
- Ồ! Natasa! - Sonya bỗng gần như kêu lên, nắm chặt tay bạn và lùi lại - Cái gì thế? Gì thế? - Natasa hỏi.
- Đúng rồi, đúng thế thật đấy. - Sonya nói. Mặt tái xanh, môi run lẩy bẩy.
Natasa khẽ đóng cửa lại và cùng Sonya đi ra cửa sổ. Nàng vẫn chưa hiểu người ta vừa nói gì với mình.
- Natasa có nhớ không. - Sonya nói, vẻ mặt sợ hãi và trịnh trọng -
Natasa có nhớ dạo mình nhìn vào gương thay cho Natasa không… Ở
Otradnoye, hôm lễ Giáng sinh ấy mà… Nhớ không hôm mình có thấy…
- À, ừ! Có! - Natasa nói, mắt mở to; nàng mường tượng nhớ lại rằng dạo
ấy Sonya có nói gì về công tước Andrey, Sonya thấy chàng đang nằm…
- Natasa nhớ không? - Sonya nói tiếp - Hôm ấy mình nhìn thấy mình đã nói
cho cả Natasa; cả Dunasia nghe. Mình thấy anh ấy nằm trên gường - Sonya
nói; cứ kể đến một chi tiết nào nàng lại giơ cao một ngón tay lên như
ra hiệu, - Anh ấy nhắm mắt, và đắp một chiếc chăn màu hồng đúng như thế
này, hai tay anh ấy chắp lại, trong khi Sonya lần lượt tả lại những chi
tiết mà nàng vừa trông thấy, nàng quả quyết tin rằng dạo trước nàng đã
từng trông thấy đúng như thế. Thực ra dạo ấy nàng chẳng trông thấy gì
cả, chẳng qua bạ nghĩ ra được cái gì nàng cứ thế mà kể, nhưng bây giờ
nàng thấy những điều mà dạo ấy nàng đã bịa đặt ra cũng đều có thật như
bất kỳ kỷ niệm nào khác. Dạo ấy nàng nói rằng chàng quay lại nhìn nàng,
mỉm cười, rằng chàng đắp một cái gì đo đỏ; những điều đó không những
nàng nhớ lại; mà nàng còn tin chắc rằng ngay từ dạo ấy mình đã nhìn thấy
và nói rằng chàng đắp cái chăn màu hồng, đúng màu hồng, và mất chàng
nhắm nghiền.
- Phải, phải, đúng là màu hồng, - Natasa nói; bây giờ hình như nàng cũng
nhớ rằng dạo ấy Sonya có nói là màu hồng, và thấy rằng điều kỳ lạ và
huyền bí trong lời tiên đoán chính là ở chỗ đấy.
- Nhưng như thế nghĩa là thế nào? - Natasa nói, vẻ trầm ngâm.
- Ồ mình không biết, thật là kỳ lạ, - Sonya nói, hai tay ôm đầu.
Vài phút sau công tước Andrey bấm chuông gọi, và Natasa vào với
chàng; Sonya, lòng bồi hồi cảm động khác thường vẫn đứng lại bên cửa sổ,
nghĩ ngợi về những việc phi thường vừa xảy ra.
Hôm ấy có dịp thư tới quân đội, bá tước phu nhân liền viết thư cho con trai.
- Sonya, - bá tước phu nhân ngẩng đầu lên nói khi cô cháu gái đi ngang
qua, - Sonya, con không viết thư cho Nikolai à? - Bá tước phu nhân nói
khẽ, giọng run run, và trong đôi mắt mệt mỏi nhìn qua cặp kính Sonya đã
đọc được tất cả những gì mà phu nhân muốn ám chỉ qua những lời này.
Trong khoé nhìn của phu nhân, có cả ý van lơn ý lo sợ bị Sonya cự tuyệt,
ý hổ thẹn vì phải cầu xin, và sự sẵn sàng chuyển sang lòng thù ghét sâu
cay nếu nàng từ chối.
Sonya đến cạnh bá tước, quỳ xuống hôn tay và nói:
- Con sẽ viết mẹ ạ

Tất cả những sự, việc xảy ra trong ngày hôm ấy đã làm cho Sonya xúc
động mủi lòng và thấy tâm hồn mình dịu lại, nhất là sự thực hiện huyền
bí của điều tiên đoán nọ. Bây giờ, khi nàng đã biết rằng quan hệ giữa
Natasa và công tước Andrey được nối lại như cũ thì Nikolai không thể nào
lấy được công tước tiểu thư Maria được nữa, Sonya vui mừng cảm thấy cái
tâm trạng luôn luôn sẵn sàng hy sinh đã trở lại với nàng; nàng vẫn ưa
thích và đã quen sống trong tâm trạng đó.
Mắt rớm lệ, lòng vui sướng vì có ý thức rằng mình đang làm một việc
cao thượng, nàng viết thư cho Nikolai. Dở chừng nàng mấy lần phải dừng
lại vì những giọt lệ trào ra mờ cả đôi mắt đen dịu như nhung của nàng.
Và đó chính là bức thư cảm động đã khiến cho Nikolai kinh ngạc như vậy.
9.
Ở trạm gác của Piotr được giải đến, viên sĩ quan và mấy người
lính đã bắt giam Piotr, đối xử với chàng một cách thù địch nhưng đồng
thời cũng có ý kính nể chàng. Trong thái độ của họ vẫn còn có thể cảm
thấy rằng họ vừa hồ nghi không biết chàng là ai (là một nhân vật rất
trọng yếu chăng) vừa tức tối nhớ lại cuộc ẩu đả vừa qua với chàng.
Nhưng sáng hôm sau, khi đến giờ đổi gác, Piotr nhận thấy rằng, đối
với đội quân canh mới đến, - sĩ quan cũng như binh lính, chàng đã không
còn quan trọng như đối với những người đã bắt chàng. Và quả nhiên,
trong con người to béo mặc áo kaftan, nông dân này, đội lính canh ngày
hôm ấy không hề thấy con người linh hoạt đã đánh nhau chí tử với nhiều
tên lính ăn cướp và với đội áp giải, và đã từng nói cái câu trang trọng
về việc cứu sống đứa bé, mà chỉ thấy đó là người thứ mười bảy trong số
những người Nga bị bắt giữ vị một lý do nào đó, theo lệnh của cấp trên.
Vả chăng nếu Piotr có một cái gì đặc biệt chăng nữa, thì đó chỉ là cái
vẻ đăm chiêu tư lự chẳng hề sợ sệt của chàng, hoặc giả là cái tiếng Pháp
điêu luyện của chàng mà người Pháp rất lấy làm lạ. Tuy vậy, ngay hôm
ấy, Piotr cũng được đưa sang giam cùng buồng với những người khả nghi
khác, vì gian phòng dành riêng để giam chàng nay có một viên sĩ quan
Pháp cần đến.
Tất cả những người Nga cũng bị giam với Piotr đều là những người thuộc
lớp cùng dân. Và khi nhận ra rằng Piotr là một người thượng lưu, họ đều
xa lánh chàng, huống hồ chàng lại nói tiếng Pháp nữa. Piotr buồn rầu
nghe những lời chế giễu của họ nhằm vào chàng.
Đến tối ngày hôm sau, Piotr được biết rằng tất cả những người bị giam
ở đây (và hình như trong số đó có cả chàng) đều sẽ bị đưa ra xử về tội
đốt nhà. Đến ngày thứ ba, Piotr cùng với những người bị giam khác bị dẫn
sang một ngôi nhà có một viên tướng Pháp để bộ ria mép bạc trắng, hai
viên trung tá và mấy người Pháp nữa có đeo băng hiệu ở ống tay áo quân
phục. Họ hỏi Piotr, cũng như những người khác, những câu mà người ta vẫn
thường dùng để hỏi những bị cáo, những câu hỏi mà người ra vẫn xác được
coi như vượt lên trên những sự yếu đuối của con người: Anh là ai? Trước
đây anh ở đâu? Vì mục đích gì? v.v.
Những câu hỏi này gạt nội dung của sự việc ra một bên và loại trừ mọi
khả năng phát hiện ra cái nội dung đó, cũng như tất cả những câu hỏi
dùng ở toà án, mục đích của nó là đưa ra trước người bị cáo một cái ống
máng để cho những câu trả lời của họ chảy theo hướng những người xét xử
mong muốn, nghĩa là để dẫn đến việc buộc tội. Hễ người bị cáo bắt đầu
nói một điều gì không ăn nhập với mục đích buộc tội thì người ta rút ống
máng đi, và nước muốn chảy đi đâu thì chảy. Ngoài ra, Piotr còn có cái
cảm giác mà người bị cáo vẫn thường có khi đứng trước bất cứ toà án nào:
cảm giác ngỡ ngàng không hiểu người ta hỏi những câu ấy để làm gì.
Chàng cảm thấy rằng chỉ vì muốn làm ra vẻ khoan dung hay lễ độ mà người
dùng cái thủ tục ống máng ấy. Chàng biết rằng mình đang nằm trong tay
những người này, rằng chỉ có bạo lực dẫn chàng đến đây, rằng chỉ có bạo
lực cho họ cái quyền bắt chàng trả lời những câu hỏi ấy, rằng mục đích
duy nhất của cuộc họp mặt này là để buộc tội chàng. Cho nên, một khi đã
có quyền lực và có ý muốn buộc tội, lẽ ra không cần dùng đến những câu
hỏi cạm bẫy như vậy, mà cũng không xét xử làm gì. Có thể thấy rõ rằng
tất cả những câu hỏi ấy đều nhàm đưa đễn chỗ buộc tội. Khi họ hỏi chàng
đang làm gì khi bị bắt, Piotr trả lời với một giọng hơi bi đát, rằng
chàng đang bế một đứa bé mà chàng vừa cứu trong đống lửa ra để mang trả
lại cho cha mẹ nó.
- Tại sao lại đánh nhau với tên lính ăn cướp?
Piotr đáp rằng chàng bênh vực một người đàn bà, rằng bênh vực một
người đàn bà bị xúc phạm là nhiệm vụ của mọi người, rằng… Họ ngăn chàng
lại: những cái đó không dính dáng đến việc này. Vì sao chàng lại đứng
trong sân một ngôi nhà đang cháy, như một số người làm chứng đã nói?
Chàng đáp rằng chàng đang đi xem thử ở Moskva đang xảy ra những việc gì.
Họ lại ngắt lời chàng: Đây không ai hỏi chàng đi đâu, mà hỏi chàng đứng
gần đám cháy để làm gì. Chàng là ai? Họ lại hỏi câu hỏi đầu tiên, mà
lúc nãy chàng đã đáp rằng chàng sẽ không trả lời. Bây giờ chàng lại nhắc
lại một lần nữa rằng chàng không thể nói điều đó ra được.
- Ghi lấy: như thế không tốt. Rất là không tốt, - viên tướng có bộ ria
bạc trắng và khuôn mặt đỏ gay nói với chàng một cách nghiêm khắc.
Đến ngày thứ tư, các đám cháy lan đều bức tường thành Zubovxki.
Piotr cùng với mười ba người khác bị giải đến Krymxki Brod, giam vào một
cái kho để xe của một nhà buôn. Trong khi đi qua các phố, Piotr ngạt
thở vì làn khói bấy giờ hình như đang bao trùm khắp thành Moskva. Bốn
phía đều rừng rực ánh lửa cháy nhà. Lúc bấy giờ Piotr chưa hiểu tầm quan
trọng của việc Moskva bốc cháy, chàng kinh hãi nhìn ánh lửa.
Trong gian nhà kho ở Krymxki Brod, Piotr bị giam bốn ngày nữa, và
trong thời gian đó, qua những câu chuyện trò của bọn lính Pháp nói với
nhau chàng được biết rằng tất cả những người bị giam giữ ở đây phải đợi
quyết định nay mai của nguyên soái. Nghe những mẩu chuyện ấy Piotr không
thể biết rõ nguyên soái đây là nguyên soái nào. Đối với những người
lính ấy, chức nguyên soái hẳn là một cái khâu cao cấp và khá bí ẩn của
quyền lực.
Những ngày đầu tiên này - kể cho đến mồng tám tháng chín, ngày các
phạm nhân bị đưa đi hỏi cung lần thứ hai, là những ngày khổ sở nhất đối
với Piotr.
hết: Chương -8 -9 -, xem tiếp: Chương -10 -11 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 EmptyWed Jan 05, 2011 9:43 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XII

Chương -10 -11 -


Ngày mồng tám tháng chín có một viên sĩ quan Pháp vào gian nhà kho
giam phạm nhân. Cứ xem thái độ kính cẩn của bọn lính canh đối với y, có
thể đoán rằng y là một nhân vật quan trọng. Viên sĩ quan chắc là một
viên sĩ quan tham mưu, cầm một tờ danh sách bắt đầu gọi tên tất cả những
người Nga bị giam, và gọi Piotr là người không chịu khai tên. Rồi sau
đó khi đưa đôi mắt dửng dưng và uể oải nhìn qua tất cả đám tù nhân một
lượt, y ra lệnh cho viên sĩ quan coi tù cho họ ăn mặc tươm tất và sửa
soạn tề chỉnh trước khi dẫn đến trình nguyên soái. Một giờ sau có một
đại đội lính đến giải Piotr và mười ba người kia ra bãi Divichi. Ngày
hôm ấy trời quang đãng: sau một trận mưa, nắng hửng và không khí trong
trẻo lạ thường.
Khói không bay là là sát đất như hôm Piotr bị giải đi từ nhà giam ở
tường thành Zubovxki, nó bốc lên thành từng cột trong làn không khí
trong trẻo. Chung quanh không đâu thấy có ánh lửa cháy trong nhà, nhưng
bốn phía đều có những cột khói bốc lên, và khắp Moskva, tất cả những nơi
mà Piotr trông thấy, đều là một đống tro tàn. Bốn phía chỉ thấy những
khoảng đất trơ trụi, lác đác có những ống khói, những mảnh lò sưởi còn
sót lại, và thỉnh thoảng vài bức tường cháy sém của những toà nhà bằng
đá. Piotr nhìn kỹ những đống tro tàn nhưng không nhận ra những khu phố
quen thuộc. Đây đó thấp thoáng bóng những ngôi nhà thờ không bị thiêu
huỷ. Thành Kreml vẫn nguyên vẹn, có thể trông thấy những bức tường
trắng, những cái tháp cao và đền Ivan đại đế. Gần hơn, cái mái vòm của
tu viện Noy - Divichi vui vẻ ánh lên trong nắng, và tiếng chuông nguyện
từ tu viện vẳng đến nghe vang dội khác thường. Tiếng chuông nguyện nhắc
Piotr nhớ rằng hôm ấy là chủ nhật và là lễ sinh nhật Đức Mẹ. Nhưng hình
như không ai có ăn mừng lễ sinh nhật này được cả: bốn bề đều là những
cảnh hoang tàn, và hoạ hoằn lắm mới gặp vài người Nga rách rưới, sợ sệt,
hễ trông thấy người Pháp là lẩn trốn ngay.
Rõ ràng cái tổ của dân Nga đã bị tàn phá tan hoang nhưng đằng sau cảnh
tan hoang này của nếp sống Nga, Piotr bất giác nhận ra nếp sống mới,
hoàn toàn khác lạ, nhưng vững chắc, nếp sống của người Pháp. Chàng cảm
thấy thế khi nhìn toán lính vui vẻ và hăng hái đi thành hàng ngũ chỉnh
tề áp giải chàng và các phạm nhân khác, chàng cảm thấy thế khi trông
thấy một viên quan chức trọng yếu nào đó của Pháp, trên chiếc xe song mã
do một người lính đánh đi ngược lại phía chàng, chàng cảm thấy thế khi
nghe những âm thanh vui vẻ của một đoàn nhạc binh từ bờ bên trái của
cánh đồng vang lại và đặc biệt chàng cảm thấy và hiểu điều đó qua bản
danh sách mà sáng nay viên sĩ quan Pháp vừa đọc để điểm danh các tù
nhân.
Piotr đã bị lính bắt, giải đến nơi này rồi lại giải đi nơi khác cùng
với hàng chục người nữa; có lẽ người ta đã quên chàng, và lẫn lộn chàng
với những người khác chăng. Nhưng không: những câu trả lời của chàng lúc
bị hỏi cũng đã trở lại với chàng trong cách gọi chàng là người không
chịu khai tên họ. Và dưới cái danh hiệu này, mà Piotr thấy sợ, giờ đây
họ đang dẫn chàng đến một nơi nào đấy, và trên gương mặt họ có thể thấy
rõ họ tin chắc rằng chàng chính là người tù nhân kia là những người mà
họ cần giải đi và họ đang giải đến nơi cần đến. Piotr cảm thấy mình là
một mẩu rơm chẳng ra gì rơi vào bánh xe của một bộ máy mà chàng không
biết gì, nhưng là một bộ máy hoạt động đều đặn hơn.
Piotr và các tù nhân khác được dẫn đến bờ bên phải của bãi Divichi
cạnh một tu viện, đến một toà nhà to lớn sơn trắng có một khu vườn
rộng. Đó chính là của công tước Serbatov. Hồi trước, khi chủ ngôi nhà
này còn ở đây, Piotr vẫn thường đến chơi; bây giờ; như chàng được biết
qua những câu chuyện trò của lính Pháp nói với nhau, nó được dùng làm
nơi đóng đại bản doanh của nguyên soái quận công Ekmyl.
Toán tù nhân được đưa lên thềm và từng người một lần lượt được dẫn
vào trong nhà, Piotr là người thứ sáu. Qua dãy hành lang bằng kính, gian
phòng mắc áo, gian phòng ngoài mà Piotr rất quen thuộc, họ dẫn chàng
vào một căn phòng giấy dài và thấp, ở cửa có một viên sĩ quan phụ tá túc
trực.
Davu ngồi trước một cái bàn đặt ở cuối phòng, kính đeo tụt xuống tận
giữa mũi. Piotr bước lại gần sát bàn. Davu không ngước mắt lên, vẻ như
đang chăm chú đọc một tờ giấy gì để trước mặt.
Vẫn không nhìn lên, Davu nói:
- Anh là ai?
Piotr lặng thinh, vì chàng không sao nói ra được một lời nào.
Đối với Piotr, Davu không phải chỉ là một viên tướng Pháp mà còn là
một người tàn ác có tiếng. Nhìn gương mặt lạnh lùng của Davu, bấy giờ
như một ông giáo nghiêm khắc đang chịu khó kiên nhẫn một lát để đợi câu
trả lời, Piotr cảm thấy rằng mỗi giây chần chừ đều có thể nguy hại cho
tính mạng mình; nhưng chàng không biết nên nói gì. Nói đúng như lần hỏi
cung đầu tiên thì chàng không dám; thú nhận tên tuổi và tước vị ra thì
nguy hiểm và xấu hổ. Piotr lặng thinh. Nhưng trước khi Piotr kịp quyết
định, Davu đã ngẩng đầu nâng cặp kính lên trán nheo đuôi mắt nhìn chòng
chọc vào Piotr.
- Ta biết người này, - Y nói, giọng đều đều là lạnh lùng, hẳn là để cho
Piotr khiếp sợ. Luồng hơi lạnh lúc nãy chạy dọc sống lưng chàng nay bỗng
kẹp chặt lấy đầu chàng như một cái kìm.
- Thưa tướng quân, tướng quân không thể biết tôi được, tôi chưa bao giờ gặp lướng quân…
- Đây là một gián điệp! - Davu ngắt lời chàng nói với một viên tướng
khác cũng ở trong phòng nhưng nãy giờ Piotr không trông thấy, Davu quay
mắt đi. Piotr nói nhanh. Giọng bỗng trở lên tha thiết:
- Thưa đức ông không phải, - chàng nói (lúc ấy chàng bỗng sực nhớ ra
rằng Davu là quận công - Thưa Đức ông không phải ạ. Đức ông không thể
biết tôi được. Tôi là một sĩ quan dân binh và tôi không hề ra khỏi
Moskva.
- Tên anh? - Davu nhắc lại.
- Bezuhof.
- Có những cớ gì tỏ ra rằng anh không nói dối?
- Ồ sao Đức ông dạy thế? - Piotr kêu lên, giọng không có ý là mếch lòng mà lại có ý van lơn.
Davu ngước mắt lên nhìn Piotr chòng chọc. Hai người nhìn nhau trong
khoảng vài giây, và cái nhìn đó đã cứu Piotr thoát chết, trong cái nhìn
này, vượt ra khỏi tất cả những điều kiện của chiến tranh và pháp luật,
giữa hai con người đã nảy ra một mối hên hệ nhân tình.
Trong giây phút ấy cả hai đều mơ hồ thấy được rất nhiều điều và đã
hiểu ra rằng cả hai đều là những đứa con của nhân loại, là anh em.
Khi Davu ngước mắt nhìn Piotr lần đầu trong khi đang đọc bản danh sách,
trong đó những công việc là tính mạng của con người được biểu danh bằng
những con số, thì đối với ông ta Piotr chỉ là một trường hợp; lúc ấy ông
ta có thể ra lệnh bắn Piotr mà lương tâm không hề nao núng, nhưng bây
giờ thì ông ta đã thấy chàng là một con người. Davu ngẫm nghĩ một lát.
- Anh có cách nào chứng minh rằng những điều anh nói là đúng sự thật không? - Davu nói, giọng lạnh lùng.
Piotr sực nhớ đến Ramba, liền nói tên trung đoàn hắn ra kể luôn tên họ hắn, tên đường phố của ngôi nhà hắn ở.
- Anh không phải là người như anh nói đâu. - Davu lại nói.
Piotr cất giọng run run, đứt quãng, bắt đầu đưa ra những bằng chứng cho thấy mình nói đúng sự thật.
Khi viên sĩ quan hành dinh nhắc cho ông ta nhớ đến tù nhân, Davu cau
mày hất hàm về phía Piotr và bảo dẫn đi. Nhưng vẫn viên sĩ quan nói, và
ông ta bắt đầu cài cúc áo quân phục lại. Hình như ông ta đã quên hẳn
Piotr.
Nhưng dẫn đi đâu thì Piotr không biết: dẫn về nhà kho hay dẫn ra
pháp trường, nơi mà khi đi ngang bãi Devichi các bạn đồng hành có chỉ
cho Piotr xem.
Chàng ngoảnh đầu lại và thấy viên sĩ quan phụ tá đang hỏi lại một câu gì.
- Phải, dĩ nhiên… - Davu nói, nhưng "phải" là thế nào thì Piotr không biết.
Piotr không nhớ rõ mình đi đâu, đi như thế nào và có lâu không.
Chàng đang ở trong tình trạng vô tri vô giác và đờ đẫn hoàn toàn,
chàng không trông thấy gì ở chung quanh cả, cứ đưa chân bước theo những
người khác, cho đến khi mọi người dừng lại thì chàng cũng dừng lại.
Suốt thời gian ấy Piotr chỉ có một ý nghĩa: ai rốt cục đã ra lệnh
hành hình chàng? Đó không phải là những người đã hỏi cung chàng ở uỷ
ban(1): trong số những người đó không ai muốn và hẳn là không ai có thể
làm điều đó. Cũng không phải là Davu: y đã nhìn chàng với đôi mắt nhân
đạo như vậy kia mà. Giá chỉ thêm được một phút nữa thôi là Davu hiểu
rằng họ đang làm việc xấu xa, nhưng vừa lúc ấy thì viên sĩ quan phụ tá
vào, nên cái phút ấy đã không diễn ra được. Viên sĩ quan này hẳn cũng
chẳng có tâm địa gì xấu, nhưng lẽ ra hắn có thể không vào lúc ấy. Thế
thì ai, rút cục là ai hành hình chàng, giết chàng, tước mất cuộc sống
của chàng. Piotr với tất cả những kỷ niệm, những ước mong, những hy
vọng, những ý nghĩ của chàng? Ai đã làm việc ấy? Và Piotr cảm thấy rằng
chẳng có ai cả.
Đó là một trật tự đã được thiết lập sẵn, là sự kết hợp của mọi hoàn
cảnh. Có một thứ trật tự nào đó đang giết chàng Piotr, tước đoạt sinh
mạng của chàng, tước đoạt tất cả, tiêu diệt chàng.

Chú thích:
(1) Uỷ ban đây là uỷ ban điều tra và truy nã những thủ phạm gây nẻn vụ hoả hoạn.

11.
Từ toà nhà của công tước Serbatov, họ dẫn thẳng toán tù nhân đi
xuống bãi Divichi và đưa họ đến gần một thửa vườn rau có cắm một cái
cột. Sau cột có một cái hố mới đào đất còn thẫm mầu chung quanh hố và
cột có một đám người rất đông đứng lố nhố. Đám người gồm có một số ít
người Nga và những quân lính của Napoléon thuộc nhiều đơn vị pha lẫn
không có hàng ngũ: có những tên lính Đức, lính Ý, lính Pháp mặc quân
phục khác nhau. Bên phải và bên trái cái cột có hai dãy lính Pháp sắp
hàng, mình mặc quân phục xanh có cầu vai đỏ, chân đi ghệt, đầu đội mũ
sa-cô.
Các phạm nhân được xếp theo trật tự như trong danh sách (Piotr là
người thứ sáu) và được dẫn đến cạnh các cột. Bỗng từ hai phía tiếng
trống trận nổi lên, và Piotr cảm thấy như cái âm thanh ấy đã xé một phần
linh hồn chàng. Chàng đã mất khả năng suy nghĩ và tìm hiểu. Chàng chỉ
còn có thể nhìn và nghe mà thôi. Và chàng chỉ có một ước mong - mong cho
cái việc gì ghê gớm sắp phải diễn ra nó kết thúc đi cho thật chóng.
Piotr nhìn sang mấy người bạn đồng hành và xem xét họ.
Hai người đứng ở ngoài cùng là hai người tù khổ sai cạo trọc.
Một trong hai người ấy mình cao và gầy; người kia thì đen thui, râu
ria lông lá xồm xoàm, tay chân gân guốc, mũi tẹt. Người thứ ba là một
người gia nô trạc bốn mươi lăm tuổi, tóc đã hoa râm, người béo tốt có vẻ
no đủ: Người thứ tư là người mu-gich rất đẹp có bộ râu màu vàng hung
xòe ra thành hình quạt và đôi mắt đến. Người thứ năm là một người thợ
gày gò, nước da vàng bủng tuổi chừng mười tám, mặc áo khoác dài.
Piotr nghe mấy người Pháp bàn nhau xem nên bắn từng người một hay hai
người một? "Hai người một" - viên sĩ quan chỉ huy điềm nhiên và lãnh đạm
đáp. Trong hàng ngũ quân lính có sự di chuyển, và có thể nhận thấy cả
bọn đều vội vã, - vội vã đây không phải như khi người ta làm một việc mà
ai nấy đều hiểu, mà lại như khi người ta cố làm xong một việc cần
thiết, nhưng khó chịu và không thể hiểu được.
Một viên chức người Pháp tay đeo băng đến cạnh hàng bên phải tốp
phạm nhân và cất tiếng đọc bản tuyên án bằng tiếng Nga và tiếng Pháp.
Sau đó bốn người lính Pháp đi thành hàng đôi đến cạnh toán phạm nhân
và theo lệnh viên sĩ quan bắt lấy hai người tù khổ sai đứng ở ngoài
cùng. Hai người tù khổ sai đến cạnh cái cột thì dừng lại và trong khi
lính mang những cái bị đến, họ im lặng đưa mắt nhìn quanh như những con
thú bị dồn đến đường cùng nhìn người bị săn. Một trong hai người luồn
tay làm dấu thánh giá, người kia thì gãi lưng và hai môi làm một cử động
hao hao giống một nụ cười. Mấy người lính hối hả bịt mắt họ lại, luồn
bị vào người họ và trói họ vào cột.
Hai người lính xạ kích bước những bước đều đặn và rắn rỏi cầm súng
ra khỏi hàng ngũ và dừng lại cách cái cột tám bước. Piotr ngoảnh mặt đi
để khỏi trông thấy những việc xảy ra sẽ diễn ra.
Bỗng có tiếng nổ ầm âm mà Piotr nghe còn to hơn những tiếng sấm kinh
khủng nhất, chàng quay lại nhìn. Qua là khói súng, chàng thấy bọn lính
Pháp, mặt tái mét, tay run lẩy bẩy, đang làm gì bên miệng hố không rõ.
Họ dẫn hai người khác ra. Hai người đó cũng nhìn mọi người với khoé mắt
như thế, họ im lặng, chỉ nhìn bằng mắt, cầu xin một sự che chở nào không
thể đến được, và rõ ràng là họ không hiểu và không tin điều sắp xảy ra.
Họ không thể tin được, bởi vì chỉ có họ mới biết sinh mạng của họ quý
đến nhường nào đối với họ, cho nên họ không hiểu và không tin rằng người
ta có thể tước đoạt sinh mạng của họ.
Piotr muốn đừng nhìn nữa. Chàng lại ngoảnh mặt đi; nhưng một tiếng
nổ khủng khiếp lại ập vào tai chàng, và cùng lúc ấy chàng trông thấy
khói, thấy máu người chảy ra, và những gương mặt tái nhợt, hoảng sợ của
mấy người lính Pháp bấy giờ lại làm những gì bên cạnh cái cột, đưa những
bàn tay run rẩy xô đẩy nhau. Piotr thở nặng nhọc đưa mắt nhìn quanh như
muốn hỏi xem; cái gì thế này?
Trong tất cả những cái nhìn mà Piotr bắt gặp cũng đều hiện rõ câu hỏi đó.
Trên gương mặt của tất cả những người Nga, tất cả những người Pháp
dù là lính hay sĩ quan, không trừ một ai, chàng đều đọc được nỗi kinh
hãi, sợ sệt và băn khoăn đang day dứt lòng chàng. "Những ai, ai làm ra
sự việc này thế? Họ cũng đều khổ sở như tất cả. Thế thì ai? Thế thì ai?"
- ý nghĩ đó loé lên trong tâm tư Piotr trong khoảng một giây.
- Xạ thủ trung đoàn tám sáu, bước lên! - Có tiếng hô. Họ dẫn người thứ năm đứng cạnh Piotr ra cột, - Chỉ dẫn có một người thôi.
Piotr không hiểu rằng mình đã thoát chết: không hiểu rằng chàng và
tất cả những người còn lại bị dẫn đến đây để chứng kiến cuộc hành hình.
Với một lòng kinh hãi mỗi lúc một tăng, không cảm thấy vui mừng, cũng
không thấy bình tâm lại, chàng nhìn những việc đang diễn ra. Người thứ
năm là người thợ mặc áo dài. Họ vừa chạm vào người anh ta thì anh ta đã
hoảng hốt nhảy lùi lại và bám giật lấy Piotr (Piotr giật nẩy mình và gỡ
ra). Người thợ không đi được. Họ xốc nách lôi anh ta đi, trong khi anh
ta đến cạnh cái cột, anh ta im bặt, dường như vừa hiểu ra một cái gì.
Không biết anh ta đã hiểu ra rằng có kêu la cũng vô ích, hay anh ta nghĩ
rằng không thể nào người ta lại giết mình được, chỉ thấy anh ta đớng
bên cột chờ cho họ bịt mắt lại như những người kia, và đưa đôi mắt sáng
long lanh nhìn quanh như một con thú bị thương.
Piotr không còn đủ sức để ngoảnh mặt đi và nhắm mắt lại nữa.
Trí tò mò và sự xúc động của chàng cũng như của đám đông trong khi
diễn ra vụ sát nhân thứ năm này đã lên đến mức cực điểm. Cũng như mấy
người trước, người thứ năm này cũng có vẻ bình tĩnh: anh ta cài cúc áo
và cọ cọ hai bàn chân không vào nhau.
Khi họ bắt đầu bịt mắt anh ta, anh ta tự sửa lại cái nút ở quả gáy
cho đỡ đau; rồi đến khi họ đẩy anh ta dựa vào cái cột đẫm máu người, anh
ta ngả hẳn về phía sau. Vì thế đứng này làm anh ta khó chịu, anh ta
đứng thẳng người dậy và điềm tĩnh dựa lưng vào cột. Piotr nhìn chằm chặp
vào người thợ không bỏ qua một cử động nhỏ nào.
Chắc lúc ấy phải có tiếng hô, chắc là sau tiếng hô phải có tiếng nổ
của tám khẩu súng trường. Nhưng Piotr dù về sau chàng đã hết sức cố nhớ
lại, cũng không hề mảy may nghe thấy tiếng nổ nào.
Chàng chỉ thấy người thợ chẳng hiểu tại sao bỗng dưng tụt người
xuống, máu bỗng đỏ loang ra ở hai nơi, những sợi dây bị sức nặng của
thân hình anh ta kéo trĩu xuống bỗng tụt ra và người thợ gục đầu xuống
một cách không tự nhiên, chân gập lại, ngồi xuống đất, Piotr chạy đến
cạnh cái cột. Không ai giữ chàng lại cả. Quanh người thợ có những con
người hoảng sợ, mặt tái nhợt, đang làm cái gì không rõ. Một người Pháp
già râu ria đến cởi dây trói. Hàm dưới hắn rung rung. Cái xác rơi phịch
xuống. Mấy người lính vội vã và vụng về kéo cái xác ra sau cột và bắt
đầu đẩy xuống hố.
Hiển nhiên cả bọn họ đều biết rằng mình là những kẻ phạm tội và cần phải che giấu những vết tích của tội ác mình vừa làm.
Piotr liếc nhìn xuống hố và thấy người thợ nằm ngửa, gối co lên sát
đầu, vai nghiêng hẳn sang một bên. Cái vai nhô cao hơn vai kia cứ giật
giật như lên kinh phong. Nhưng những thuổng đất đã phủ lên khắp cái thân
hình đang hấp hối. Một người lính giận dữ quát bảo Piotr lùi ra, giọng
hằn học và đau đớn. Nhưng Piotr không nghe rõ, chàng cứ đứng yên cạnh
cái cột và chẳng ai xua chàng đi cả.
Khi cái hố đã lấp xong, một tiếng hô vang lên. Họ dẫn Piotr về chỗ
cũ. Toán lính Pháp đứng sắp hàng hai bên cột quay về phía sau và bắt đầu
bước đều đi qua cái cột. Hai mười bốn người lính xạ kích, súng đã rỗng
nòng, đứng ở giữa vòng người, chạy về chỗ trong khi các đại hội đi cạnh
họ. Piotr đưa đôi mắt đẫn đờ, vô tri vô giác nhìn mấy người xạ thủ đang
từng đôi một chạy ra khỏi vòng.
Mọi người đều đã trở về hàng ngũ, trừ một người lính trẻ tuổi. Mặt
tái mét như người chết, đầu đội mũ sa-cô hất ngược ra sau gáy, súng hạ
xuống, vẫn đứng ở trước hố, chỗ hắn ta đứng bắn lúc nãy.
Như một người say rượu, hắn lảo đảo, khi thì bước tới một vài bước,
khi thì bước lùi, để giữ thăng bằng cho cái thân hình đang nghiêng ngả.
Một người hạ sĩ quan vào hàng. Đám người Nga và người Pháp bắt đầu giải
tán. Ai nấy đều lặng thinh bước đi, đầu cúi gằm.
- Cho chừa cái thói đốt nhà đi! - một người Pháp nói. Piotr ngoảnh lại
nhìn người vừa nói và thấy đó là một người lính đang muốn tìm cách tự an
ủi sau những việc vừa xảy ra, nhưng vô hiệu.
Nói chưa hết câu, hắn đã khoát tay một cái và bỏ đi.
hết: Chương -10 -11 -, xem tiếp: Chương -12 -13 -
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content




CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 7 Empty

Về Đầu Trang Go down
Xem thêm bài khác:

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full)

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang
Trang 7 trong tổng số 10 trangChuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10  Next
+ Viết tiếng việt có dấu để mọi người đọc được, để không bị hiểu sai ý nghĩa mình muốn diễn giải.
+ Lời lẽ phải lịch sự, không đuợc thô tục hay cải vã trong diễn đàn.
+ Nội dung bài trả lởi phải phù hợp với bài của chủ Topic, không được Spam.
+ Chia sẻ bài sưu tâm thì phải ghi rõ nguồn, để tôn trọng người viết.
+ Thực hiện những điều trên truớc khi gửi bài, là tôn trọng chính mình.

- Nếu chèn smilies vào bài viết thì bật a/A trên phải khung viết bài.

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Trường THPT Xuân Lộc :: GIẢI TRÍ :: Đọc truyện :: Truyện dài-
Chuyển đến:
Loading...
Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất
Web THPTXL