Trường THPT Xuân Lộc
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Trường THPT Xuân Lộc

Trường THPT Xuân Lộc - Đồng Nai
 
Trang ChínhTrang Chính  WebsiteWebsite  Tra CứuTra Cứu  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng Nhập  
Top posters
♪-Peter-♪ (1229)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Vote_rcap 
Admin (730)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Vote_rcap 
JabbaWocKeez (342)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Vote_rcap 
whitehat (313)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Vote_rcap 
RongK9 (204)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Vote_rcap 
Blogsoft (171)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Vote_rcap 
lightspeed (154)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Vote_rcap 
kosak1213 (112)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Vote_rcap 
thaikiet (54)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Vote_rcap 
kidpro1409 (44)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Vote_rcap 
THÔNG ĐIỆP YÊU THƯƠNG:

Share|

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full)

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down
Chuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10  Next
Tác giảThông điệp
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 EmptySat Dec 25, 2010 8:16 am

First topic message reminder :

Vâng !! Nếu có thời gian thì Mời các bạn nên đọc tác phầm này Smile


Vâng và mình giới thiệu tác phẩm này luôn :

Chiến tranh và hòa bình ([You must be registered and logged in to see this link.]: Война и мир, Voyna i mir) là một bộ [You must be registered and logged in to see this link.] sử thi của [You must be registered and logged in to see this link.], được nhà xuất bản Russki Vestnik in lần đầu từ năm [You must be registered and logged in to see this link.] đến [You must be registered and logged in to see this link.]. Đây là tác phẩm phản ánh một giai đoạn bi tráng của toàn xã hội [You must be registered and logged in to see this link.],
từ giới quý tộc đến nông dân, trong thời đại Napoléon, và được coi là
một trong hai kiệt tác chính của Tolstoy (tác phẩm thứ hai là [You must be registered and logged in to see this link.]). Chiến tranh và hòa bình cũng đồng thời được đánh giá là một trong những tiểu thuyết vĩ đại nhất của [You must be registered and logged in to see this link.].


Nội dung

[You must be registered and logged in to see this link.]: Phần sau đây có thể cho bạn biết trước nội dung của tác phẩm.

Tác phẩm mở đầu với khung cảnh một buổi tiếp tân, nơi có đủ mặt các nhân vật sang trọng của giới quý tộc [You must be registered and logged in to see this link.] của [You must be registered and logged in to see this link.]. Bên cạnh những câu chuyện thường nhật của giới quý tộc, người ta bắt đầu nhắc đến tên của [You must be registered and logged in to see this link.] và cuộc [You must be registered and logged in to see this link.]
sắp tới mà Nga sắp tham gia. Trong số những tân khách hôm ấy có công
tước Andrei Bolkonsky một người trẻ tuổi, đẹp trai, giàu có, có cô vợ
Liza xinh đẹp mới cưới và đang chờ đón đứa con đầu lòng. Và một vị khách
khác là Pierre người con rơi của lão bá tước Bezoukhov, vừa từ nước
ngoài trở về. Tuy khác nhau về tính cách, một người khắc khổ về lý trí,
một người hồn nhiên sôi nổi song Andrei và Pierre rất quý mến nhau và
đều là những chàng trai trung thực, luôn khát khao đi tìm lẽ sống.
Andrei tuy giàu có và thành đạt nhưng chán ghét tất cả nên chàng chuẩn
bị nhập ngũ với hy vọng tìm được chỗ đứng của một người đàn ông chân
chính nơi chiến trường. Còn Pierre từ nước ngoài trở về nước Nga, tham
gia vào các cuộc chơi bời và bị trục xuất khỏi Sankt-Peterburg vì tội du
đãng. Pierre trở về [You must be registered and logged in to see this link.],
nơi cha chàng đang sắp chết. Lão bá tước Bezoukhov rất giàu có, không
có con, chỉ có Pierre là đứa con rơi mà ông chưa công nhận. Mấy người bà
con xa của ông xúm quanh giường bệnh với âm mưu chiếm đoạt gia tài.
Pierre đứng ngoài các cuộc tranh chấp đó vì chàng vốn không có tình cảm
với cha, nhưng khi chứng kiến cảnh hấp hối của người cha lúc lâm chung
thì tình cảm cha con đã làm chàng rơi nước mắt. Lão bá tước mất đi để
lại toàn bộ gia sản cho Pierre và công nhận chàng làm con chính thức.
Công tước Kuragin không được lợi lộc gì trong cuộc tranh chấp ấy bèn tìm
cách dụ dỗ Pierre. Vốn là người nhẹ dạ, cả tin nên Pierre rơi vào bẫy
và phải cưới con gái của lão là Hélène, một cô gái có nhan sắc nhưng
lẳng lơ và vô đạo đức.
Về phần Andrei chàng quyết định gởi vợ cho cha và em chăm sóc sau đó
gia nhập quân đội. Khi lên đường Andrei mang một niềm hy vọng có thể có
thể tìm thấy ý nghĩa cuộc sống cũng như công danh trên chiến trường.
Chàng tham gia trận đánh [You must be registered and logged in to see this link.]
lừng danh, thương nặng, bị bỏ lại chiến trường. Khi tỉnh dậy chàng nhìn
dậy chàng nhìn thấy bầu trời xanh rộng lớn và sự nhỏ nhoi của con
người, kể cả những mơ ước, công danh và kể cả Napoléon người được chàng
coi như thần tượng. Andrei được đưa vào trạm quân y và được cứu sống.
Sau đó, chàng trở về nhà chứng kiến cái chết đau đớn của người vợ trẻ
khi sinh đứa con đầu lòng. Cái chết của Lisa, cùng với vết thương và sự
tiêu tan của giấc mơ Tulông đã làm cho Andrei tuyệt vọng. Chàng quyết
định lui về sống ẩn dật. Có lần Pierre đến thăm Andrei và đã phê phán
cách sống đó. Lúc này, Pierre đang tham gia vào hội Tam điểm với mong
muốn làm việc có ích cho đời.
Một lần, Andrei có việc đến gia đình bá tước Rostov. Tại đây, chàng
gặp Natalia (Natasha) con gái gia đình của bá tước Rostov. Chính tâm hồn
trong trắng hồn nhiên và lòng yêu đời của nàng đã làm hồi sinh Andrei.
Chàng quyết định tham gia vào công cuộc cải cách ở triều đình và cầu hôn
Natasha. Chàng đã được gia đình bá tước Rostov chấp nhận, nhưng cha
chàng phản đối cuộc hôn nhân này. Bá tước Bolkonsky (cha của Andrei)
buộc chàng phải đi trị thương ở nước ngoài trong khoảng thời gian là một
năm. Cuối cùng, chàng chấp nhận và xem đó như là thời gian để thử thách
Natasha. Chàng nhờ bạn mình là Pierre đến chăm sóc cho Natasha lúc
chàng đi vắng. Natasha rất yêu Andrei, song do nhẹ dạ và cả tin nên nàng
đã rơi vào bẫy của Anatole con trai của công tước Vassili, nên Natasha
và Anatole đã định bỏ trốn nhưng âm mưu bị bại lộ, nàng vô cùng đau khổ
và hối hận. Sau khi trở về Andrei biết rõ mọi chuyện nên đã nhờ Pierre
đem trả tất cả những kỷ vật cho Natasha. Nàng lâm bệnh và người chăm sóc
và người thông cảm cho nàng lúc này là Pierre.
Vào lúc này, nguy cơ chiến tranh giữa [You must be registered and logged in to see this link.][You must be registered and logged in to see this link.]
ngày càng đến gần. Cuối năm 1811, quân Pháp tiến dần đến biên giới Nga,
quân Nga rút lui. Đầu năm 1812, quân Pháp tiến vào lãnh thổ Nga. Chiến
tranh bùng nổ. Vị tướng già Mikhail Koutouzov được cử làm tổng tư lệnh
quân đội Nga. Trong khi đó, quý tộc và thương gia được lệnh phải nộp [You must be registered and logged in to see this link.]
và dân binh. Pierre cũng nộp tiền và hơn một ngàn dân binh cho quân
đội. Andrei lại gia nhập quân đội, ban đầu vì muốn trả thù tình địch,
nhưng sau đó chàng bị cuốn vào cuộc chiến, bị cuốn vào tinh thần yêu
nước của nhân dân. Trong trận [You must be registered and logged in to see this link.],
dưới sự chỉ huy của vị tướng Koutouzov quân đội Nga đã chiến đấu dũng
cảm tuyệt vời. Andrei cũng tham gia trận đánh này và bị thương nặng.
Trong lán quân y, chàng gặp lại tình địch của mình cũng đang đau đớn vì
vết thương. Mọi nỗi thù hận đều tan biến, chàng chỉ còn thấy một nỗi
thương cảm đối với mọi người. Chàng được đưa về địa phương. Trên đường
di tản, chàng gặp lại Natasha và tha thứ cho nàng. Và cũng chính Natasha
đã chăm sóc cho chàng cho đến khi chàng mất.
Sau trận Borodino, quân Nga rút khỏi Moskva. Quân Pháp chiếm được
Moskva nhưng có tâm trạng vô cùng lo sợ. Pierre trở về Moskva giả dạng
thành thường dân để ám sát Napoléon. Nhưng âm mưu chưa thực hiện được
thì chàng bị bắt. Trong nhà giam, Pierre gặp lại Platon Karataev, một
triết gia nông dân. Bằng những câu chuyện của mình, Platon đã giúp
Pierre hiểu thế nào là cuộc sống có nghĩa.
Quân Nga bắt đầu phản công và tái chiếm Moskva. Quân Pháp rút lui
trong hỗn loạn. Nga thắng lợi bằng chính tinh thần của cả dân tộc Nga
chứ không phải do một cá nhân nào, đó là điều Koutouzov hiểu còn
Napoléon thì không.
Trên đường rút lui của quân Pháp, Pierre đã trốn thoát và trở lại
Moskva. Chàng hay tin Andrei đã mất và vợ mình cũng vừa mới qua đời vì
bệnh. Chàng gặp lại Natasha, một tình cảm mới mẻ giữa hai người bùng nổ.
Pierre quyết định cầu hôn Natasha. Năm 1813, hai người tổ chức đám
cưới. Bảy năm sau, họ có bốn người con. Natasha lúc này không còn là một
cô gái vô tư hồn nhiên mà đã trở thành một người vợ đúng mực. Pierre
sống hạnh phúc nhưng không chấp nhận cuộc sống nhàn tản. Chàng tham gia
vào những hội kín - đó là các tổ chức cách mạng của những người tháng
Chạp.
!!wikipedia




Dịch giả: Cao Xuân Hạo, Nhữ Thành, Hoàng Thiếu Sơn, Thường Xuyên
nguồn : vnthuquan


Phần I

- Chương 1 -


- Đấy công tước thấy chưa:
Genes và Lucque nay chỉ còn là những thái ấp, những điền trang của dòng
họ Buônapáctê(1) mà thôi. Này, tôi xin báo trước: hễ công tước còn cho
rằng hiện nay chúng ta chưa ở trong tình trạng chiến tranh, hễ công
tước còn dám bào chữa cho những hành động nhơ nhuốc và tàn bạo của tên
Ma vương phản Cơ đốc ấy (quả tình tôi cũng tin rằng hắn chính là Ma
vương - thì tôi không có quen biết, không có bạn bè gì với công tước
nữa đâu, công tước không còn là "kẻ nô lệ trung thành" của tôi như công
tước vẫn nói. Nào, thôi, phải hỏi thăm sức khoẻ công tước đã chứ! Tôi
làm cho công tước đâm hoảng sợ thì phải, công tước ngồi xuống đi, rồi
kể chuyện cho tôi nghe.
Anna Pavlovna Serer, ngự tiền phu nhân có
tiếng, rất thân cận với hoàng hậu Maria Feodorovna, nói như vậy khi phu
nhân ra đón công tước Vaxili, một nhân vật quan trọng và có chức vị
cao, và là người đầu tiên tối hôm nay đến dự buổi tiếp tân của phu
nhân. Bấy giờ là vào tháng bảy năm 1805. Anna Pavlovna ho đã mấy hôm
nay, phu nhân bị bệnh cúm - phu nhân nói thế (hồi ấy cúm là một danh từ
mới, rất ít người dùng). Buổi sáng một gia nhân mặc áo dấu đỏ đi phân
phát những tấm thiếp mời nhất loạt viết:
"Thưa bá tước hay (thưa công tước), nếu bá tước không có việc gì hay
hơn và không có ý quá lo sợ phải ngồi suốt cả buổi tối với một ngưòi
đàn bà đau ốm tội nghiệp, thì tôi sẽ rất vui sướng được tiếp bá tước
tại nhà từ 7 đến 10 giờ. Annette Scherer".
Lúc này công tước vừa bước vào phòng, mình mặc phẩm phục thêu kim
tuyến, chân đi giày có bít tất cao, ngực đeo huân chương, khuôn mặt
phẳng đẹp trông rất tươi tỉnh. Công tước đáp, không hề mảy may lúng
túng trước cách tiếp đón của nữ chủ nhân:
- Trời, nhiếc móc độc địa thế!
Công tước nói một thứ tiếng Pháp cầu kỳ, thứ tiếng mà cha ông chúng ta
không nhũng dùng để nói chuyện, mà còn để suy nghĩ nữa; công tước lại
có một gióng nói dìu dịu và khoan dung đặc biệt của một người quyền quí
đã lõi đời trong xã hội thượng lưu và trong cung đình. Công tước lại
gần Anna Pavlovna, cúi cái đầu hói bóng nhoáng, xức nước hoa thơm phức
xuống hôn tay phu nhân rồi thoải mãi buông người xuống đi-văng.
- Trước hết, xin bà bạn cho biết sức khoẻ ra sao? - công tước lại nói - Xin phu nhân nói rõ cho tôi được yên lòng?
Công tước cũng vẫn nói với giọng như trước nhưng trong cái giọng nhã
nhặn và đượm vẻ ái ngại vẫn để lộ sự thờ ơ, thậm chí cả sự mỉa mai.
Anna Pavlova nói:
- Tinh thần đã đau khổ thì người còn mạnh khoẻ sao được? Thời buổi này,
là người có tâm huyết ai có thể bình thản được? Công tước ở lại chơi cả
buổi tối nhé!
- Thế còn buổi dạ hội của đại sứ Anh thì sao? Hôm nay là thứ tư. Tôi
cần phải đi đến đấy cho có mặt. Con gái tôi nó sẽ ghé lại đây đưa tôi
đi.
- Tôi vẫn tưởng buổi dạ hội đã hoãn rồi kia đấy. Tôi xin thú thật những
trò hội hè và bắn pháo hoa ấy đã bắt đầu trở thành nhạt thếch.
- Họ mà biết phu nhân muốn thế, thì họ đã hoãn buổi dạ hội rồi - công
tước nói theo thói quen, như một chiếc đồng hồ đã lên dây sẵn, nói
những điều mà mình cũng không muốn người ta tin là thật.
- Thôi xin ông đừng làm khổ tôi nữa… Này, về cái tin cấp báo của
Novoxilxov người ta quyết định gì? Việc gì ngài cũng biết kia mà.
Công tước nói, giọng lạnh nhạt và chán chường:
- Tôi biết nói thế nào đây? - Người ta quyết định gì ư? Người ta cho
rằng Buônapáctê đã đi nước liều, và tôi tin ta cũng làm như thế.
Công tước Vaxili bao giờ cũng nói giọng uể oải như một diễn viên đọc
một vai tuồng đã quá cũ. Anna Pavlovna Serer thì trái lại, tuy đã tròn
bốn mươi tuổi, nhưng văn hăng hái sôi nổi. Tỏ ra hăng hái đã thành một
chức vụ xã hội của phu nhân, và đôi khi, mặc dầu không muốn, phu nhân
cũng vẫn làm ra vẻ hăng hái để khỏi phụ lòng mong đợi của những người
quen biết. Nụ cười nửa miệng luôn luôn phảng phất trên gương mặt Anna
Pavlovna tuy không ăn khớp với những nét mặt đã tàn phai, nhưng cũng
nói lên rằng phu nhân chẳng khác gì đứa trẻ được nuông chiều, vẫn có ý
thức về cái tật đáng yêu của mình, một cái tật mà phu nhân không muốn,
không thể và không thấy cần phải sửa chữa.
Giữa chừng câu chuyện về lình hình chính trị, Anna Pavlovna bỗng hăng lên:
- Ồ, thôi đừng nói tới cái nước Áo ấy với tôi nữa! Có thể là tôi chẳng
hiểu tí gì, nhưng nước Áo xưa nay không hề muốn có chiến tranh. Nó phản
bội chúng ta. Một mình nước Nga sẽ phải cứu châu âu. Đấng ân chủ của
chúng ta biết rõ sứ mệnh cao cả của người và sẽ trung thành với sứ mệnh
đó. Tôi chỉ tin có thế mà thôi. Đức vua nhân từ và kỳ diệu của ta sẽ
phải lĩnh lấy cái trách nhiệm trọng đại nhất trên thế giới; người nhân
từ và quí hoá như vậy nên Thượng đế sẽ không bỏ người đâu, và Người sẽ
làm tròn sự phó thác của Trời là bóp chết con quái xà cách mạng nay đã
trở nên ghê tởm hơn bao giờ hết vì hiện thân của nó là cái tên sát nhân
kiêm đạo tặc kia. Chúng ta sẽ phải một mình trả thù cho máu của chính
nghĩa đã đổ. Còn biết hy vọng vào ai nữa, thưa ngài? Nước Anh với cái
đầu óc con buôn của nó sẽ không bao giờ hiểu nổi cái độ lượng như trời
bể của hoàng đế Alecxandr. Nó đã từ chối không chịu rút khỏi đảo Malta.
Nó muốn tìm xem phía sau các hành động của chúng ta có thâm ý gì. Người
Anh đã nói gì với Novoxilxov?… Chẳng nói gì cả. Họ không hiểu, mà cũng
không thể hiểu nổi cái lòng vị tha cao cả của Đức hoàng thượng, là
người không bao giờ làm gì cho bản thân mình, mà sẵn lòng làm tất cả
cho hạnh phúc của thiên hạ. Họ hứa những gì nào? Không hứa gì cả. Mà dù
có hứa thì họ cũng chẳng làm gì đâu! Nước Phổ đã tuyên bố rằng
Bonaparte là vô địch và toàn thể châu Âu không còn có cách gì chống lại
hắn nữa… Tôi không tin một lời nào của Hardenberg hay của Haugevits.
Cái nền trung lập trứ danh của nước Phổ chẳng qua là một cái bẫy. Tôi
chỉ tin ở Thượng đế và tin vào sự thụ mệnh thiêng liêng của vị hoàng đế
kính yêu của chúng ta. Người ta sẽ cứu được châu Âu…
Anna Pavlovna bỗng dừng lại, mỉm cười như để tự chế giễu cái thái độ bồng bột của mình.
Công tước mỉm cười nói:
- Tôi trộm nghĩ giá phu nhân được cử làm sứ giả thay ông Vin
Vintxengherod thân mến của chúng ta thì phu nhân đã bắt vua Phổ ưng
thuận đứt đi rồi. Phu nhân hùng biện thế kia mà. Phu nhân cho tôi chén
đí chứ?
- Sắp có đấy ạ- Anna Pavlovna bấy giờ đã bình tĩnh lại. Phu nhân nói thêm:
- À này, trong các vị tân khách của tôi hôm nay sẽ có hai nhân vật rất
thú vị; đó là tử tước Mortenmar, ông ta là thông gia với họ Montmorency
qua họ Rohans, một trong những dòng dõi quý phái bậc nhất ở Pháp. Đó là
một người Pháp lưu vong hạng chân chính đấy(2). Sau nữa là giáo sĩ
Moriot, chắc ngài cũng có biết con người trí tuệ uyên thâm ấy chứ?
Moriot đã được hoàng thượng tiếp, chắc ngài có biết?
- Ô tôi sẽ rất lấy làm hân hạnh. - Rồi công tước nói thêm, giọng đặc
biệt lơ đễnh như vừa sực nhớ ra điều gì, nhưng thực ra công tước đến
đây hôm nay mục đích chính cũng chỉ là để hỏi việc ấy. - Có phải Hoàng
thái hậu muốn bổ nhiệm nam tước Funke làm bí thư thứ nhất ở Viên không?
Hình như cái ông nam tước ấy **c lắm thì phải.
Số là công tước Vaxili muốn tiến cử con mình nhưng lúc bấy giờ trong
triều người ta lại đang xin Hoàng thái hậu lo chức ấy cho nam tước.
Anna Pavlovna lim dim đôi mắt, ý muốn nói phu nhân hay ai cũng đều có
quyền phê phán những điều mà đủc Hoàng thái hậu đã thích làm hay muốn
làm. Phu nhân chỉ nói gọn một câu, giọng buồn và xẵng:
- Nam tước Funke là do bà chị của Hoàng thái hậu gửi gắm đấy!
Khi Anna Pavlovna nói đến Hoàng thái hậu, gương mặt của phu nhân chợt
lộ vẻ sùng kính và ngưỡng mộ chân thành, pha lẫn với vẻ buồn rầu: cứ
mỗi lần nhắc đến Hoàng thái hậu là phu nhân như vậy.
Phu nhân nói rằng đức Hoàng thái hậu có lòng trọng nể nam tước Funke
lắm, - rồi khoé mắt của phu nhân lại đượm vẻ buồn rầu như cũ.
Công tước lặng thinh, vẻ thản nhiên, Anna Pavlovna vốn có đủ cái khéo
léo tế nhị và nhạy bén của một người đàn bà và một nữ quan quen ra vào
chốn cung đình; phu nhân muốn châm chích công tước một tí, vì ông ta đã
dám nghĩ như vậy về một nhân vật được tiến cử với Hoàng thái hậu, nhưng
đồng thời phu nhân cũng muốn an ủi công tước. Phu nhân nói:
- À này, để nói đến việc cửa nhà công tước một thể, chắc công tước cũng
biết là quý tiểu thư, từ khi bước chân vào cuộc đời giao tế, được mọi
người rất yêu chuộng. Ai cũng bảo là tiểu thư đẹp như ánh thái dương.
Công tước nghiêm mình để tỏ ý kích cẩn và cảm kích.
Sau một phút yên lặng, Anna Pavlovna nhích đến gần công tước và dịu
dàng mỉm cười, dường như để tỏ rằng câu chuyện về chính trị và xã giao
đã chấm dứt, và bây giờ đến lượt những mẩu chuyện tâm tình:
- Tôi thường nghĩ rằng đôi khi hạnh phúc trên đời được phân phối thật
bất công. Tại sao số phận lại cho ngài hai người con đáng yêu như vậy.
Trừ Anatol, cậu con út của ngài, mà tôi không ưa - phu nhân nói thêm,
lông mày nhướn cao lên, giọng quyền hành và dứt khoát - Mà công tước
lại là người ít biết giá trị của con mình hơn cả, vì vậy công tước quả
không đáng được hai người con như thế.
Và phu nhân mỉm cười, nụ cười phấn khởi.
Công tước nói:
- Phu nhân bảo tôi làm thế nào được? Nếu có Lavater ở đây thì ông ta sẽ bảo tôi không có cái u làm cha(3).
- Thôi đừng đùa nữa. Tôi đang nói chuyện đứng đắn kia mà. Công tước ạ,
tôi không vừa lòng về cậu con trai út của ngài cho lắm. Cái này ta cũng
nói riêng với nhau thôi (gương mặt của phu nhân lại lộ vẻ buồn rầu),
trong cung đức hoàng thái hậu họ có nói đến cậu ta đấy, và lấy làm ái
ngại cho công tước.
Công tước không đáp lại, nhưng phu nhân vẫn lặng thinh nhìn công tước,
vẻ tư lự, chờ đợi công tước trả lời. Công tước Vaxili cau mày. Cuối
cùng, công tước nói:
- Tôi còn biết làm thế nào được? Phu nhân biết đấy, tôi đã làm tất cả
những gì mà một người cha có thể làm để dạy dỗ chúng nó, thế mà rốt cục
cả hai đứa lớn lên vẫn thành hai thằng ngốc như thường. Thằng Ippolit
thì ít nhất cũng còn là một thằng ngốc hiền lành, chứ thằng Anatol thì
thật là một thừng ngốc ngỗ ngược. Đấy chỉ là khác nhau có thế.
Trong khi nói, công tước mỉm cười không được tự nhiên như thường ngày,
nhưng lại có vẻ phấn khởi hơn, rồi đột nhiên hai bên mép nhăn lại để lộ
cái gì thô bỉ và khả ố.
- Những ngưởi như công tước thì có con làm gì? Giá công tước không làm
cha, thì tôi thật không thể có điều gì chê bai công tước được nữa, -
Anna Pavlovna nói, mắt ngước nhìn lên có vẻ đăm chiêu suy nghĩ.
- Tôi là kẻ nô lệ trung thành của phu nhân, và chỉ với phu nhân tôi mới
có thế thú nhận điều này, con tôi - nó là mối luỵ của đời tôi - nó quả
là cây thập tự mà tôi phải vác lên vai. Tôi tự cắt nghĩa cho mình như
vậy đấy. Biết làm thế nào được?
Công tước ngừng nói và khoát tay một cái, ngụ ý là mình đành cam chịu phục tùng số mệnh ác nghiệt.
Anna Pavlovna trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Ngài chắc chưa bao giờ nghĩ đến việc cưới vợ cho cậu Anatol phá gia
chi tử của ngài nhỉ. Người ta thường bảo là gái quá thời thì hay có cái
thói làm mai mối. Tôi chưa cảm thấy mình có cái thói ấy, nhưng tôi có
biết một tiểu thư phải chịu khổ sở nhiều vì ông bố, đó là một người họ
hàng của chúng tôi, một công tước tiểu thư họ Bonkonxki.
Công tước Vaxili không đáp, nhưng với cái trí xét đoán và cái ký ức rất
nhạy của những người thuộc giới xã giao, công tước liền khẽ nghiêng đầu
để chứng tỏ mình đã lãnh hội và đã quan tâm đến những điều mách bảo của
phu nhân.
- Phu nhân có hiết không, cái thằng Anatol ấy tiêu của tôi mỗi năm đến
bốn vạn rúp, - công tước nói, hẳn là ông ta không đủ sức kìm hãm dòng
tâm tư buồn bã của mình. Công tước im lặng một lúc:
- Cứ như thế này, rồi năm năm nữa không biết sẽ ra sao đây?
- À làm cha thì hơn người ta ở chỗ đấy.
- Thế công tước tiểu thư của phu nhân có giàu không?
- Ông bố cô ta rất giàu nhưng rất hà tiện. Ông cụ hiện nay ở thôn quê.
Đó chính là công tước Bolkonxki nổi tiếng, đã về hưu từ thời tiên đế,
mà người ta thường gọi đùa là ông vua nước Phổ. Ông ta là người rất
thông minh, nhưng có nhiều cái gàn dở rất kỳ quặc, lại rất khó tính.
Tội nghiệp cho con bé, nó thật đến khổ, công tước tiểu thư có một người
anh cách đây ít lâu vừa kết hôn với cô Liza Mainen, và làm sĩ quan phụ
tá cho Kutuzov. Hôm nay người anh cũng đến đây.
Công tước bỗng dưng cầm lấy tay Anna Pavlovna và không hiểu tại sao kéo phu nhân cúi thấp xuống, rồi nói:
- Này, bạn Annet thân mến, bạn dàn xếp hộ tôi việc ấy, tôi sẽ suốt đời
là kẻ nô lệ trung thành của bạn, là kẻ nô lệ, như lão trưởng thôn của
tôi thường viết trong báo cáo, cô ấy con nhà thế gia, cô ấy giàu: tôi
chỉ cần có thế.
Với những cử chỉ thoải mái, thân mật và đẹp mắt mà ông vẫn có, công
tước cầm bàn tay của ngự tiền phu nhân đưa lên môi hôn, và lắc lắc, rồi
ngồi người trên ghế bành, đưa mắt nhìn phía khác.
Anna Pavlovna nghĩ ngợi một lát rồi nói:
- Được, để tôi sẽ nói chuyện với Liza (vợ công tước Bolkonxki trẻ tuổi)
ngay hôm nay. Có lẽ rồi việc này sẽ thành. Gia đình nhà ông sẽ là nơi
tôi tập sự làm gái già.

-------------------------------------------------------------------------

Chú thích:
(1) Họ của Napoleon Bonaparte phát âm theo giọng Corse để tỏ ý khinh miệt.
(2) Sau cuộc cách mạng Pháp 1789, một số quí tộc phản cách mạng trốn
hoặc bị trục xuất ra nước ngoài. Số người đó gọi là những người lưu
vong (emigré)
(3) Lavater (1741-1801) Nhà văn và giáo sĩ Thuỵ Sỹ đã lập ra một thuyết
cho rằng năng khiếu của con người là do hình dáng và đặc biệt là cái u
ở trên đầu quy định. Thành ngữ, có nghĩa là "đó là một tai ách mà số
phải chịu".

Share


Được sửa bởi petterpacker ngày Wed Jan 05, 2011 9:13 pm; sửa lần 2. (Reason for editing : Edit nội dung của truyện)
Về Đầu Trang Go down

Tác giảThông điệp
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 EmptyWed Jan 05, 2011 10:18 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XV

Chương - 6 -7 -


Ngày mồng năm tháng mười một là ngày đầu tiên của cái gọi là trận
Kraxnoye. Chiều hôm ấy, sau nhiều cuộc cãi vã và nhiều lầm lỗi của các
tướng (họ đã đem quân đi sai hẳn kế hoạch) sau những cuộc sai phái sĩ
quan phụ tá đi truyền những mệnh lệnh trái ngược với mệnh lệnh cũ, khi
đã thấy rõ rằng đâu đâu quân địch cũng bỏ chạy và trận đánh không thể
diễn ra được và sẽ không diễn ra, Kutuzov rời Kraxnoye đến Dobroye, nơi
đại bản doanh vừa chuyển đến trong ngày hôm ấy.
Ngày hôm ấy trời quang đãng và giá lạnh, Kutuzov cưỡi con ngựa bạch béo
phị cùng với một đoàn tuỳ tùng đông đúc gồm những viên tướng bất mãn với
ông đang xì xào sau lưng ông, đi về phía Dobroye. Sụốt dọc đường, đâu
đâu cũng thấy những toán tù binh vừa bắt được ngày hôm ấy đang sưởi
quanh những đống lửa trại (ngày hôm ấy số tù binh bắt được là bảy
nghìn). Cách Dobroye không xa, có một lũ tù binh rất đông, áo quần rách
rưới, mình quấn và trùm bất cứ thứ gì có thể vớ được, đang đứng nói
chuyện ồn ào trên đường cái cạnh một dãy dài súng đại bác Pháp đã tháo
ra khỏi xe. Khi vị tổng tư lệnh đến gần, tiếng nói chuyện im bặt và mọi
con mắt đều đổ dồn về phía Kutuzov đầu đội mũ trắng vành đỏ và mình mặc
chiếc áo khoác bông cộm lên trên đôi vai gù, đang chậm rãi đi trên đường
cái. Một trong các viên tướng báo cáo cho Kutuzov rõ những khẩu pháo và
những đám quân lính này bắt được ở đâu.
Kutuzov hình như đang mải suy nghĩ điều gì nên không nghe những lời
viên tướng nói. Ông nheo mắt có vẻ không bằng lòng và chăm chú nhìn bóng
dáng lũ tù binh - một cảnh tượng thật là thảm hại. Mặt bọn lính Pháp
phần lớn đều trông không ra mặt người nữa vì mũi và má đều bị chết cóng,
mắt thì hầu hết đỏ gay, sưng húp và ghèn rử nhầy nhụa. Một tốp lính
Pháp đứng sát mé đường, có hai người - mặt một trong hai người đầy những
vết lở loét - đang lấy tay xé một miếng thịt sống. Có một cái gì thú
vật và khủng khiếp trong khoé mắt của họ, khi họ liếc nhìn những người
qua đường và trong cái vẻ hẳn học của những lính mặt lở loét khi hắn
gườm gườm nhìn Kutuzov rồi lập tức quay đi tiếp tục nốt công việc đang
làm.
Kutuzov chăm chú nhìn hai người lính này một hồi lâu, mặt ông càng
nhăn nhó thêm. Ông nheo mắt và lắc đầu ra dáng trầm ngâm. Ở một chỗ
khác, ông để ý đến một người lính Nga đang vỗ vai một người lính Pháp
vừa cười nói với hắn một câu gì đó thân mật. Kutuzov lại lắc đầu với cái
vẻ tư lự như ban nãy.
- Anh nói gì? - ông hỏi viên tướng đang tiếp tục báo cáo và xin tổng
tư lệnh lưu ý đến những ngọn quân kỳ vừa mới cướp được, bây giờ xếp
trước mặt hàng ngũ trung đoàn Preobrazenxki.
- À! Cờ! - Kutuzov nói, vẻ như đang chật vật bứt ra khỏi những vấn đề
khiến ông bận tâm suy nghĩ. Ông lơ đãng đưa mắt nhìn quanh. Từ khắp bốn
phía, hàng nghìn cặp mắt nhìn vào ông, chờ nghe ông nói.
Đến trước trung đoàn Preobrazenxki, ông dừng lại, buông một tiếng thở
dài nặng trĩu và nhắm mắt. Một người nào đấy trong đoàn tuỳ tùng vẫy tay
ra hiệu cho các binh sĩ đang cầm cờ đến đứng quanh vị tổng tư lệnh và
trình cờ cho ngài xem. Kutuzov im lặng mấy phút, rồi vẻ miễn cưỡng rõ
rệt, chẳng qua vì cương vị bắt buộc, ông ngẩng đầu lên và bắt đầu nói.
Từng đám sĩ quan vây quanh ông ta. Ông đưa mắt chăm chú nhìn qua các sĩ
quan một lượt, nhận mặt một vài người trong đám đông.
- Xin cảm ơn mọi người - ông nói với các binh sĩ rồi lại nói với các sĩ quan.
Trong bầu không khí im phăng phắc ở chung quanh, người ta nghe rõ mồn một những lời nói của ông thong thả buông ra:
- Xin cảm ơn mọi người đã phục vụ trung thành trong cảnh khó khăn. Quân
ta đã toàn thắng, và nước Nga sẽ không quên các người. Vinh quang thay
cho các người trong ngàn muôn thế kỷ! - ông im lặng một lát, mắt nhìn
quanh.
Hạ thấp đầu nó xuống, hạ thấp xuống, - ông bảo một người lính đang
cầm một quân hiệu phượng hoàng của Pháp và vô tình chúc nó xuống trước
mặt ngọn quân kỳ của trung đoàn Preobrazenxki - Thấp nữa, thấp nữa, thế,
thế. Anh em ơi, Ura? Ông hất cằm quay phắt về phía các binh sĩ hô to.
Ura - ra - ra - ra! - hàng nghìn tiếng hô vang lên như sấm.
Trong khi quân lính reo hò, Kutuzov ngồi khom lưng trên yên cúi đầu
xuống và con mắt ánh lên một tia sáng dịu hiền, hầu như giễu cợt.
- Bây giờ thế này anh em ạ!
Ông nói khi tiếng hò reo đã ngớt. Và bỗng nhiên giọng nói và vẻ mặt
ông thay đổi: đây không còn là một vị tổng tư lệnh nữa, mà là một ông
già bình dị, hẳn là đang muốn nói một điều gì rất cần với các bạn đồng
ngũ của mình. Đám quân sĩ và các hàng ngũ quân lính lao xao xê dịch một
lát để nghe cho rõ những điều ông sắp nói.
- Anh em ạ. Tôi biết các anh em khổ lắm, nhưng biết làm thế nào được? Cố
kiên nhẫn một chút: chẳng còn lâu nữa đâu. Khi nào tiễn hết các ông
khách ta sẽ nghỉ ngơi cho bõ. Sa hoàng sẽ không quên công lao của anh
em. Anh em khổ thật, nhưng dù sao anh em cũng đang ở trên đất nhà, chứ
như bọn chúng - anh em xem nông nỗi chúng nó đến thế nào, - ông chỉ đám
tù binh nói - Còn tệ hơn lũ ăn mày cùng khốn nhất. Khi chúng còn mạnh,
chúng ta không thương xót gì chúng hết, còn bây giờ thì có thể thương
hại chúng. Chúng cũng là người. Có phải thế không anh em? Nhưng nói cho
phải, ai khiến chúng đến đất chúng ta? Đáng đời quân chó đẻ, đ. mẹ chúng
nó! - ông bỗng ngẩng đầu lên nói.
Rồi khua roi ngựa một cái, lần đầu tiên trong suốt chiến dịch, ông
cho ngựa phi nước đại rời khỏi những đội ngũ rối loạn hẳn đi của những
quân lính đang vui sướng cười rộ lên và reo hò "ura".
Có lẽ những lời Kutuzov nói quân lính cũng chẳng hiểu gì mấy.
Chắc không ai có thể truyền đạt lại nội dung những lời lẽ lúc đầu thì
long trọng mà về cuối thì xuề xoà của vị thống soái già; nhưng ý nghĩa
rất sâu kín của những lời nói thì không những họ hiểu, mà ngay cả cái
cảm xúc đắc thắng trang trọng kết hợp với lòng thương xót kẻ thù và ý
thức về chính nghĩa của mình, biểu hiện ra bằng câu chửi chất phác của
một ông già, - ngay cả cái cảm xúc đó cũng ở trong lòng mỗi người lính
và được biểu lộ ra bằng một tiếng reo hò vui sướng kéo dài một hồi lâu.
Sau đó, khi một viên tướng hỏi xem vị tổng tư lệnh có cần cái xe ngựa
đến không, Kutuzov trong khi trả lời bỗng nấc lên một tiếng: chắc là ông
đang xúc động mạnh.

7.
Ngày mồng tám tháng mười một, ngày cuối cùng của các chiến sự ở
Kraxnoye, khi quân đọi đến nơi nghỉ đêm thì trời đã sẩm tối.
Suốt ngày hôm ấy trời lặng gió và giá lạnh, tuyết bông từng bông
nhẹ thưa thớt; đến tối trời bắt đầu quang. Qua các bông tuyết có thể
thấy bầu trời màu tím thẫm đầy sao, và khí trời mỗi lúc một thêm giá
lạnh.
Trung đoàn xạ thủ, ra đi từ Tarutino với quân số ba nghìn nhưng
nay chỉ còn chín trăm, là một trong những đơn vị đầu tiên đến chỗ trú
chân, trong một cái làng trên đường cái lớn. Những người tiền trạm ra
đón trung đoàn cho biết rằng bao nhiêu nhà dân đều chật ních những lính
Pháp ốm hoặc đã chết, những kỵ binh hoặc những bộ tham mưu. Chỉ tìm được
một ngôi nhà cho trung đoàn trưởng. Trung đoàn trưởng cưỡi ngựa về ngôi
nhà dành cho mình.
Trung đoàn kéo qua làng và dừng lại gần những ngôi nhà cuốì cùng cạnh đường cái, xếp súng lại thành từng cụm.
Như một con vật khổng lồ rất nhiều tay, trung đoàn bắt tay vào việc lo
xếp đặt chỗ ăn chỗ ở. Một số binh sĩ phân tán vào khu rừng bạch dương ở
bên phải làng, lội trong tuyết dày ngập đến đầu gối, tiếng củi khô gãy
răng rắc và tiếng nói cười vui vẻ, một số khác đi lại quanh chỗ xe ngựa
của trung đoàn xếp thành một khóm làm trung tâm cho doanh trại; họ đi
lấy nồi, lấy bánh mè kho và cho ngựa ăn cỏ, một số nữa thì tản vào trong
làng dọn chỗ cho sĩ quan tham mưu, đem những thây lính Pháp trong các
nhà ra ngoài, kiếm những tấm ván, những bó củi khô và rút rơm ra ở các
mái nhà nhen lửa, rút hàng rào mắt cáo để làm nơi trú ẩn.
Chừng mười lăm người lính ở phía sau các nhà gỗ ở cuối làng vừa
reo hò vui vẻ vừa lay tấm phên đan của một cái nhà kho đã rút mất mái.
Nào, nào, đều tay nhé, dô ta nào! - Họ reo hò, và tấm phên to
tướng lấm tấm bụi tuyết lung lay làm những mảnh băng bám trên phên óng
ánh lên trong đêm tối. Những cái cọc ở chân phên kêu răng rắc mỗi lúc
một dồn dập và cuối cùng phên đổ sập xuống đất cùng với những người lính
đang xô vào nó. Có tiếng cười rộ lên và tiếng reo hò vui vẻ.
- Bưng lên! Hai người một! Đem cái đòn lại đây! Thế thế. Này chui đi đâu thế hả?
- Đều tay nào, đều tay nhé. Khoan đã các cậu? Nghe hiệu lệnh đây!
Ai nấy đều im lặng, và giọng một người êm như nhung cất lên, hát
khe khẽ một bài. Vào cuối đoạn thứ ba, đúng vào lúc âm thanh cuối cùng
vừa tắt, hai mươi người cùng hò lên một lúc: "Dô ta! Được rồi! Đều tay
nhé! Lên nào!", nhưng mặc dầu họ đã đã ra sức kéo đều tay, tấm vách cũng
chẳng nhúc nhích được bao nhiêu, và trong phút im lặng tiếp theo có thể
nghe rõ tiếng thở nặng nhọc.
- Ê đại đội sáu? Cái lũ ma quỷ kia! Lại đỡ một tay nào, rồi chúng tớ đền công cho.
Chừng hai mươi người thuộc đại đội sáu đang đi vào làng đều nhập
bọn với những người đang kéo, và tấm phên, dài đến năm xa-gien và rộng
khoảng một xa-gien, đè suốt cả vai những người lính đang thở hổn hển,
bắt đầu tiến lên con đường làng.
- Đi đi chứ. Đẩy mạnh đi nào. Sao lại đứng ỳ ra thế? Thế thế.
Những tiếng chửi rủa tục tằn và vui vẻ vang lên không ngớt
- Bọn bay làm cái gì thế? - bỗng nghe tiếng quát hách dịch của một viên hạ sĩ quan đang chạy về phía những người khiêng ván.
- Các ngài chỉ huy đang ở đây: có cả quan tướng ở trong nhà ấy thế mà
chúng bay, đồ quỷ sứ… đồ chết tiệt, ông cho chúng bay. - viên hạ sĩ quan
quát và dang tay đấm vào lưng người lính gần nhất - khe khẽ một tí
không được à?
Tốp lính im bặt. Người lính vừa bị đánh đứng thẳng dậy, vừa rên hừ
hừ vừa quệt máu trên khuôn mặt bị sớt vì va phải tấm phên.
- Lão đánh khoẻ thật, đồ quỷ! Làm mình chảy cả máu mặt, - anh ta rụt rè nói khe khẽ khi viên hạ sĩ quan đã bỏ đi.
- Cậu không thích à? - một giọng cườt cợt hỏi và tốp lính có nói nhỏ
bớt, tiếp tục kéo tấm phên đi. Ra khỏi làng, họ lại nói bô bô như cũ,
luôn mồm văng ra những câu chửi vu vơ y như lúc nãy.
Trong ngôi nhà gần chỗ toán lính kéo phên qua, các vị chỉ huy cao
cấp đang tụ tập và sau bữa dùng trà họ nói chuỵện rôm rả về những việc
xảy ra trong ngày vừa qua và về những cuộc hành quân dự định: Người ta
đang bàn là sẽ tiến hành một cuộc chuyển quân đường chéo sang phía trái,
cắt đứt đạo quân của phó vương và bắt sống ông la.
Khi toán lính kéo tấm phên về đến nơi xunh quanh đã tập trung nhiều bếp
lửa. Củi nổ tí tách, tuyết tan quanh bếp và những bông binh sĩ đen ngòm
đi lại đó khắp khoảng tuyết dải phẳng đánh dấu nơi đóng trại.
Khắp bốn phía, rìu và dao ráo riết hoạt động. Mọi việc đều tự phát tiến
hành không cần mệnh lệnh gì cả. Họ đi kiếm củi để dành đốt suốt đêm,
dựng lều cho các vị chỉ huy, đun nấu, sắp xếp súng ống đạn dược.
Tấm phên lớn do đại đội tám kéo về được dựng thành mộ hình bán nguỵệt ở
phía Bắc, họ đóng cọc chêm cho vững, và ở phía trước, họ nhóm lên một
bếp lửa. Trống điểm hiệu lệnh thu quân, các đơn vị kiểm điểm quân số, họ
ăn bữa tối và quây quần chung quanh các bếp lửa để ngủ đêm - người chữa
giày, người hút thuốc, người đánh trần ra bắt rận.
hết: Chương - 6 -7 -, xem tiếp: Chương - 8 -9 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 EmptyWed Jan 05, 2011 10:19 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XV

Chương - 8 -9 -


Có thể tưởng tượng một hoàn cảnh sống gian khổ hầu như không thể
tưởng tượng được của quân lính Nga lúc bấy giờ - không có ủng ấm, áo ấm,
dầu dãi ở giữa trời, chân lê trên tuyết trong khi trời rét ở dưới không
độ, thậm chí lương thực cũng không đủ ăn và không phải bao giờ cũng
theo kịp đoàn - có thể tưởng binh sĩ phải bày ra một cảnh tượng hết sức
buồn bã và ảm đạm.

Nhưng thật ra chưa bao giờ, dù trong hoàn cảnh vật chất khả quan
nhất cũng vậy, chưa bao giờ cảnh sinh hoạt của quân đội lại vui vẻ náo
nhiệt đến thế. Sở dĩ như vậy là vì cứ mỗi ngày tất cả những ai bắt đầu
ngã lòng hay suy yếu đều bị loại ra khỏi quân đội.

Những ai yếu đuối về thể lực và tinh thần đều đã bị bỏ lại phía sau
từ lâu và bây giờ chỉ còn lại cái tinh hoa của quân đội về sức mạnh vật
chất cũng như tinh thần.

Ở đại đội tám là nơi có mấy tấm phên, quân lính tụ tập đông đúc
hơn cả. Hai viên sĩ quan cũng đến ngồi với họ, và bếp lửa của họ cháy
sáng hơn các bếp khác. Họ ra điều kiện là ai có mang củi đến mới được
ngồi vào khoảng đất có tấm phên chắn gió bấc.

- Ê Makeyev, mày làm sao rồi… đi đâu mất mặt thế hả? Hay chó sói nó xơi
mất rồi? Mang củi về nhé - một người lính mặt đỏ, tóc hoe quát, mắt nheo
nheo và chớp lia lịa vì cay khói, nhưng vẫn không nhích xa đống lửa -
Hay thôi mày đi đi, thằng quạ khoang, nhớ mang về ít củi, - anh ta nói
với một người khác. Anh lính tóc hung này chẳng phải là ông cai ông đội
là gì, nhưng lại là người lính khoẻ mạnh, và vì thế anh ta lên giọng sai
bảo những người yếu hơn. Người lính gầy nhỏ có cái mũi nhọn mà người ta
vừa gọi là thằng quạ khoang, ngoan ngoãn tuân theo đứng dậy toan đi;
nhưng vừa lúc ấy đã thấy bóng dáng thanh tú của một người lính trẻ tuổi
bước vào vùng sáng của đống lửa, tay ôm một bó củi.

- Mang lại đây! Tốt lắm!

Họ chẻ củi, chất thành đống, ghé mồm thổi và lấy áo khoác quạt cho
to lửa lên. Ngọn lửa reo vù vù, củi nổ tí tách. Các binh sĩ nhích lại
gần châm thuốc hút. Người lính trẻ tuổi, đẹp trai vừa mang củi về chùi
hai tay vào vạt áo và bắt đầu nhanh nhẹn và khéo léo giẫm đôi chân rét
tại chỗ cho ấm.

- Ôi mẹ ơi, sương lạnh, sương lạnh buông xuống người ta thù… - anh ta hát khe khẽ, cứ mỗi chữ lại như nấc lên một tiếng.

- Ê đế giày cậu sắp đi đứt rồi kìa! - người lính tóc hoe kêu lên khi thấy đế giày anh kia lủng lẳng dưới chân - nhảy nhót mãi!

- Đúng đấy cậu ạ, - anh ta nói, đoạn ngồi xuống rút trong bạc-đà ra một
mảnh dạ xanh của Pháp và bắt đầu quấn quanh chân - Hơ cho nó chín, - anh
ta vừa nói thêm vừa giơ chân về phía lửa. Ít nữa họ sắp phát giày mới
đấy. Nghe nói khi nào xong xuôi họ sẽ phát quân trang quân dụng mỗi
người hai suất.

- Này, cái thằng Petrov chó chết ấy nó ở lại dọc đường rồi - một viên hạ sĩ quan nói.

- Tớ để ý hắn từ lâu rồi - một người khác trả lời.

- Ờ lính tráng gì cái thứ ấy…

- Còn ở đại đội ba nghe nói hôm qua khi điểm số thiếu, mất chín người.

- Thì cậu thử nghĩ xem, chân cóng thế này còn đi xa làm sao được?

- Này đừng có nói nhảm! - viên hạ sĩ quan nói.

- Hay mày cũng muốn học đòi hắn? - một người lính già nói với người vừa kêu lên chân cóng, giọng trách móc.

- Thế thì bác bảo sao? - người lính có cái mũi nhọn biết hiệu là quạ
khoang, vụt đứng dậy ở phía bên kia đống lửa, nói the thé - Thằng béo
thì hoá gầy, mà thằng gầy thì đi đứt. Như tôi đây chẳng hạn. Tôi chẳng
còn chút sức lực nào nữa, - anh ta bỗng quay sang viên hạ sĩ quan, nói
giọng cương quyết, - ông cho tôi đi bệnh xá thôi, tôi ê ẩm cả người ra
rồi, nếu không trước sau tôi cũng tụt lại dọc đường.

- Thôi được rồi, được rồi - viên hạ sĩ quan điềm tĩnh nói.

Người lính nhỏ bé lặng thinh, và chuyện trò lại tiếp tục.

Hôm nay bắt được nhiều líPh Pháp quá; quả thật chẳng đứa nào còn lấy
một đôi ủng cho ra hồn, chỉ gọi nó là có vẻ thế chứ ủng iếc gì một người
lính nói để mở đầu một câu chuyện khác.

- Bọn cô-dắc lột hết ủng của chúng đấy. Khi dọn nhà cho đại tá nghỉ, họ
vứt chúng ra ngoài. Trông đến thảm, các cậu ạ, - người lính giẫm chân
lúc nãy nói - Khi xem lại thấy có một thằng còn sống, cậu có tin không,
hắn cứ nói lúng búng cái gì ấy.

- Mà chúng nó sạch thật đấy các cậu ạ, - người thứ nhất nói - Trắng lốp
như bạch dương ấy, có nhiều tay trông bảnh lắm, cậu ạ, chắc là con nhà
quý phái.

- Thế cậu tưởng sao? Bên ấy thuộc tầng lớp nào cũng phải đi lính.

- Mà chúng nó chẳng biết lấy một tiếng Nga nào - người lính giẫm chân
nói, miệng mỉm cười ra vẻ băn khoăn, - Mình bảo hắn: "Mày theo vua
nào?", thế là hắn nói xí xéo một thôi. Người ngợm kỳ thật?

Cái này mới lạ chứ, các cậu, - người vừa lấy làm lạ về nước da
trắng trẻo của quân Pháp nói, - Nông dân họ kể lại rằng ở Mozaisk khi
thu dọn chiến trường, xác của chúng nằm ở đấy đến một tháng trời rồi, họ
bảo thế. Chúng nằm đấy, trắng phau như tờ giấy, họ bảo thế, sạch bong,
chả có tí mùi gì.

- Chắc vì trời lạnh quá chứ gì? - một người hỏi.

- Chà cậu thông minh nhỉ! Lạnh gì! Hồi ấy bức bỏ mẹ đi ấy chứ. Nếu lạnh
thì xác của quân ta cũng chả thối. Đây họ bảo là hễ đến gần một xác lính
ta, là thấy nhung nhúc những dòi. Thế là phải lấy khăn bịt mũi, họ bảo
thế, rồi quay mặt đi mà kéo, không sao chịu được. Cái xác của chúng thì
trắng phau như tờ giấy, họ bảo thế, chả có tí mùi gì.

Mọi người im lặng một lát.

- Chắc vì thức ăn đấy, - viên hạ sĩ quan nói, - Bọn chúng ăn sang như ông lớn ấy.

Không ai cãi lại anh mu-gich ấy, cái anh ở Mozaisk nơi có đánh trận
ấy mà, có nói là sau trận đánh nhau, họ đã huy động mười hai làng ra
dọn trong hai mươi ngày mà vẫn chưa hết xác. Nghe nói chó sói…

- Ừ trận ấy ghê lắm, - người lính già nói, - Chỉ có trận ấy mới đáng nhớ, còn về sau thì… chỉ khổ là khổ thôi.

- Đúng đấy bác ạ. Hôm kia chúng tôi vừa gặp chúng, nhưng chúng có để cho
mình lại gần đâu: Chưa chi đã vứt cả súng. Quỳ cả xuống. Pardon(1),
chúng nó nói thế. Lính tráng thế đấy, chỉ làm vì thôi mà. Nghe nói ông
Platov đã hai lần bắt được thằng cha Polion(2) ấy nhưng ông ta không
biết cách. Ông ta bắt một cái, thế mà hắn biến thành con chim bay mất
tăm. Mà cũng chả có cách gì biết được hắn.

- Chà xem ra cậu nói láo cừ thật đấy, Kixeliev ạ.

- Nói láo là thế nào? Thật mười mươi đấy.

- Phải tay tớ thì bắt được một cái là tớ chôn ngay xuống đất xong cắm
một cái cọc gỗ phong vào. Hắn đã làm cho bao nhiêu người chết.

- Đằng nào rồi hắn cũng hết đời thôi, - người lính già vừa ngáp vừa nói.

Câu chuyện bị bỏ lửng, các binh sĩ bắt đầu dọn chỗ ngủ.

- Cậu nhìn sao kìa, sáng lạ lùng! Các bà nhà ta căng vải lên trời đây - Một người lính vừa ngắm dải Ngân hà vừa nói.

- Điềm được mùa đấy các cậu ạ. - Phải kiếm ít củi nữa mới đủ.

- Lưng thì ấm mà bụng thì lạnh buốt. Lạ thật?

- Ô lạy Chúa!

- Sao lại cứ ẩy người ta thế, lửa đốt riêng cho mình cậu sưởi hẳn? Xem này… nằm ềnh ra….

Trong khoảng im lặng kế theo nghe có tiếng mấy người ngáy khò
khò: những người chưa ngủ trăn trở nằm lại cho ấm, thỉnh thoảng to nhỏ
mấy câu. Từ một bếp lửa xa xa cách đấy chừng trăm bước vẳng lại tiếng
cười vui vẻ.

- Cậu có nghe thấy không, dân đại đội năm đang cười, - một người lính nói, - Bên ấy sao đông thế nhỉ?

Một người lính đứng dậy đi sang đại đội năm rồi trở về nói:

- Bọn họ nói vui ra phết. Có hai thằng Pháp mới đến bên ấy. Một thằng cóng gần chết, còn thằng kia thì lém lắm? Hắn đang hát.

- Thế à? Thử sang xem xem, - Mấy người lính đi về phía đội năm.

Chú thích:

(1) Xin lỗi

(2) Ý muốn nói Napoléon.





9.
Đại đội năm hạ trại ngay ở ven rừng. Một đống lửa to tướng cháy
nhg rực giữa tuyết, hắt ánh sáng lên các cành cây nặng trĩu sương giá.

Vào khoảng nửa đêm, binh sĩ đại đội năm nghe trong rừng có tiếng chân bước và tiếng cành khô gẫy răng rắc.

- Gấu, các cậu ạ - một người lính nói.

Mọi người đều ngẩng đầu lên nghe ngóng, và tại khu rừng thấy có
hai bóng người ăn mặc kỳ dị, dìu nhau bước vào một vùng ánh sáng rực rỡ
của bếp lửa trại.

Đó là hai tên lính Pháp trốn trong rừng. Họ vừa đến gần bếp lửa
vừa cất cái giọng khàn khàn nói với nhau bằng một thứ tiếng mà đám binh
sĩ không hiểu. Một người đội mũ sĩ quan, cao hơn người kia một chút, và
có vẻ đã hoàn toàn kiệt sức. Bên cạnh bếp lửa, hắn muốn ngồi xuống nhưng
lại ngã lăn ra đất. Người kia là một người lính thấp lùn đầu trùm khăn
vuông, trông khoẻ mạnh hơn người kia.

Hắn đỡ bạn dậy, rồi chỉ vào mặt nói một câu gì chẳng ai hiểu. Binh
sĩ xúm quanh hai người Pháp, trải một chiếc áo khoác ra cho người ốm nằm
và đem cháo, vodka ra cho họ.

Viên sĩ quan Pháp yếu là Rambai, người lính trùm khăn là Morel, cần vụ của hắn.

Khi đã uống hết chỗ vodka và ăn hết một bát cháo, Morel bỗng vui lên
một cách bệnh tật và bắt đầu nói luôn mồm, binh sĩ chẳng ai hiểu gì
sất. Rambal không ăn được, lặng thinh chống khuỷu tay nằm cạnh đống lửa,
hai mắt đỏ ngầu đờ đẫn nhìn các binh sĩ Nga, chốc chốc lại rên một
tiếng kéo dài rồi im lặng. Morel chỉ vào vai hắn, ra hiệu rằng hắn là sĩ
quan, và cần phải cho hắn sưởi. Một sĩ quan Nga vừa đến cạnh đống lửa
cho người đi hỏi đại ta xem ông ta có thể cho viên sĩ quan Pháp vào nhà
sưởi được không, một lát sau người được phái đi trở về và nói rằng đại
tá bảo cho dẫn viên sĩ quan vào. Họ bảo Rambal đi. Hắn đứng dậy và đã
toan cất bước đi thì loạng choạng suýt ngã, may có một người lính đứng
cạnh đỡ hắn.

- Sao? Chừa thôi chứ? - một người lính nháy mắt ngạo nghễ nói với Rambal.

- Ê đồ ngu! Nói nhảm gì thế! Đồ nhà quê, thật là đồ nhà quê! - bốn phía có tiếng nhao nhao trách mắng người lính vừa nói đùa.

Họ quây lấy Rambal, hai người bắt chéo tay nhau nhắc Rambal lên
và khiêng hắn vào nhà. Rambal ôm choàng lấy cổ hai người lính và khi họ
khiêng hắn đi, hắn cất giọng thảm thiết nói.

- Ôi các bạn ơi, các bạn của tôi tốt quá, các bạn tốt quá! Như thế mới thật là người! Ôi, các bạn của tôi tốt quá, tốt quá!

Rồi như con nít, Rambal tựa đầu vào vai một trong hai người lính đang khiêng hắn.

Trong khi đó Morel ngồi vào chỗ rồi hát, các binh sĩ quây quần xung quanh.

Morel là một người lính Pháp thấp lùn, đôi mắt sưng húp, nước mắt
giàn giụa, một chiếc khăn vuông trùm đầu, mình mặc một chiếc áo khoác
đàn bà. Hình như đã say khướt, hắn dang cánh tay ôm quàng lấy người lính
ngồi cạnh, cất cái giọng khàn khàn và đứt quãng hát một bài hát Pháp,
binh sĩ nhìn hắn, bấm bụng nhịn cười.

- Này, này, dạy tớ bài hát với nhé, thế nào nào? Tớ sẽ chộp được ngay
cho mà xem. Thế nào nào? - người lính Morel ôm quàng nói - anh ta vốn là
một tay rất hay hát và hay đùa.

Vive Henri quatre

Vive ce roi vainallt!(1)

Morel vừa nháy mắt vừa hát.

Ce diable à quatre

- Vivarka! Vifxeruvaru! Xicdyablika. - người lính vừa huơ cánh tay vừa lặp lại. Quả nhiên anh ta đã thuộc được điệu hát.

- Chà tài thật! Hô - hô - hô - hô! - một tiếng cười vui vẻ, thô lỗ vang lên bốn phía. Morel cũng cười, nhăn cả mặt lại.

Nào, hát nữa đi, nữa đi!

Qui est le triple talent

De boire de battre

Et d être un vert galant.

Nghe cũng hay ra phết. Nào, nào, Zaletaiev!

- Kiu. - Zaletiev khó nhọc lặp lại. Ki - uy - uy -, anh ta cố gắng chúm
môi phát âm kéo dài ra. - Letnptala đê bu đê baê đêtravagala, anh ta
hát.

- Chà hay quá! Đúng làm một thằng Pháp! Ô hô - hô - hô - hô - hô! nào, có muốn ăn nữa không?

- Cho hắn ít cháo nữa, đói meo như thế thì phải ăn nữa vào mới no.

Họ lại múc cháo cho Morel, và hắn vừa cười vừa tấn công vào chiếc
cà-mèn cháo thứ ba. Trên gương mặt những người lính trẻ đang nhìn Morel
đều nở một nụ cười vui sướng. Những người lính già, cho rằng bận tâm đến
những trò vớ vẩn như vậy là không đứng đắn nên cứ nằm yên ở bên kia
đống lửa, nhưng thỉnh thoảng lại chống khuỷu tay nhổm lên, mỉm cười nhìn
Morel.

- Chúng cũng là người như ta cả, - một người lính già vừa nói vừa cuộn
mình trong chiếc áo khoác - Cây cỏ đắng cũng biết đâm rễ chứ.

- Ô hô! Lạy chúa, lạy Chúa! Sao đâu mà lắm thế! Sắp già đến nơi rồi… - Và mọi vật chìm trong sự im lặng.

Các vì sao, dường như cũng biết rằng bây giờ chẳng có ai nhìn
mình, thi nhau lấp lánh trên nền trời đen xẫm. Khi sáng bờng lên, khi
tắt ngấm, khi lung linh run rẩy, chúng nô nức thì thầm với nhau một
chuyện gì vui vẻ nhưng huyền bí.

Chú thích:

(1) Vua Henri IV muôn năm, nhà vua dũng cảm ấy muôn năm! Thật là một tay
cừ khôi, có ba tài năng, là uống rượu, đánh nhau và lịch thiệp với phụ
nữ (dân ca Pháp)
hết: Chương - 8 -9 -, xem tiếp: Chương - 10 -11 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 EmptyWed Jan 05, 2011 10:19 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XV

Chương - 10 -11 -


Quân đội Pháp cứ tuần tự tan rã theo một cấp số toán học đều đặn,
và cuộc hành quân qua sông Berezina mà người ta bàn rất nhiều trong các
sách vở, chẳng qua chỉ là một trong những cái mốc chuyển tiếp trong quá
trình tiêu diệt của quân đội Pháp, chứ tuyệt nhiên không phải là một
giai đoạn quyết định của chiến dịch. Sở dĩ trước kia cũng như hiện nay
người ta viết nhiều về trận Berezina như vậy, nếu xét về phía người
Pháp, chẳng qua là vì trên cầu Berezina sụp đổ, những tai ương mà quân
Pháp đã lần lượt chịu đựng bấy lâu nay bỗng dồn vào một lúc làm thành
một cảnh tượng thảm khốc khắc sâu vào trí nhớ người ta. Còn về phía
người Nga, thì sở dĩ người ta nói và viết về Berezina nhiều như vậy cũng
chỉ vì cách xa nơi diễn ra chiến sự, ở Petersburg, người ta đã vạch ra
một kế hoạch (chính phủ là người đề xướng) bắt sống Napoléon trong một
cuộc phục kích chiến lược trên sông Berezina. Ai nấy đều tin chắc rằng
mọi việc trong thực tế sẽ xảy ra đúng như trong kế hoạch, cho nên họ đều
một mực nói rằng chính cuộc chuyển quân qua sông Berezina đã đưa quân
Pháp đến diệt vong. Nhưng thật ra những hậu quả của cuộc vượt sông này,
về số đại bác và quân lính bị bãt còn ít tai hại hơn trận Kraxnoye, như
những con số thống kê đã cho thấy.
Ý nghĩa duy nhất của cuộc vượt sông Berezina là ở chỗ cuộc hành
quân ấy chứng tỏ một cách hiển nhiên và không còn nghi ngờ gì được nữa
rằng tất cả những kế hoạch nhằm cắt đứt quân địch đều sai lầm và cách
hành động do Kutuzov yêu cầu - chỉ theo sau quân địch - là cách hành
quân duy nhất có thể thực hiện được vì duy nhất đúng. Đám quân Pháp bỏ
chạy với tốc độ tăng lên không ngừng, bao nhiêu tinh lực của chúng đều
hướng vào việc đạt đến mục tiêu.
Quân Pháp chạy như một con thú bị thương, và nó không thể dừng lại ở
giữa đường được. Chứng tỏ điều đó rõ ràng hơn cả không phải là việc tổ
chức qua sông mà là cách di chuyển trên các cầu. Khi mấy cái cầu sập,
những người lính mất vũ khí, những người dân Moskva, những người đàn bà
có con mọn ngồi trên các xe tải của Pháp, tất cả, do ảnh hưởng của quán
tính, đều không chịu hàng mà lại ùa xuống thuyền, xuống nước.
Xu hướng ấy là hợp lý. Tình cảnh của kẻ chạy trốn cũng như người
đuổi theo đều gian khổ như nhau. Ở lại với quân mình, mỗi người trong
cơn hoạn nạn đều hy vọng vào sự giúp đỡ của đồng đội, vào cái vị trí
nhất định của mình trong quân ngũ. Còn nếu đầu hàng quân Nga, thì tình
cảnh vẫn bi đát như thế, nhưng mình thì lại bị đưa xuống ngạch thấp nhất
về mặt thoả mãn những nhu cầu sinh hoạt. Binh sĩ Pháp cần phải có những
tài liệu đích xác mới biết rằng trong số tù binh mà quân Nga chẳng biết
xử trí ra sao thì một nửa đã chết đói và chết rét mặc dầu quân Nga rất
muốn cứu vớt họ; lính Pháp, cảm thấy không thể nào khác được. Những viên
chỉ huy Nga có lòng thương người nhất hoặc ưa thích người Pháp nhất, và
ngay cả những người Pháp tòng sự Nga hoàng nữa, cũng đều không thể làm
gì để giúp đỡ tù binh cả. Chính cái tình cảm bi đát của quân đội Nga đã
hãm hại tù binh Pháp. Không thể nào tước bớt bánh mì và áo choàng của
những binh sĩ đói khổ mà người ta đang cần để cấp cho những tù binh Pháp
bấy giờ không còn nguy hiểm gì nữa, cũng không ai thù ghét, cũng chẳng
có tội gì, nhưng vẫn là những con người vô dụng. Cũng có đôi người làm
như vậy; nhưng đó chỉ là ngoại lệ.
Sau lưng là cái chết chắc chắn; phía trước là hy vọng. Chiến
thuyền đã bị tiêu huỷ(1), không còn có lối thoát nào ngoài cách cùng
nhau chạy trốn, và tất cả tàn lực quân Pháp đều tập trung vào việc cùng
nhau chạy trốn.
Quân Pháp càng chạy thì tàn quân của họ càng thảm hại, nhất là sau
Berezina là trận mà kế hoạch Petersburg đã khiến cho người ta đặc biệt
hy vọng, và các tướng tá Nga lại càng hằn học đổ lỗi cho nhau, nhất là
đổ lỗi cho Kutuzov. Họ cho rằng người ta sẽ bắt Kutuzov chịu trách nhiệm
về sự thất bại ở Berezina cho nên sự bất mãn, khinh miệt và thái độ
nhạo báng đối với ông càng ngày càng lộ rõ. Thái độ nhạo báng và khinh
miệt ấy dĩ nhiên là biểu lộ ra dưới một hình thức kính cẩn, một hình
thức khiến cho Kutuzov cũng không thể hỏi xem họ buộc cho ông tội gì và
nhân việc gì mà buộc tội. Người ta nói với Kutuzov một cách không nghiêm
túc; khi báo cáo hoặc xin phép ông một việc gì, họ làm ra vẻ như đang
thi hành một nghi thức rầu rĩ, còn sau lưng ông thì họ nháy nhau và lúc
nào cũng cố tìm cách lừa ông.
Tất cả những con người ấy, chính họ vì không hiểu ông, đều công
nhận với nhau rằng chẳng việc gì phải bàn bạc với cái lão già ấy rằng
không bao giờ ông ta hiểu biết được cái sâu sắc của những kế hoạch họ
vạch ra, rằng ông sẽ trả lời những câu đã nhàm tai (họ tưởng đó chỉ là
những câu nói rỗng tuếch) về cái cầu bằng vàng, về việc không thể nào
vượt biên giới với một lũ thân tàn ma dại v.v. Những câu đó họ đều đã
được nghe ông nói. Và tất cả những điều Kutuzov nói ra: chẳng hạn như
cần phải đợi tiếp tế, quân lính không có giày, tất cả những điều đó đều
đơn giản, còn tất cả những điều họ đề nghị đều phức tạp và thông minh
đến nôi họ thấy rõ như ban ngày rằng Kutuzov ngu ngốc và lẩm cẩm, còn họ
thì lại là những danh tướng thiên tài nhưng không có quyền hành.
Đặc biệt sau khi Vitghenstain, một độ đốc hải quân xuất sắc và là
vị anh hùng của Petersburg, bắt liên lạc với quân đội, tâm trạng khinh
miệt và những chuyện ngồi lê đôi mách ở bộ tham mưu lại càng gay gắt hơn
bao giờ hết. Kutuzov thấy thế chỉ thở dài và so vai. Duy có một lần,
sau vụ Berezina, ông nổi giận lên viết thư cho Benrigxen, người vẫn báo
cáo riêng với hoàng thượng, như sau:
"Xét tình trạng sức khoẻ của Quan lớn, nay xin Quan lớn vui lòng đi
Kaluga nhận được thư này. Ở đấy Quan lớn sẽ đợi lệnh của Hoàng thượng
bổ nhiệm công vụ mới".
Nhưng sau khi Benrigxen bị huyền chức, đại công tước Konxtantin
Pavlovich, người đã tham gia giai đoạn đầu của chiến dịch và đã bị
Kutuzov gạt ra ngoài, lại trở lại quân đội. Bây giờ đại công tước cho
Kutuzov hay rằng Hoàng đế bất bình về những thắng lợi xoàng xĩnh và cách
di chuyển chậm chạp của quân ta. Hoàng đế có ý định nay mai sẽ thân
hành đến quân doanh.
Kutuzov, con người già cả đã giàu kinh nghiệm trong triều đình
cũng như trong việc quân, con người đã được chọn làm tổng tư lệnh trái
với ý muốn của nhà vua vào tháng tám năm ấy, đã gạt thái tử ra khỏi quân
đội, đã dùng quyền quyết định bỏ Moskva trái với ý muốn nhà vua, - con
người ấy bây giờ hiểu ngay rằng mình đã hết thời, rằng vai trò của mình
đã kết thúc và cái hư quyền của mình cũng không còn nữa. Vả chăng ông ta
hiểu điều đó không phải chỉ về phương diện triều thần. Một mặt ông thấy
rằng chiến sự - trong đó ông có một vai trò riêng - đã chấm dứt, và cảm
thấy sứ mệnh của mình đã làm tròn. Mặt khác cái thân hình già nua của
ông cũng bắt đầu thấy mệt mỏi về thể xác và cần phải được nghỉ ngơi.
Ngày hai mươi chín tháng một Kutuzov đi Vilna - thành Vilna tốt lành
của ông, như ông thường nói. Trong cuộc đời làm quan, Kutuzov đã hai
lần giữ chức tổng đốc Vilna. Trong thành phố Vilna trù phú vẫn còn
nguyên vẹn, ngoài những tiện nghi sinh hoạt mà bấy lâu nay ông phải chịu
thiếu thốn, Kutuzov còn tìm thấy lại những người bạn cũ và những kỷ
niệm xưa. Và, đột nhiên quay lưng lại với những nỗi lo âu về quân sự và
triều chính, ông buông mình vào cuộc sống bình lặng, quen thuộc, trong
chừng mực những dục vọng sôi sục ở xung quanh để cho ông yên, dường như
tất cả những việc gì đang diễn ra và sắp diễn ra trên đài lịch sử chẳng
còn dính dáng gì đến ông nữa…
Tsitsigov, một trong những những say sưa nhất chủ trương cắt đứt và
đánh bạt quân địch, Tsitsigov, người đã muốn tiến hành những công cuộc
biệt kích lúc đầu thì sang Hy Lạp, sau thì sang Varsava, nhưng nhất định
không chịu đến nơi mình được lệnh đến, Tsitsigov, người đã có tiếng là
dám nói năng mạnh dạn với hoàng đế, Tsitsigov, người vẫn xem Kutuzov như
kẻ chịu ơn mình vì năm 1811, khi ông được phái sang ký hoà ước với Thổ
Nhĩ Kỳ bên cạnh Kutuzov, và nghe tin hoà ước đã ký kết xong xuôi, ông đã
thừa nhận trước mặt hoàng đế rằng việc ký kết này là công lao của
Kutuzov; chính cái ông Tsitsigov ấy là người đầu tiên ra đón Kutuzov ở
Vilna, trước toà lâu đài mà Kutuzov sẽ ghé lại. Tsitsigov mặc quân phục
hải quân độ đốc, đoản kiếm đeo bên sườn, mũ lưỡi trai cắp nách, trao cho
Kutuzov bản báo cáo nghi thức và chùm chìa khoá của thành phố. Cái thái
độ kính cẩn đầy ý khinh miệt của bọn tướng tá trẻ tuổi đối với ông già
lẩm cẩm được phản ánh trọn vẹn trong thái độ của Tsitsigov, là người đã
biết rõ những lời buộc tội Kutuzov.
Trong khi nói chuyện với Tsitsigov, Kutuzov có nói rằng những cỗ
xe chở đĩa bát của ông ta bị cướp ở Borixovo vẫn còn nguyên và sẽ được
trao trả cho chủ nhân. Tsitsigov đỏ mặt nói:
- Ý ngài nói rằng tôi chẳng còn đã mà dọn ăn… Trái lại tôi có thể cung
cấp cho ngài đầy đủ, dù khi ngài có muốn mở tiệc cũng vậy - mỗi chữ của
Tsitsigov nói ra đều có ý nhằm chứng minh rằng ông ta phải, cho nên
Tsitsigov tưởng Kutuzov cũng có ý như vậy.
Kutuzov mỉm cười, nụ cười tế nhị, thâm thuý của ông, rồi nhún vai đáp:
- Ý tôi chỉ muốn nói những điều tôi vừa nói với ông thôi!
Ở Vilna, Kutuzov, trái với ý muốn của hoàng đế đã cho đại quân
dừng lại. Như những người thân cận Kutuzov vẫn nói, ông đã suy yếu rất
nhiều và sức khoẻ sút hẳn trong thời gian ở lại Vinla. Ông miễn cưỡng lo
những công việc trong quân đội, việc gì cũng giao cho các thuộc tướng
làm thay và, trong khi chờ đợi hoàng đế, ông sống một cách phóng túng.
Nhà vua cùng với đoàn tuỳ giá gồm bá tướng Tolxtoy, công tước
Bolkonxki, Arakrseyev v.v. từ Petersburg ra đi ngày mồng bảy tháng chạp,
và đến ngày mười một thì đến Vilna. Chiếc xe trượt tuyết đi đường của
nhà vua đến thẳng toà lâu đài. Trước toà lâu đài mặc dầu trời giá căm
căm, có chừng một trăm viên tướng và sĩ quan tham mưu mặc đại quân phục
và đội vệ binh danh dự của trung đoàn Xemenovxki.
Viên sĩ quan liên lạc phóng chiếc xe trượt tuyết thắng ba con ngựa ướt
đẫm mồ hôi đến báo: "Ngài ngự!" Konovntxyn liền chạy vào tiền sảnh báo
tin cho Kutuzov bấy giờ đang ngồi đợi trong phòng nhỏ của người gác
cổng.
Một phút sau, bóng dáng to béo của vị tướng già, mình mặc đại
quân phục ngày lễ, bao nhiêu huân chương đều đeo hết lên ngực, bỗng thắt
chiếc đai thao, khệnh khạng bước ra thềm. Kutuzov đội mũ thăng bằng,
tay cầm găng, khó nhọc nghiêng người sang một bên bước xuống các bậc và
cầm lấy bản báo cáo nghi thức đã chuẩn bị sẵn để trao cho hoàng đế.
Các tướng tá chạy đi chạy lại, nói thì thầm, thêm một chiếc xe tam
mã lao vụt qua, vài mắt mọi người đều đổ dồn vào cỗ xe trượt tuyết đang
lao tới; trên xe đã thấy rõ bóng dáng hoàng đế và Bolkonxki.
Tất cả những điều đó, do một thói quen cũ hàng năm mươi năm nay,
khiến vị tướng già bồi hồi xúc động, ông hấp tấp sờ nắn mình một cách
lo lắng, sửa lại chiếc mũ và ngay khi nhà vua xuống xe và ngước mắt lên
nhìn ông, Kutuzov rướn thẳng người đứng nghiêm trao bản báo cáo rồi cất
tiếng nói thong thả và lễ độ.
Nhà vua đưa mắt rất nhanh nhìn Kutuzov từ đầu đến chân, cau mày
trong giây lát, nhưng rồi tự chủ được ngay, đến gần và dang tay ra ôm
lấy vị tướng già. Một lần nữa, do một ấn tượng quen thuộc và do một ý
nghĩ thầm kín của ông, cử chỉ này của nhà vua lại tác động đến Kutuzov
như thường lệ: ông khóc nấc lên một tiếng.
Nhà vua chào hỏi các sĩ quan, đội vệ binh danh dự của trung đoàn
Xemenovxki; bắt tay vị tướng già lần nữa rồi cùng ông ta đi vào lâu đài.
Ngồi lại một mình với vị nguyên soái, nhà vua nói rõ sự bất bình
của mình đối với cuộc truy kích chậm chạp, đối với những lỗi lầm ở
Kraxnoye và ở Berezina, rồi cho ông ta biết những ý định của mình về
cuộc hành quân sau này ở nước ngoài. Kutuzov không phản bác hay nhận xét
gì cả. Cái vẻ nhẫn nhục và đờ dẫn của ông bảy năm về trước khi đứng
nghe lệnh hoàng đế trên chiến trường Auxteritx nay lại hiện lên trên
gương mặt ông.
Khi Kutuzov ra khỏi phòng làm việc và cúi đầu bước qua phòng với
dáng đi nặng nề, thân hình chúc về phía trước, có tiếng ai gọi ông dừng
lại.
- Thưa điện hạ.
Kutuzov ngẩng đầu lên và nhìn vào mắt bá tước Tolxtôi hồi lâu;
bây giờ bá tước đứng trước mặt ông, tay cầm một chiếc đĩa bạc trên có
đặt một vật gì nho nhỏ. Kutuzov có vẻ như không hiểu người ta muốn gì
mình.
Bỗng ông như chợt hiểu: một nụ cười hầu như không thể thấy được
thoáng hiện trên gương mặt béo phị, và ông kính cẩn nghiêng mình cầm lấy
cái vật nhỏ đặt trên đĩa. Đó là chiếc huân chương Georges hạng nhất.

Chú thích:
(1) Thành ngữ: "tiêu huỷ chiến thuyền" có nghĩa là đánh nước cờ liều nếu không thành thì không còn lối thoát nào nữa


11.
Ngày hôm sau, nguyên soái mở tiệc và vũ hội, được hoàng đế hạ cố
tham đự. Kutuzov được thưởng huân chương Georges hạng nhất; nhà vua tỏ
ra hết sức trọng vọng ông; nhưng mọi người đều biết nhà vua bất bình với
vị nguyên soái. Những nghi thức bề ngoài vẫn được giữ đúng lệ, và nhà
vua là người nêu gương đầu trong việc đó; nhưng ai nấy đều biết rằng ông
già có lỗi và đã trở thành vô dụng. Trong buổi vũ hội, khi Kutuzov theo
một tục lệ cũ thời Ekaterina, ra lệnh đem đặt các quân kỳ cướp được của
giặc dưới chân hoàng đế khi ngài bước vào phòng khiêu vũ, nhà vua nhăn
mặt tỏ vẻ khó chịu và nói câu gì trong đó có người nghe mấy tiếng "lão
kép hát già".
Ở Vilna nỗi bất bình của nhà vua đối với Kutuzov càng tăng thêm,
đặc biệt là vì Kutuzov hiển nhiên không chịu hoặc không thể hiểu nổi ý
nghĩa của chiến dịch sắp tới.
Sáng hôm sau, khi nhà vua nói với các sĩ quan được triệu đến rằng:
"Các vị đã cứu thoát không riêng gì nước Nga: các vị đã cứu thoát cả
châu Âu", thì mọi người ngay từ lúc ấy đã hiểu rằng cuộc chiến tranh
chưa phải đã kết thúc.
Chỉ riêng một mình Kutuzov không muốn hiểu điều đó và công khai
nói rằng một cuộc chiến tranh không thể cải thiện tình hình và làm tăng
vinh quang của nước Nga, mà chỉ có thể làm cho tình hình sút kém đi và
giảm bớt vinh quang của nước Nga hiện nay là lúc ông cho là đã đến tuyệt
đỉnh. Ông ra sức chứng minh cho nhà vua thấy rõ rằng không thể nào tập
hợp thêm được những binh lực mới; ông nói đến tình cảnh cơ cực của nhân
dân, đến khả năng thất bại v.v…
Với một tâm trạng như vậy, lẽ tự nhiên vị nguyên soái chỉ có thể là một trở ngại kìm hãm cuộc chiến tranh sắp tới.
Để tránh xung đột với ông già, một lối thoát tự nó hiện ra cũng
như ở Auxterlitx và như ở thời kỳ đầu chiến dịch với Barclay, là phải
rút khỏi chân vị nguyên soái - không làm cho ông ta kmh động, không cho
ông hay biết việc đó - cái bệ quyền hành mà ta đang đứng và trao lại cho
bản thân hoàng thượng.
Với mục đích ấy, người ta dần dần cải tổ bộ tham mưu, bao nhiêu
thực quyền của, bộ tham mưu Kutuzov đều bị thủ tiêu và chuyển vào tay
nhà vua. Toll, Konovnitxyn, Yermolov được giao những công vụ khác. Mọi
người đều lớn tiến nói rằng vị nguyên soái nay đã suy yếu lắm lắm và
tình trạng sức khoẻ của ông rất đáng lo ngại.
Sức khoẻ của ông phải suy sút như vậy thì mới có thể chuyển cương vị của
ông cho người thế chân. Và quả nhiên sức khoẻ của ông suy sút thật.
Trước đây, Kutuzov đã từ Thổ Nhì Kỳ đến Viện Tài chính ở
Petersburg trưng tập danh binh, rồi sau đó đến nhậm chức ở quân đội một
cách tự nhiên, đơn giản và tuần tự, đúng vào lúc người ta cần đến ông,
thì nay cũng vậy, khi vai trò của Kutuzov đã kết thúc, lại có một người
mới, một "người thích hợp" đến thay chân ông, cũng một cách tự nhiên,
đơn giản và tuần tự như thế.
Chiến cuộc 1812, ngoài cái ý nghĩa của chiến tranh nhân dân vốn
được lòng dân Nga nâng niu trìu mến, còn phải có một ý nghĩa khác nữa, ý
nghĩa của một cuộc chiến tranh châu Âu.
Sau cuộc di chuyển của các dân tộc từ phương Tây sang phương Đông
còn phải có một cuộc di chuyển của các dân tộc từ phương Đông sang
phương Tây, và cuộc chiến tranh này cần có một nhân vật mới có những
thuộc tính, quan điểm và động cơ khác Kutuzov.
Alekxandr đệ nhất, đối với việc di chuyển của các dân tộc từ phương Đông
sang phương Tây và việc phục hồi lại biên giới các dân tộc, cũng cần
thiết như Kutuzov cần thiết cho việc cứu sống và nêu cao vinh quang nước
Nga.
Kutuzov không hiểu thế nào là châu Âu, là thế cân bằng, là
Napoléon. Ông không thể hiểu những cái đó được. Người đại diện của nhân
dân Nga, sau khi quân thù đã bị tiêu diệt, nước Nga đã được giải phóng
và đưa lên đến tuyệt đỉnh của vinh quang, không còn việc gì để mà làm
nữa. Người đại diện của chiến tranh nhân dân chỉ còn một việc chết nữa
mà thôi. Cho nên ông đã chết.
hết: Chương - 10 -11 -, xem tiếp: Chương - 12 -13 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 EmptyWed Jan 05, 2011 10:19 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XV

Chương - 12 -13 -


Piotr, như thói thường vẫn thế, chỉ cảm thấy hết nỗi cơ cực của
những cảnh thiếu thốn và cảnh sống tù hãm trong thời gian bị bắt khi
những nỗi thiếu thốn và cảnh sống tù hãm ấy đã chấm dứt. Sau khi được
giải thoát, chàng về Orel và ở đấy được hai ngày, trong khi đang sửa
soạn đi Kiev, thì chàng lăn ra ốm và phải nằm lại ở Orel ba tháng ròng;
các bác sĩ nói rằng chàng bị bệnh sốt mệt. Mặc dầu các bác sĩ đã chạy
chữa, trích huyết và cho chàng uống đầy đủ các thứ thuốc chàng vẫn cứ
khỏi như thường.
Tất cả những việc đã xảy ra từ khi Piotr được giải thoát cho đến
khi chàng lâm bệnh đều không để lại một ấn tượng gì trong tâm trí chàng.
Chàng chỉ nhớ tiết trời xám xịt, u ám, hết mưa lại tuyết dầm dề, nhớ
cái cảm giác day dứt thể xác, cảm giác đau rát ở chân, chàng nhớ lại một
ấn tượng chung bao quát những nỗi bất hạnh, những nỗi thống khổ của con
người; chàng nhớ lại cái vẻ soi mói đã khiến chàng lo sợ, chàng nhớ lại
những khi chàng chạy vạy đi tìm xe và ngựa, và nhất là nhớ lại cái tình
trạng mất khả năng tư duy và cảm giác của chàng trong thời gian ấy. Hôm
được giải phóng, chàng đã trông thấy xác Petya Roxtov. Cùng ngày hôm ấy
chàng được biết rằng sau trận Borodino công tước Andrey còn sống thêm
hơn một tháng nữa và mãi gần đây mới chết ở Yaroxlav, trong nhà họ
Roxtov. Cũng ngày hôm ấy Denixov, sau khi cho Piotr biết tin này, giữa
chừng câu chuyện có nhắc đến cái chết của Elen, Denixov tưởng Piotr đã
biết tin này từ lâu. Lúc bấy giờ Piotr chỉ lấy làm lạ về tất cả những
việc đó. Chàng cảm thấy mình không thể hiểu được ý nghĩa của những tin
tức ấy. Lúc bấy giờ chàng chỉ nóng lòng mong sao chóng thoát khỏi những
nơi người ta đang chém giết lẫn nhau, tìm lấy một nơi ẩn náu yên tĩnh để
rồi định thần lại, nghỉ ngơi và suy nghĩ về tất cả những điều mới mẻ và
kỳ lạ mà chàng đã được biết trong thời gian ấy. Nhưng vừa đến Orel
chàng đã lăn ra ốm.
Hồi tỉnh lại sau trận ốm, Piotr thấy bên mình có hai người đầy tớ
của chàng là Terenti và Vaxka từ Moskva đến, và công tước tiểu thư
Katerina - người chị cả trong ba cô nữ công tước kia ở nhà cha chàng.
Thời gian gần đây cô tiểu thư trú ngụ ở Eletx, trong trang viên của
Piotr, nghe tin chàng ốm sau khi được giải phóng, cô ta đã lên Orel để
săn sóc chàng.
Trong thời gian bình phục, dần dần Piotr mới thoát khỏi những ấn
tượng của mấy tháng gần đây đã trở thành quen thuộc đối với chàng, và
mãi mới quen được với cái ý nghĩ là ngày mai chẳng còn ai lừa chàng đi
đâu cả, chẳng có ai tước mất chiếc gường ngủ ấm áp của chàng, và chắc
chắn thế nào cũng có bữa ăn trưa, bữa dùng trà và bữa ăn tối. Nhưng
trong một thời gian dài chàng vẫn còn chiêm bao thấy mình sống trong
hoàn cảnh tù đày như cũ. Cũng dần dà Piotr mới hiểu được những tin tức
chàng được biết sau khi được giải phóng: cái chết của công tước Anđey,
cái chết của vợ chàng, sự diệt vong của quân Pháp.
Cái cảm giác vui mừng khi thấy mình tự do - sự tự do toàn vẹn, bất
khả xâm phạm, vốn có trong bản chất con người, mà chàng đã nhận thức
được ở trạm nghỉ đêm đầu tiên từ Moskva - cảm giác ấy tràn ngập lòng
Piotr trong thời gian dưỡng bệnh. Chàng ngạc nhiên nhận thấy sự tự do
bên trong ấy, không lệ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài, nay dường như lại
được chắp thêm một thứ tự do bên ngoài, như thêm một cái gì thừa thãi,
xa hoa.
Chàng sống một mình, trong một thành phố xa lạ, không quen ai.
Không ai đòi hỏi gì ở chàng cả; không ai bắt ép chàng đi đâu cả.
Tất cả những gì chàng muốn có đều ở bên cạnh chàng; những ý nghĩ về vợ
chàng xưa kia vẫn ám ảnh chàng không ngớt nay không còn nữa, vì nàng
cũng không còn nữa.
- Ơ thích thật! Khoái thật! - chàng tự nhủ những khi người nhà đẩy
đến cạnh giường chiếc bàn phủ tấm khăn trắng tinh trên có đặt bát xúp
thơm phức những chi chàng nằm xuống chiếc gường sạch sẽ êm ái, hay những
khi chàng chợt nhớ ra rằng nay vợ chàng và quân Pháp đều không còn nữa -
Ồ, thích quá, khoái quá!
Và theo thói quen cũ chàng lại tự hỏi: "Nào, thế rồi sao? Ta sẽ
làm gì?" Và lập tức, chàng lại tự trả lời: "Chả sao cả. Ta sẽ sống. Chà
thích quá!"
Cái điều trước kia đã day dứt chàng, điều mà chàng đã hoài công tìm
kiếm - mục đích của cuộc đời - nay đối với chàng không còn tồn tại nữa.
Không phải tình cờ, không phải chỉ trong giờ phút ấy cái mục đích kia
mới không tồn tại đối với chàng; chàng cảm thấy cái ấy không làm gì có
và không thể nào có được. Và chính cái tình trạng không có mục đích ấy
đã đem lại cho chàng cái cảm giác tự do hoan hỉ đã là hạnh phúc của
chàng trong thời gian ấy.
Chàng không thể có mục đích, vì bây giờ chàng có niềm tin, -
không phải tin vào những quy tắc; những từ ngữ, hay những tư tưởng này
nọ, mà tin vào một Thượng đế sinh động, luôn luôn cảm giác được. Trước
kia chàng tìm Thượng đế trong những, mục đích mà chàng tự đặt ra cho
mình. Việc đi tìm mục đích ấy chẳng qua là đi tìm Thượng đế, và đột
nhiên trong thời gian bị cầm tù chàng được biết, không phải bằng những
từ ngữ, bằng suy luận, mà bằng cảm giác trực tiếp, cái điều mà u già của
chàng đã nói với chàng từ lâu: Thượng đế ở đây ở kia, ở khắp nơi. Trong
khi bị cầm tù chàng đã được biết rằng đấng Thượng đế trong Karataiev
còn vĩ đại, vô tận và khó hiểu thấu hơn cả đấng kiến trúc sư của vũ trụ
mà hội Tam điểm thừa nhận. Chàng có cái cảm giác của một con người chợt
thấy mình đang tìm kiếm nằm ngay dưới chân, trong khi mình ra sức vận
dụng nhãn lực nhìn thật xa. Suốt đời chàng đã nhìn ở đâu đâu phía trên
đầu những người xung quanh, nhưng thật ra việc cần làm không phải là vận
dụng nhãn lực, mà chỉ là nhìn thẳng trước mặt mình.
Trước kia, chàng không biết nhìn thấy cái vĩ đại cái không thể hiểu
thấu, cái vô cùng, dù là trong vật gì cũng thế. Chàng chỉ cảm thấy rằng
chắc nó phải ở đâu đây, và chàng tìm nó. Trong những cái gần gũi, dễ
hiểu, chàng chỉ thấy một cái gì hữu hạn, nhỏ nhặt, tầm thường vô nghĩa.
Chàng tự vũ trang bằng một chiếc viễn kính tinh thần và nhìn ra xa, nơi
mà cái nhỏ nhặt, tầm thường kia mờ đi trong khoảng không mù mịt, rồi
tưởng chính đó là cái vĩ đại, là vô cùng chỉ vì mình không trông được
rõ. Chàng đã hình dung cuộc sinh hoạt âu châu, chính trị, hội Tam điển,
triết học, lòng từ thiện như vậy đấy Nhưng ngay những lúc ấy, những giờ
phút mà chàng cho là mình yếu đuối, trí tuệ của chàng đã đi sâu vào cõi
xa xăm ấy, và ở đấy chàng vẫn trông thấy những cái nhỏ nhặt, tầm thường
vô nghĩa kia. Còn bây giờ thì chàng đã biết được cách nhìn thấy cái vĩ
đại cái vĩnh viễn là cái vô cùng trong mọi vật, cho nên lẽ tự nhiên là
để thấy nó, để hưởng thụ cái khoái cảm được chiêm ngưỡng nó, chàng đã
vứt bỏ chiếc viễn kính mà trước nay chàng vẫn dùng để nhìn qua đầu những
con người, và vui mừng ngắm cuộc sống không ngừng thly đổi vĩnh viễn vĩ
đại, không sao hiểu thấu và vô cùng vô tận đang diễn ra quanh chàng. Và
càng nhìn gần bao nhiêu, chàng lại càng thấy yên tĩnh và sung sướng bấy
nhiêu. Cái câu hỏi khủng khiếp trước kia đã làm sụp đổ tất cả những
kiến trúc trí tuệ của chàng: "Vì sao?" Bây giờ không còn tồn tại đối với
chàng nữa. Bây giờ trong lòng chàng bao giờ cũng có một câu trả lời đơn
giản sẵn sàng đáp lại câu hỏi đó: Vì Thượng đế, đấng Thượng đế mà nếu
không phải do ý chí của Người thì không có một sợi tóc nào của chúng
sinh có thể rơi xuống.

13.
Piotr hầu như không có gì thay đổi trong phong thái bên ngoài.
Trông chàng vẫn hệt như xưa. Cũng như xưa, chàng thường đãng trí và có
vẻ không chú ý tới những việc đang diễn ra trước mắt mà lại mải mê bận
tâm về một điều gì riêng tư, đặc biệt. Có khác chăng là trước kia khi
chàng quên những việc đang diễn ra trước mắt, quên những điều người ta
đang nói với chàng, thì chàng cau trán lại một cách đau đớn, dường như
đang cố sức mà không sao thấy rõ một cái gì cách chàng rất xa. Bây giờ
chàng vẫn thường quên những điều người ta nói với chàng, quên những việc
diễn ra trước mắt, nhưng bây giờ, với một thoáng nụ cười dường như ngạo
nghễ, chàng nhìn ngay vào những điều đang diễn ra trước mắt, lắng nghe
những điều người ta đang nói với chàng, tuy có thể thấy rõ rằng chàng
nhìn thấy và nghe thấy một điều gì khác hẳn. Trước kia, chàng có vẻ là
một người tuy có hiền lành nhưng lại khổ sở, cho nên người ta bất giác
xa lánh chàng. Bây giờ nụ cười vui sướng luôn luôn thấp thoáng trên môi
chàng, và mắt chàng long lanh niềm đồng cảm với những người chung quanh,
như có ý hỏi: họ có sung sướng như chàng không, và khi có mặt chàng
người ta thấy dễ chịu.
Trước kia chàng nói nhiểu, khi nói thường nổi nóng lên và nghe rất
ít, bây giờ chàng ít khi sôi nổi trong khi nói chuyện, chàng có một
cách nghe chuyện làm cho người ta sẵn lòng thổ lộ với chàng những điều
sâu kín nhất.
Nữ công tước Katerina xưa nay vốn chẳng ưa gì Piotr và nhất là từ
khi lão bá tước chết lại càng có ác cảm với chàng, vì thấy mình phải
chịu ơn chàng; nhưng đến nay, sau khi đến Orel một thời gian ngắn với ý
định tỏ rõ cho Piotr biết rằng tuy chàng bạc nghĩa như vậy cô ta cũng
vẫn thấy mình có nhiệm vụ săn sóc chàng, nữ công tước đã bực mình và
ngạc nhiên nhận thấy mình mến chàng. Piotr không hề làm gì để gây thiện
cảm của nữ công tước. Chàng chỉ tò mò nhìn cô ta. Trước kia mỗi khi
chàng nhìn cô ta, nữ công tước cảm thấy trong khoé mắt chàng chỉ có sự
thờ ơ và chế giễu, và cũng như trước mặt những người khác, cô ta đã co
rụt lại và chỉ đưa ra cái khía cạnh đối phó của mình; bây giờ thì ngược
lại, nữ công tước cảm thấy dường như chàng tìm cách hiểu thấu những khía
cạnh sâu kín nhất của tâm hồn cô ta; và lúc đầu còn e ngại, rồi dần dần
cảm khích, cô tả đã mở ra cho chàng những khía cạnh tốt đẹp ẩn kín
trong tâm hồn mình.
Dù là người xảo quyệt đến đâu cũng không thể nào len lỏi vào lòng
tin của nữ công tước một cách khéo léo như Piotr. Chàng gợi lại những kỷ
niệm đẹp nhất trong thời niên thiếu của nữ công tước và tỏ lòng đồng
cảm với cô. Nhưng thật ra tất cả cái khôn khéo của Piotr chẳng qua là ở
chỗ chàng chỉ muốn thoả mãn ý thích của mình trong công việc thức tỉnh
những tỉnh cảm tốt đẹp của con người ở cô nữ công tước chua chát, khô
khan và kiêu hãnh theo một kiểu riêng ấy.
- Phải, anh ấy là một người tốt, rất tốt, khi nào không bị ảnh hưởng của
những người xấu, mà chịu ảnh hưởng của những người như ta, - nữ công
tước tự nhủ như vậy.
Sự thay đổi diễn ra trong Piotr cũng được các gia nhân của chàng -
Terenty và Vaxka, nhận thấy theo cách riêng của họ. Họ cho rằng chàng
nay đã giản dị đi nhiều. Đêm đêm sau khi cởi áo cho chủ đi nằm và chúc
ngủ ngon giấc, Terenty, tay cầm đôi ủng, chiếc áo, thường nấn ná lại một
lúc chờ xem ông chủ có bắt chuyện không. Và phấn lớn Piotr đều giữ
Terenty lại mỗi khi thấy anh ta muốn nói chuyện.
- Này, anh thử kể tôi nghe… dạo ấy các anh làm cách nào kiếm được
thức ăn? - chàng hỏi. Và Terenty bắt đầu kể chuyện về cảnh điều linh của
thành Moskva, về bá tước quá cố. Anh ta cầm chiếc áo đứng hồi lâu trong
phòng Piotr, kể chuyện cho chàng nghe và đôi khi nghe chàng kể chuyện,
rồi lui ra phòng ngoài với cảm giác dễ chịu thấy chàng gần gũi mình và
thấy mình mến chàng như một người bạn.
Người thầy thuốc chữa bệnh cho Piotr và ngày nào cũng đến thăm chàng,
tuy tự thấy mình có nhiệm vụ làm ra vẻ như mỗi phút của mình đều quý giá
cho nhân loại khổ đau - như thói thường các bác sĩ vẫn thế - nhưng cũng
ngồi hàng giờ ở phòng Piotr kể cho chàng nghe những mẩu chuyện ưa thích
về những điều quan sát về thái độ những người bệnh nói chung và đặc
biệt là thái độ các nữ bệnh nhân.
- Phải, với một người như vậy nói chuyện thật thú vị, không phải như ở tỉnh xép nhà mình, - ông ta thường nói.
Ở Orel có mấy viên sĩ quan tù binh Pháp trú ngụ; ông thầy thuốc
đưa đến nhà Piotr một trong các sĩ quan đó, một người Ý trẻ tuổi.
Viên sĩ quan bắt đầu lui tới nhà Piotr, và nữ công tước thường đùa
cợt về những tình cảm đằm thắm mà viên sĩ quan người Ý biểu lộ với
Piotr.
Người Ý ấy hình như chỉ sung sướng khi nào có thể đến nói chuyện
với Piotr, kể cho chàng nghe về những quãng đời dĩ vãng, về cuộc sống
gia đình, về những cuộc tình duyên của mình và thổ lộ cho chàng biết
lòng căm giận quân Pháp và nhất là Napoléon.
- Nếu người Nga đều giống ông cả, dù chỉ ít nhiều thôi, - viên sĩ quan
người Ý nói với Piotr - thì gây chiến tranh với một dân tộc như dân tộc
ông thật là một tội báng bổ. Ông đã phải chịu khổ sở vì quân Pháp như
vậy mà thậm chí cũng không hề có ý oán trách gì họ cả.
Và sở dĩ Piotr chiếm được tình yêu mến bồng bột của người Ý kia
cũng chỉ vì chàng đã thức tỉnh được những khía cạnh tốt đẹp nhất trong
tâm hồn anh ta và đã biết quý trọng những khía cạnh ấy.
Vào cuối thời gian Piotr ở Orel, có một người quen cũ đến thăm
chàng. Đó là bá tước Vinarxki là một người hội viên Tam điểm đã kết nạp
chàng năm 1807. Vinarxki lấy một người vợ Nga giầu có, có những điền
trang lớn ở tỉnh Orel, và bấy giờ ông ta đang giữ một chức vụ lâm thời
trong sở tiếp tế lương thực của thành phố.
Nghe tin Piotr ở Orel, Vinarxki, tuy xưa nay chưa bao giờ quen
thân với chàng, cũng đến gặp chàng với thái độ niềm nở và thân mật mà
những người tình cờ gặp nhau trên sa mạc thường có. Ở Orel, Vinarxki
thấy chán, nên rất vui mừng khi được gặp một người cùng giới và cũng chí
hướng - ông ta tưởng thế.
Nhưng chẳng bao lâu, Vinarxki phải ngạc nhiên nhận thấy rằng Piotr
lạc hậu đối với tình hình sinh hoạt hiện tại và, như lời ông ta dùng để
định nghĩa Piotr, đã trở nên thờ ơ và vị kỷ.
- Anh mụ mẫm đi đấy anh bạn ạ! - ông ta nói với chàng.
Tuy vậy, khi giao thiệp với Piotr, Vinarxki vẫn thấy dễ chịu hơn
ngày trước. Và ngày nào ông ta cũng lại đến nhà chàng. Còn Piotr, bây
giờ mỗi khi nhìn thấy Vinarxki và nghe ông ta nói chuyện, lại lấy làm lạ
và khó lòng có thể tin rằng mới gần đây thôi chính chàng cũng giống như
thế.
Vinarxki là một người đã có vợ có con, bận rộn với những công
việc quản lý điền trang của vợ, với ông cụ, với gia đình. Ông ta cho
rằng tất cả những thứ đó đều là những vật chướng ngại trong cuộc sống và
đều đáng khinh, vì mục đích của ông đó là mưu cầu phúc lợi cho bản thân
và gia đình. Những vấn đề quân sự, hành chính, chính trị, hội Tam điểm,
luôn luôn thu hút hết sức chú ý của ông ta.
Và Piotr không tìm cách thay đổi quan điểm của Vinarxki, không chê
trách ông ta, chàng chỉ xem xét, với cái thái độ giễu cợt luôn luôn điềm
tĩnh và vui vẻ của chàng, cái hiện tượng kỳ lạ mà chàng biết quá rõ.
Trong khi tiếp xúc với Vinarxki, với nữ công tước, với bác sĩ, với tất
cả những người thường gặp chàng, Piotr có một nét mới khiến cho tất cả
mọi người đều có thiện cảm với chàng: chàng thừa nhận rằng mỗi người đều
có thể có suy nghĩ, cảm xúc và nhìn nhận sự vật theo cách của mình;
thừa nhận rằng lời lẽ không thể làm cho con người từ bỏ quan niệm của
mình đi được. Đó là đặc tính chính đáng của mỗi người, cái đặc tính
trước kia đã khiến Piotr bối rối và bực dọc, nhưng bây giờ lại chính là
nền tảng của sự quan tâm và thiện cảm của chàng đối với người khác. Sự
bất đồng, đôi khi là sự mâu thuẫn hoàn toàn giữa quan điểm với cách sống
của họ và giữa người này với người khác làm cho Piotr vui thích, đưa
lai cho chàng nụ cười châm biếm dịu dàng Trong những công việc thực tiễn
bây giờ Piotr đột nhiên cảm thấy mình có một chỗ dựa vững vàng mà trước
kia chàng không hề có và không ngờ là mình có thể có được. Trước kia,
khi có vấn đề tiền bạc, nhất là khi có người xin tiền - giàu có như
chàng dù những trường hợp như thế rất hay xảy ra - chàng đều lâm vào một
tình trạng bối rối nan giải. "Có nên cho không? - chàng thường tự hỏi -
Mình thì có tiền, mà người ấy thì đang cần. Nhưng người kia còn cần
hơn. Ai cần hơn? Hay có lẽ cả hai đều bịp bợm?" Trước kia chàng không
thể nào tìm được một giải pháp để thoát khỏi những băn khoăn ấy, và có
được bao nhiêu chàng cứ đem cho tất cả mọi người. Trước kia chàng cứ
phải băn khoăn như thế mỗi khi có vấn đề liên quan đến tài sản của
chàng, khi mỗi người khuyên chàng một cách. Bây giờ chàng ngạc nhiên
nhận thấy rằng trong tất cả những vấn đề ấy chàng không còn băn khoăn,
ngờ vực gì nữa. Trong chàng nay đã có một vị quan toà căn cứ trên những
đạo luật nào đấy mà chính chàng cũng không rõ để đoán định cái gì cần
làm và cái gì không.
Chàng nay cũng vẫn dửng dưng với những công việc tiền nong như
trước, nhưng bây giờ chàng biết chắc chắn cái gì cần phải làm và cái gì
không nên làm. Vị quan toà mới trong chàng đã tuyên án lần đầu tiên khi
có một viên đại tá Pháp đến gặp chàng, kể lể rất nhiều về những chiến
công của mình và cuối cùng với một giọng gần như hách dịch yêu cầu Piotr
đưa cho ông ta bốn nghìn phơ-răng để gửi cho vợ con. Piotr đã từ chối
một cách dễ dàng, chẳng có sự giằng co gì cả; về sau chàng chỉ lấy làm
lạ, không hiểu tại sao một việc trước kia tưởng đâu nan giải như vậy mà
nay chàng lại có thể giải quyết dễ dàng và giản dị đến thế. Đồng thời,
ngay trong khi từ khước viên đại tá, chàng cũng quyết định là khi rời
Orel ra đi phải dùng mưu mẹo để buộc viên sĩ quan người Ý phải nhận cho
kỳ được một số tiền mà chàng biết là anh ta đang cần. Thêm một việc nữa
chứng minh cho Piotr thấy rõ cái quan điểm mới của mình đối với những
công việc thực tiễn là cách chàng giải quyết vấn đề trả nợ cho vợ chàng
và vấn đề tu sửa hay không tu sửa các toà nhà và dinh thự của chàng ở
Moskva.
Viên tổng quản đến Orel tìm chàng và hai người cùng tính toán
những sổ thu thập của chàng nay đã thay đổi. Theo những khoản tính của
viên tổng quán, vụ hoả hoạn Moskva đã làm tốn mất của chàng khoảng hai
triệu rúp.
Mặt khác viên tổng quản lại tính toán cho Piotr thấy rằng mặc dầu
có những tổn thất đó, số thu nhập của chàng những không giảm sút mà còn
tăng lên, nếu chàng từ khước việc trả nợ những món nợ của bá tước phu
nhân để lại, vì không có bổn phận phải trả, và nếu chàng không tu sửa
các toà nhà ở Moskva và trang dinh thự ở ngoại thành, vì những thứ này
tốn của chàng mỗi năm tám vạn rúp mà chẳng đưa lại lợi tức gì cả.
- Phải, phải đúng đấy, - Piotr nói, miệng mỉm cười vui vẻ - Phải, phải,
tôi chẳng cần gì những cái đó. Nhờ bị phá sản, tôi đã giầu lên rất
nhiều.
Nhưng vào tháng giêng Xavelits từ Moskva đến, kể cho chàng nghe về
tình hình Moskva, về bản thiết kế của viên kiến trúc sư nhằm tu sửa toà
nhà và dinh thự, Xavelits nói đến việc đó như một việc đã quyết định
xong xuôi. Cũng thời gian ấy Piotr nhận được những bức thư của công tước
Vaxili và của những người quen khác ở Petersburg, nói về những món nợ
của vợ chàng. Và Piotr quyết định rằng giải pháp của viên tổng quản đã
được chàng tán thưởng thật ra không ổn, rằng chàng phải đi Petersburg
thanh toán nợ nần của vợ và xây dựng lại nhà cửa ở Moskva. Tại sao phải
làm như thế mới được.
Quyết định này làm cho sổ thu thập cả chàng giảm mất ba phần tư. Nhưng vẫn phải quyết định như vậy, chàng cảm thấy thế.
Vinarxki cũng sắp đi Moskva, nên hai người hẹn nhau cùng đi.
Suốt thời gian dưỡng bệnh ở Orel, Piotr luôn luôn có một cảm giác vui
mừng, yêu đời. Nhưng trong khi đi đường, khi chàng thấy mình ở giữa
khoảng trời rộng thoáng, trông thấy hàng trăm khuôn mặt mới mẻ, cảm giác
ấy lại càng mãnh liệt hơn. Trong suốt cuộc hành trình chàng thấy vui
như cậu học sinh được đi nghỉ hè. Tất cả những con người gặp trên đường:
người đánh xe, người trạm trưởng, những người nông dân đi trên đường
hay ở trong làng - tất cả đều có một ý nghĩa mới mẻ đối với chàng. Sự có
mặt và những lời nhận xét của Vinarxki luôn luôn phàn nàn về tình trạng
nghèo nàn, dốt nát và lạc hậu của nước Nga so với châu Âu, chỉ làm cho
Piotr thêm vui. Chỗ nào Vinarxki chỉ thấy có sự đình trệ thì Piotr lại
thấy một sinh lực mãnh mẽ phi thường, cái sinh lực đã duy trì, trên
khoảng đất ba la phủ tuyết này, sự sống của một dân tộc vẹn thuần, đặc
biệt và thống nhất. Chàng không cãi lại Vinarxki, và dường như để tán
đồng ông ta (vì giả vờ tán đồng là cách đơn giản nhất để tránh những
cuộc cãi vã không đưa lại kết quả nào) chàng vui vẻ mỉm cười nghe ông ta
nói.
hết: Chương - 12 -13 -, xem tiếp: Chương - 14 -15 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 EmptyWed Jan 05, 2011 10:19 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XV

Chương - 14 -15 -


Khi một tổ kiến đã bị phá huỷ, đàn kiến đi lại tấp nập, con thì kéo
từ trong tổ ra những mảnh rác, những cái trứng và những cái xác chết,
con thì lại đi vào tổ, và thật khó lòng mà giải thích nổi chúng đi đâu
mà tấp nập như vậy, tại sao chúng lại đuổi theo nhau, xô đẩy nhau, cắn
nhau như thế. Người ta sẽ gặp một khó khăn tương tự khi muốn cắt nghĩa
những nguyên nhân đã khiến cho người Nga sau khi quân Pháp rút đi, tấp
nập kéo đến cái nơi trước kia gọi là Moskva. Nhưng cũng như khi nhìn đàn
kiến tán loạn chung quanh tổ, mặc dầu cái tổ đã tan tành, sự kiên trì,
sự quả quyết sức hoạt động của bầy kiến đông nghịt ấy vẫn cho người ta
thấy rằng tất cả đều bị huỷ hoại trừ một cái gì không thể huỷ hoại được
một cái gì phi vật chất làm nên tất cả sức mạnh của tổ kiến.
Moskva cũng vậy, vào tháng mười năm ấy, mặc dầu không có nhà chức
trách, không có nhà thờ, đền miếu, của cải, nhà cửa, nó vẫn là thành
Moskva trước kia, như hồi tháng tám, loại trừ một cái gì phi vật chất,
nhưng kiên cường và không thể nào huỷ hoại được.
Những động cơ đã thúc đẩy những con người từ bốn phía đổ dồn về
Moskva sau khi quân địch đã rút sạch, là những động cơ hết sức khác
nhau, hết sức riêng biệt, và trong thời gian đầu thì phần nhiều là những
động cơ man rợ, thú vật. Duy chỉ có một động cơ chung cho tất cả mọi
người, đó là cái ước vọng trở về trước kia gọi là Moskva để tìm cách sử
dụng sức hoạt động của mình ở đấy.
Sau một tuần, ở Moskva đã có một vạn năm nghìn dân, sau hai tuần đã
có hai vạn rưỡi v.v… Con số đó mỗi ngày một tăng lên mãi, và cho đến mùa
thu năm 1813 thì đã vượt quá số dân năm 1812.
Những người Nga đầu tiên vào Moskva là những toán lính cô-dắc của
chi đội Vintxingherot, những người nông dân ở các làng lân cận và những
người dân Nga ẩn náu ở các vùng ngoại ô. Những người dân Nga khi vào
Moskva và trông thấy cảnh tượng hoang tàn của cái thành phố bị cướp phá
ấy, cũng bắt đầu ra tay cướp phá. Họ tiếp tục cái công việc mà quân Pháp
đã làm. Nông dân đưa xe tải đến Moskva để chở về làng tất cả những gì
còn vương vãi trong các nhà đổ nát và trên các phố xá hoang tàn của
Moskva. Lính cô-dắc lấy tất cả những gì có thể lấy được đem về trại
quân; các chủ nhà vơ vét tất cả những gì họ tìm được trong các nhà khác
để đem về nhà mình, lấy cớ rằng đó là của riêng họ.
Nhưng sau đợt người đến cướp bóc đầu tiên lại một đợt khác, rồi
một đợt thứ ba, và số người đến cướp bóc càng tăng lên thì việc cướp bóc
mỗi ngày một trở nên khó khăn và dần dần có những hình thức rõ ràng
phân minh hơn.
Quân Pháp đã tiến vào một thành Moskva tuy không người, nhưng có đủ
những hình thái hữu cơ của một thành phố sống có quy củ có đủ các tổ
chức thương mại, thủ công, xa xỉ phẩm, quản lý nhà nước, tôn giáo. Những
hình thái đó đã tê liệt, nhưng vẫn tồn tại.
Hãy còn có những khu chợ, có những nhà máy, những xưởng thủ công;
có những bệnh viện, những nhà tù, những toà án, những nhà thờ. Quân Pháp
ở càng lâu thì những hình thái sinh hoạt của thành phố ấy càng mất đi
và cuối cùng tất cả đều trộn lẫn lại thành một cảnh hỗn loạn không hồn
của sự cướp phá.
Sự cướp bóc của quân Pháp càng kéo dài thì càng phá hoại những của
cải của Moskva và sức lực của kẻ cướp bóc. Sự cướp bóc của người Nga, mở
đầu cho việc người Nga chiếm lại thủ đô, càng kéo dài, số người tham
gia càng đông thì sự trù phú và sinh hoạt quy củ của thành phố lại càng
chóng hồi phục.
Ngoài những người đến đấy để cướp bóc ra, còn có những người thuộc
đủ các hạng, người thì vì tò mò, người thì vì công vụ, người thì vì
quyền lợi - chủ nhà, giáo sĩ, viên chức, quan lại, nhà buôn, thợ thủ
công, nông dân - từ nhiều phía đổ về Moskva như máu dồn về tim.
Chỉ một tuần sau khi những người nông dân mang xe tải không đến để
chở đồ thì đã bị nhà chức trách giữ lại và bắt buộc phải chở những xác
chết ra khỏi thành phố. Những người nông dân khác biết chuyện này bèn
chở bột mì, lúa mạch, rơm rạ vào thành phố, phá giá lẫn nhau cho đến khi
giá cả tụt xuống thấp hơn giá ngày trước.
Ngày nào cũng có những phường thợ mộc, hy vọng được trả công hời,
kéo vào Moskva, và khắp nơi người ra dựng lên những ngôi nhà cũ cháy dở.
Những người lái buôn mở cửa hàng trong những cái lán gỗ. Các giáo sĩ
lại bắt đầu làm lễ trong nhiều nhà thờ không bị cháy. Những tín chủ mang
lại cho nhà thờ những đồ đạc đã bị cướp. Những người công chức đặt bàn
viết trải dạ và tủ đựng giấy má trong những căn phòng nhỏ hẹp. Các quan
chức cao cấp và sở cảnh sát thu xếp việc phân phối những của cải do quân
Pháp để lại.
Các chủ nhân của những ngôi nhà có chứa nhiều của cải từ các nhà
khác mang đến than phiền rằng tập trung tất cả đồ đạc tại điện
Granovitia là bất công, những người khác một mực nói rằng quân Pháp đang
mang đồ đạc lấy được trong nhiều nhà tập trung vào một nơi cho nên của
để ở nhà ai mà chủ nhà ấy lấy là bất công, người ta chửi bới cảnh sát;
Người ta đút lót cho họ; người ta ước lượng số của công bị cháy lên gấp
mười lần sự thật; người ta đòi cứu tế. Bá tước Raxtovsin ra sức viết
tuyên cáo.

15.
Vào cuối tháng giêng, Piotr về Moskva và dọn chỗ ở trong toà nhà
dọc hãy còn nguyên vẹn. Chàng đến thăm bá tước Raxtovsin, thăm một vài
người quen vừa trở về Moskva và sửa soạn đến ngày kia sẽ đi Petersburg.
Mọi người đều ăn mừng thắng lợi, mọi vật đều đấy sức sống trong chốn thủ
đô tan hoang đang sống lại. Mọi người đều vui mừng khi gặp Piotr, ai
nấy đều muốn gặp chàng và ai cũng hỏi han về những việc chàng đã được
chứng kiến. Piotr thấy đặc biệt có thiện cảm đối với tất cả những ai
chàng gặp; nhưng bây giờ chàng bất giác cư xử với mọi người một cách
thận trọng, để không bị ràng buộc vào một cái gì. Có ai hỏi gì chàng -
dù là những câu hỏi quan trọng hay những câu không đâu - có ai hỏi chàng
sẽ ở đâu? Có xây nhà không? Khi nào đi Petersburg và có thể chuyển hộ
một cái thùng con được không? Thì chàng đều trả lời: Vâng, có lẽ, tôi
chắc là…
Về gia đình Roxtov, chàng có nghe nói là họ ở Koxtroma và chàng
rất ít khi nghĩ đến Natasa. Có nghĩ đến nàng chăng thì cũng như một kỷ
niệm êm đềm của một dĩ vãng đã xa xăm, chàng cảm thấy mình không những
đã thoát khỏi những điều kiện của cuộc sống, mà còn thoát khỏi cái tình
cảm mà chàng cho là chính mình đã nhen nhóm lên trong lòng mình.
Đến Moskva được hai ngày, chàng được vợ chồng Drubeskoy cho biết
rằng công tước tiểu thư Maria hiện ở Moskva. Cái chết của công tước
Andrey, những nỗi đau đớn, những phút cuối cùng của công tước vẫn thường
ám ảnh Piotr và bây giờ nó hiện lên trong tâm trí Piotr một cách da
diết hơn. Trong bữa ăn chiều hôm ấy chàng nghe nói tiểu thư Maria hiện ở
trong một ngôi nhà riêng không bị cháy ở phố Vozdvizenka, và ngay tối
hôm ấy chàng đến nhà nàng.
Trên đường đi đến nhà tiểu thư Maria, Piotr không ngừng nghĩ đến
công tước Andrey, đến tình bạn giữa hai người, đến những cuộc gặp gỡ với
chàng, nhất là cuộc gặp gỡ cuối cùng ở Borodino.
"Có thể nào khi chết anh ấy vẫn giữ tâm trạng hằn học như hôm ấy? Trước
khi chết anh ấy có tìm thấy được lời giải thích cuộc sống không?" -
Piotr nghĩ. Chàng nhớ đến Karataiev đến cái chết của bác ta và bất giác
so sánh hai người, hai con người hết sức khác nhau nhưng cũng lại hết
sức giống nhau vì cả hai đều là những người mà chàng yêu mến, vì cả hai
đều đã sống và cả hai đều đã chết.
Trong một tâm trạng hết sức nghiêm trang, chàng ghé xe vào toà nhà
của cô công tước. Toà nhà vẫn còn nguyên vẹn. Có thể trông thấy những
vết tích tàn phá, nhưng dáng dấp của toà nhà vẫn như cũ. Người quản gia
già ra đón Piotr với vẻ mặt nghiêm nghị, và dường như muốn cho vị khách
cảm thấy rằng sự vắng mặt của lão công tước không hề phá vỡ những quy củ
trong nhà, lão nói rằng công tước tiểu thư nay đã về phòng riêng và
thường tiếp khách vào chủ nhật.
- Lão vào báo đi, có lẽ tiểu thư sẽ tiếp tôi cũng nên - Piotr nói.
- Xin vâng, - viên quản gia đáp, - Xin mời ngài vào phòng tranh.
Mấy phút sau viên quản gia và Dexal ra gặp Piotr, Dexal chuyển lời
công tước tiểu thư nói rằng nàng rất mừng được gặp chàng và nếu chàng
vui lòng bỏ quá cho, xin mời chàng lên thẳng phòng tiểu thư.
Trong một gian phòng trần thấp, chỉ thắp một ngọn nến, công tước tiểu
thư đang ngồi với một người nào nữa mặc áo đen. Piotr nhớ rằng bên cạnh
tiểu thư bao giờ cũng có những người tuỳ nữ, nhưng những người tuỳ nữ ấy
là ai thì Piotr không biết và không nhớ. "Đây chắc là một trong những
cô tuỳ nữ ấy" - chàng nghĩ thầm khi đưa mắt nhìn người đàn bà mặc áo
đen.
Công tước tiểu thư vụt đứng dậy đón chàng và đưa tay ra cho chàng.
- Phải rồi, - nàng nói, mắt nhìn thẳng vào gương mặt đã thay đổi
cho chàng sau khi chàng hôn tay nàng - chúng ta lại gặp nhau như thế này
đây. Ngay trong những ngày cuối cùng, anh ấy vẫn nhắc đến anh luôn, -
nàng vừa nói vừa đưa mắt nhìn về phía người tuỳ nữ với một vẻ e dè khiến
Piotr ngạc nhiên trong giây lát.
- Nghe tin anh được cứu thoát tôi mừng. Đó là tin mừng duy nhất mà
mấy lâu nay lâu lắm tôi mới nhận được - công tước tiểu thư lại lo lắng
nhìn về phía người tuỳ nữ và toan nói một câu gì, nhưng Piotr đã ngắt
lời nàng.
- Chị có thể tưởng tượng được không, tôi chẳng được tin gì về anh ấy
cả - chàng nói - Tôi tưởng anh ấy đã tử trận. Tất cả những điều tôi
biết đều do những người khác nghe người ta nói rồi kể lại với tôi. Tôi
chỉ biết rằng anh ấy lại tình cờ được đưa về nhà Roxtov… Thật éo le!
Piotr nói nhanh, giọng sôi nổi. Chàng đưa mắt nhìn về phía người tuỳ nữ
và thấy một đôi mắt trìu mến, chăm chú và tò mò, nhìn chàng, và như ta
vẫn thường thấy trong khi nói chuyện, không hiểu sao chàng có cảm tưởng
người tuỳ nữ mặc áo đen ấy là một người hiền lành, đáng mến; một người
rất tốt không ngăn trở cuộc nói chuyện của chàng với tiểu thư Maria.
Nhưng khi chàng nói đến nhà Roxtov, gương mặt tiểu thư Maria càng lộ
vẻ luống cuống hơn. Nàng đưa mắt nhìn về phía người mặc áo đen và nói:
- Chả nhẽ anh không nhận ra?
Piotr nhìn lại lần nữa khuôn mặt nhợt nhạt, thanh thanh của người
tuỳ nữ có đôi mắt đen và cái miệng là lạ. Trong đôi mắt chăm chú ấy có
một cái gì thân thuộc đã bị quên lãng từ lâu nhưng đáng mến vô cùng đang
nhìn chàng.
- Ồ không, chẳng có lẽ? - Chàng nghĩ thầm - Khuôn mặt già trước
tuổi, nghiêm nghị, gầy gò và xanh xao ấy ư? Đó không thể là nàng được.
Đó chỉ là một kỷ niệm. Nhưng ngay lúc ấy công tước tiểu thư Maria nói:
"Natasa" Và khuôn mặt có đôi mắt chăm chú ấy khó khăn, gượng gạo như một
nách cửa kẹt mở trên những bản lề han rỉ, mỉm cười, và từ khung cửa ấy
một niềm hạnh phúc đã quên lãng từ lâu bỗng toả ra như một luồng gió
thơm mát và lùa vào Piotr, niềm hạnh phúc mà chàng không nghĩ đến, nhất
là trong lúc này. Nó phả vào chàng, bao trùm và tràn ngập cả tâm hồn
chàng.
Khi người ấy mỉm cười, không có thể nghi ngờ gì nữa: đó chính là Natasa, và Piotr yêu nàng.
Ngay phút đầu Piotr đã bất giác nói lên với nàng, với tiểu thư Maria
và chủ yếu là với bản thân chàng, cái điều bí ẩn mà chính chàng cũng
không biết. Chàng đỏ mặt lên vì vui sướng và đau khổ. Chàng muốn che
giấu nỗi xúc động trong lòng. Nhưng càng muốn che giấu thì nó lại càng
lộ rõ ra - rõ hơn là nói bằng lời lẽ minh xác nhất - với mình, với nàng
và với tiểu thư Maria rằng chàng yêu nàng.
"Không, chẳng qua vì quá đột ngột mà thôi", - Piotr tự nhủ. Nhưng
ngay khi chàng toan tiếp tục nói chuyện với tiểu thư Maria, chàng lại
nhìn Natasa và mặt chàng lại càng đỏ bừng lên, và cảm giác bồi hồi vui
sướng lại càng tràn ngập lòng chàng. Chàng nói ấp úng và dừng lại giữa
câu.
Piotr không trông thấy Natasa bởi vì chàng không thể nào ngờ có thể
gặp nàng ở đây, nhưng chàng không nhận ra nàng là vì từ khi chàng gặp
nàng lần cuối cho đến nay Natasa đã thay đổi nhiều quá.
Nàng gầy xanh hơn trước. Nhưng đó không là nguyên do khiến chàng không
nhận ra nàng: Phút đầu khi mới bước vào phòng chàng không thể nhận ra
được là vì trên khuôn mặt ấy trước kia bao giờ đôi mắt cũng ánh lên một
nụ cười yêu đời thầm kín, thì nay, khi chàng bước vào phòng và nhìn nàng
lần đầu, không hề có lấy bóng dáng của một nụ cười, chỉ có một đôi mắt,
chăm chú, hiền lành, buồn rầu nhìn chàng như có ý dò hỏi.:
Trước sự bối rối của Piotr, Natasa không lộ vẻ bối rối, chỉ có một
nỗi vui mừng kín đáo thoáng bừng lên trên khắp gương mặt nàng.
hết: Chương - 14 -15 -, xem tiếp: Chương - 16 -17 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 EmptyWed Jan 05, 2011 10:19 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XV

Chương - 16 -17 -


- Natasa lên đây ở chơi với tôi - công tước tiểu thư Maria nói.
Bá tước và phu nhân nay mai cũng sẽ lên. Tình trạng bá tước phu nhân
hiện nay rất nguy kịch. Nhưng chính Natasa cũng cần đi bác sĩ. Hai cụ
đã bắt buộc chị ấy phải lên đây với tôi đấy.
- Phải, gia đình nào mà chẳng có chuyện buồn riêng? - Piotr quay về phía
Natasa nói - Cô ạ, hôm ấy đúng vào lúc họ giải phóng chúng tôi. Tôi có
trông thấy cậu em. Thương quá! Cậu bé đáng yêu như thế mà…
Natasa nhìn chàng, và như đáp lại lời chàng, đôi mắt nàng càng mở to và sáng long lanh.
- Có thể nói gì hay nghĩ gì để an ủi bây giờ? - Piotr nói - Không thể
được. Tại sao một cậu bé đáng yêu, tràn đầy sức sống như vậy lại phải
chết?
- Phải, thời buổi chúng ta thật khó lòng mà sống nổi nếu không có lòng tin… - tiểu thư Maria nói.
- Phải, phải. Hoàn toàn đúng thế, - Piotr vội vã ngắt lời.
- Tại sao? - Natasa nhìn chăm chú vào mắt Piotr hỏi.
- Còn tại sao nữa? - tiểu thư Maria nói - chỉ riêng ý nghĩ là bên kia sẽ có.
Natasa chưa nghe hết lời tiểu thư Maria đã lại nhìn sang Piotr có ý dò hỏi.
- Và cũng là vì - Piotr nói tiếp, - chỉ có người nào tin có Thượng đế
dìu dắt chúng ta mới có thể chịu đựng được một tổn thất như tổn thất của
phu nhân và của cô, - Piotr nói.
Natasa đã mở miệng nói một câu gì, nhưng bỗng dừng lại. Piotr hấp tấp
ngoảnh mặt đi và lại quay sang hỏi tiểu thư Maria về những ngày cuối
cùng của bạn chàng.
Vẻ bối rối của Piotr bây giờ hầu như đã biến hết, nhưng đồng thời
chàng cẩm thấy cả sự tự do thoái mái trước kia của chàng cũng biến mất:
chàng thấy rằng trước mọi lời lẽ, mọi hành động của chàng bây giờ đều có
một vị quan toà, và lời phán xử của vị quan toà ấy chàng tôn trọng hơn
hết thảy bất cứ lời phán xét nào của mọi toà án trên thế gian. Chàng
nói, và cứ mỗi lời nói ra chàng lại cân nhắc xem xét nó có thể gợi lên
trong lòng Natasa một ấn tượng như thế nào. Chàng không cố ý nói ra
những điều có thể làm nàng vừa lòng, nhưng khi nói ra một điều gì chàng
đều đứng trên quan điểm của nàng mà tự phê phán.
Công tước tiểu thư Maria, như xưa nay vẫn thế, miễn cưỡng kể lại tình
trạng công tước Andrey khi nàng gặp lại. Nhưng những câu hỏi của Piotr,
đôi mắt thảng thốt của chàng, khuôn mặt run run vì xúc động của chàng
dần dần buộc nàng phải đi sâu vào những chi tiết mà nàng vẫn sợ không
dám ôn lại dù chỉ trong tâm trí mình.
- Phải, phải, thế đấy! - Piotr nói, cả người cúi về phía tiểu thư Maria và khát khao nghe nàng kể.
- Phải, phải thế là anh ấy đã bình tâm lại? Anh ấy đã dịu lại? Anh
ấy xưa nay vẫn dốc hết tâm hồn đi tìm một điều duy nhất; làm sao trở
thành một người tốt hoàn toàn, cho nên anh ấy không thể sợ chết được.
Những khuyết điểm của anh ấy - nếu có - không phải do tự bản chất. Thế
nghĩa là anh ấy đã dịu lại? - Piotr nói - Anh ấy gặp lại cô như vậy thật
hạnh phúc quá chàng bỗng quay sang nói với Natasa và nhìn nàng với đôi
mắt đẫm lệ.
Mặt Natasa run run. Nàng cau mày và cúi đầu nhìn xuống đất một lát. Nàng phân vân không biết có nên nói không.
- Phải, đó là hạnh phúc, - nàng nói khẽ, giọng trần trầm - Đối với
tôi thì đó chắc chắn là một niềm hạnh phúc - Nàng im lặng một lát - Mà
anh ấy… anh ấy… cũng nói rằng anh ấy đang mong gặp tôi khi tôi đến. -
Giọng nói của Natasa nghẹn ngào. Nàng đỏ mặt, xiết chặt hai tay trên đầu
gối và bỗng nhiên, hẳn là cố lấy sức tự chủ, nàng ngẩng đầu lên và bắt
đầu nói nhanh:
- Khi rời Moskva ra đi chúng tôi chẳng hay biết gì cả. Tôi không dám hỏi
thăm tin tức anh ấy. Thế rồi bỗng nhiên Sonya nói với tôi là anh ấy
đang cùng đi với chúng tôi. Tôi không nghĩ ngợi gì hết, tôi không thể
hình dung tình trạng ấy ra sao, tôi chỉ thấy cần gặp anh ấy, cần ở bên
cạnh anh ấy.
Nàng nói hổn hển, giọng run run. Và không để ai ngắt lời, nàng kể
một hơi những điều mà nàng chưa bao giờ kể với ai, tất cả những gì mà
nàng đã trải qua trong ba tuần lễ đi đường và ở lại Yaroxlav.
Piotr há miệng nghe nàng kể, đôi mắt đẫm lệ không rời nàng.
Trong khi nghe nàng, chàng không nghĩ tới công tước Andrey,
không nghĩ đến cái chết hay đến những điều nàng kể. Chàng nghe nàng nói
và chỉ thấy xót thương nỗi đau khổ mà hiện nay nàng đang trải qua trong
khi kể.
Công tước tiểu thư, mặt mếu máo vì cố nén nước mắt, ngồi cạnh
Natasa và lần đầu tiên nghe kể lại những ngày cuối cùng trong cuộc tình
duyên của anh nàng với Natasa.
Có thể thấy rõ rằng câu chuyện kể đau đớn và vui mừng này là một nhu cầu thiết yếu đối với Natasa.
Nàng kể, pha trộn những chi tiết vụn vặt không đâu với những điều
bí mật sâu kín nhất, và có thể tưởng chừng nàng sẽ không bao giờ kể xong
được. Có những điều nàng nhắc đi nhắc lại đến mầy lần.
Sau cánh cửa chợt nghe tiếng Dexal xin phép cho Nikoluska vào chào cô đi ngủ.
- Thế là hết, chỉ có thế thôi… - Natasa nói. Nàng vụt đứng dậy khi
Nikoluska vào, bước nhanh gần như chạy ra cửa, va đầu vào cánh cửa lấp
sau bức rèm, và với một tiếng rên rỉ không hiểu vì đau hay vì buồn, nàng
chạy ra khỏi phòng.
Piotr nhìn khung cửa nàng vừa chạy và không hiểu nổi vì sao bỗng
thấy mình chỉ còn trơ trọi lại một mình bơ vơ trong vũ trụ.
Công tước tiểu thư Maria chợt làm cho chàng sực tỉnh, nàng nhắc chàng lưu ý đến đứa cháu trai vừa đi vào phòng.
Khuôn mặt Nikoluska hao hao giống bố, giây phút mủi lòng này đã làm
cho Piotr xúc động đến nỗi sau khi ôm hôn đứa bé chàng vội vã đứng dậy,
lục tìm chiếc khăn mùi xoa và đi ra phía cửa sổ.
Chàng muốn cáo từ tiểu thư Maria, nhưng nàng giữ chàng lại.
- Không, tôi với Natasa nhiều khi đến hai giờ sáng mới đi ngủ, xin anh
ngồi lại một lát. Tôi bảo dọn bữa khuya. Anh xuống nhà đi, chúng tôi sẽ
xuống ngay.
Trước khi Piotr bước ra, tiểu thư Maria bảo chàng:
- Đây là lần đầu tiên Natasa nói đến anh ấy như thế đấy!

17.
Người nhà đưa Piotr vào gian phòng ăn rộng rãi thắp nến sáng
trưng, mấy phút sau nghe có tiếng chân bước, rồi công tước tiểu thư
Maria và Natasa vào phòng. Natasa khá điềm tĩnh, tuy cái phong thái
nghiêm nghị, không có bóng dáng nụ cười, bây giờ đã trở lại trên gương
mặt nàng. Công tước tiểu thư, Natasa và Piotr cùng một cảm giác ngượng
nghịu thường thấy sau một câu chuyện tâm sự nghiêm trang. Nói tiếp câu
chuyện ban nãy thì không được, nói những chuyện vu vơ thì không tiện, mà
im lặng thì khó chịu, vì thật ra người ta muốn nói, và nếu im lặng thì
có vẻ như vờ vĩnh. Họ lặng lẽ đến cạnh bàn. Những người hầu dịch ghế cho
họ ngồi. Piotr mở tấm khăn mát lạnh ra và định tâm là sẽ lên tiếng để
chấm dứt quãng im lặng, chàng đưa mắt nhìn Natasa và tiểu thư Maria.
Cùng một lúc cả hai người cùng có định ấy: mắt họ đều sáng long lanh
niềm yêu đời và ý thừa nhận rằng ngoài nỗi buồn ra còn cả niềm vui nữa.
- Bá tước uống vodka nhé? - công tước tiểu thư Maria nói, và câu nói bỗng xua tan bóng tối của dĩ vãng.
- Anh kể chuyện anh đi, - tiểu thư nói - Người ta kể về anh những chuyện thật là thần kỳ.
- Vâng, - Piotr đáp, nụ cười quen thuộc được vẻ chế giễu dịu dàng bây
giờ đã trở lại trên gương mặt chàng. - Chính tôi cũng đã nghe họ kể về
mình những chuyện thần kỳ mà trong chiêm bao tôi cũng chưa từng thấy.
Marva Abramovna mời tôi lại nhà rồi kể cho tôi nghe những sự việc mà tôi
đã sống qua hoặc chắc hẳn phải sống qua. Stepan Stepanovich cũng dạy
cho tôi biết cần phải kể như thế nào. Nói chung tôi nhận thấy là làm một
con người thú vị cũng hay (bây giờ tôi là một con người thú vị đấy), họ
gọi tôi đến và kể chuyện cho tôi ntơhe., Natasa mỉm cười và toan nói
điều gì.
- Chúng tôi nghe họ kể lại - tiểu thư Maria ngắt lời nàng - rằng anh đã thiệt hại mất hai triệu rúp ở Moskva có đúng không?
- Nhưng tôi đã giàu lên gấp ba, - Piotr nói.
Tuy những công nợ của vợ chàng và việc xây lại nhà cửa đã làm cho
tình cảnh của chàng thay đổi hẳn, Piotr vẫn tiếp tục kể rằng chàng đã
giàu lên gấp ba.
- Món lãi mà tôi thu được một cách chắc chắn là tôi đã được tự do.
Chàng mở đầu, giọng nghiêm trang, nhưng rồi chàng không nói tiếp nữa, vì nhận thấy đó là một đề tài nói chuyện quá vị kỷ.
- Thế anh cho xây nhà lại à?
- Vâng, Xavelits muốn thế.
- Anh ạ, thế khi còn ở Moskva anh chưa biết bá tước phu nhân mất à? -
Tiểu thư Maria nói đoạn lập tức đỏ mặt lên, vì nhận thấy mình hỏi như
vậy ngay sau khi Piotr đã được tự do tức là đã gán cho câu nói của chàng
một nghĩa mà có lẽ nó không hề có.
Chưa Piotr đáp, hẳn là không thấy ngượng nghịu gì về cách tiểu thư Maria
lý giải câu nói của mình về tự do. Mãi đến dạo ở Orel tôi mới biết, và
chắc hai tiểu thư không thể tưởng tượng tin ấy làm cho tôi kinh hãi đến
nhường nào. Chúng tôi trước kia chẳng là một đôi vợ chồng gương mẫu -
chàng nói nhanh, mắt liếc nhìn Natasa và nhận thấy gương mặt nàng lộ vẻ
tò mò muốn biết chàng đối với vợ ra sao - nhưng cái chết ấy đã gây cho
tôi một ấn tượng thật khủng khiếp. Khi hai người xích mích với nhau, bao
giờ cả hai người đều có lỗi. Và đối với một người không còn nữa, thì
lỗi của mình bỗng nặng lên lạ thường. Vả lại chết như vậđược, chẳng có
bạn bè, chẳng có ai an ủi - Tôi rất thương, rất thương nhà tôi, - chàng
kết thúc, và thích thú nhận thấy vẻ tán đồng vui vẻ trên gương mặt
Natasa.
- Phải, thế bây giờ anh đã lại thành một người độc thân, một người chưa vợ, - tiểu thư Maria nói.
Piotr bỗng đỏ tía mặt lên và hổi lâu chàng cố gắng không nhìn Natasa.
Khi chàng đã dám nhìn nàng, vẻ mặt nàng lạnh lùng, nghiêm nghị và
thậm chí còn có vẻ khinh bỉ nữa - chàng có cảm tưởng như vậy.
- Nhưng có đúng là anh đã gặp và nói chuyện với Napoléon như họ vẫn kể không? - tiểu thư Maria nói.
Piotr cười.
- Không, không hề có như thế. Bao giờ họ cũng cứ tưởng đâu hễ bị Pháp
bắt tức là trở thành một tân khách của Napoléon. Tôi không những không
hề trông thấy ông ta, mà thậm chí cũng không hề nghe nói đến ông ta nữa.
Tôi tiếp xúc với những người thấp hơn ông ta nhiều.
Bữa ăn khuya đã xong và Piotr, tuy lúc đầu không muốn kể lại thời
gian mình bị cầm tù, dần dần bị lôi cuốn theo đà kể chuyện.
- Nhưng đúng là anh ở lại để giết Napoléon chứ? - Natasa hỏi chàng,
miệng hơi chúm chím cười - Tôi đã đoán được việc ấy từ khi gặp anh ở
tháp Xukharev, anh có nhớ không?
Piotr thú nhận rằng quả đúng như thế, và từ đấy những câu chuyện
hỏi của tiểu thư Maria và nhất là của Natasa dần dần lái chàng đi vào
tỉ mỉ về những chuyện phiêu lưu của chàng.
Thoạt tiên chàng kể với cái sắc thái giễu cợt dịu dàng nay đã trở
thành một cách nhìn của chàng đối với mọi người và nhất là đối với bản
thân, nhưng về sau, khi chàng kể đến những nỗi khổ, những cảnh khủng
khiếp mà chàng đã chứng kiến, chàng sôi nổi hẳn lên và bắt đầu nói với
nỗi xúc động đã cố nén bớt của một con người đang nhớ lại những ấn tượng
mãnh liệt.
Công tước tiểu thư Maria mỉm cười dịu dàng, khi thì nhìn Piotr, khi
thì nhìn Natasa. Trong suốt câu chuyện nàng chỉ nhìn thấy Piotr và tấm
lòng nhân hậu của chàng. Natasa, đầu tựa lên khuỷu tay, vẻ mặt luôn luôn
thay đổi theo câu chuyện, chăm chú theo dõi Piotr không rời một phút,
rõ ràng là đang cùng chàng sống lại những sự việc chàng đang kể - không
phải chỉ có đôi mắt nàng, mà những tiếng kêu và những câu hỏi vắt tắt
của nàng cũng cho Piotr thấy rõ rằng những điều mà chàng kể Natasa đã
hiểu đúng được những gì chàng muốn truyền đạt. Có thể thấy rõ nàng không
hững hiểu được những điều chàng kể, mà còn hiểu được những điều chàng
muốn nói ra nhưng không sao diễn đạt được bằng lời. Đến đoạn chàng đi
tìm đứa bé và bênh vực người đàn bà rồi bị bắt, Piotr kể như sau:
- Thật là một cảnh tượng khủng khiếp, trẻ con bị bỏ rơi, có đứa bị
bỏ rơi ở giữa đám cháy… Tôi đã trông thấy người ta cứu một đứa ra… có
những người đàn bà, bị chúng cướp đồ đạc, giật mất hoa tai.
Piotr đỏ mặt, lúng túng.
- Lúc bấy giờ có một đội tuần tiễu đến, họ bắt tất cả những người nào
không cướp bóc, bao nhiêu đàn ông đều bị bắt hết. Cả tôi cũng vậy.
- Chắc là anh không kể hết, chắc anh có làm việc gì… Natasa ngừng một lát, - một việc gì rất tốt.
Piotr lại kể tiếp. Trong khi kể lại cuộc hành trình chàng định bỏ qua
những chi tiết khủng khiếp, nhưng Natasa cứ khẩn khoản xin chàng đừng bỏ
sót một chút gì.
Piotr bắt đầu kể về Karataiev (chàng đã rời bàn ăn đứng dậy đi đi
lại lại trong phòng, Natasa đưa mắt nhìn theo), nhưng rồi nghĩ thế nào
lại thôi.
- Không, hai tiểu thư không thể hiểu tôi đã học được những điều quý giá
như thế nào ở con người vô học, tưởng chừng như ngu ngốc ấy.
- Không, không, anh kể đi, - Natasa nói, - Thế người ấy bây giờ ra sao?
- Chúng nó giết chết bác ấy gần như ngay trước mặt tôi - và Piotr
bắt đầu kể lại thời kỳ cuối của cuộc hành trình, bệnh trạng của
Karataiev (giọng chàng cứ phút phút lại run lên) và cái chết của bác ta.
Piotr kể lại những chuyện chàng đã trải qua, và chưa bao giờ
chàng nhớ lại người chuyện ấy dưới một ánh sáng giống như lúc này. Chàng
dường như thấy một ý nghĩa mới trong những sự việc chàng đã sống qua.
Bây giờ, khi kể tất cả những sự việc đó cho Natasa nghe, chàng được
hưởng cái thú hiếm có mà phụ nữ thường đem lại cho những người đàn ông
khi nghe họ kể chuyện - không phải những người phụ nữ thông minh trong
khi nghe thường cố nhớ lại những điều mà người ta nói để làm cho trí tuệ
mình phong phú thêm và hễ có dịp là đem ra kể, hoặc cố gắng xếp đặt lại
những điều đã nghe kể theo kiểu của mình và nóng lòng nói ra cho nhanh
những câu nhận xét thông minh rút ra từ cái cơ ngợi trí tuệ nhỏ bé của
mình, mà là những người phụ nữ chân chính có cái năng khiếu lựa chọn và
hấp thụ tất cả những cái gì tốt đẹp trong những biểu hiện của nam giới.
Natasa, tuy chính nàng cũng không toàn tâm toàn ý nghe Piotr kể: nàng
không hề bỏ qua một mảy may nào, dù là một câu một chữ, một chỗ dao động
trong giọng nói, một cái nhìn, một cử chỉ, một thớ thịt rung động trên
gương mặt của Piotr. Một từ vừa phát ra đã được nàng đón lấy và đưa
thẳng vào cõi lòng cởi mở của nàng, và nàng đoán được cái ý nghĩa bí ẩn
của tất cả hoạt động nội tâm Piotr.
Công tước tiểu thư Maria hiểu câu chuyện kể, đồng cảm với chàng,
nhưng bây giờ có một điều khác thu hút hết sức chú ý của nàng, nàng thấy
rằng giữa Natasa và Piotr có thể có tình yêu và hạnh phúc được. Và ý
nghĩ ấy, lần đầu tiên đến với nàng, đã khiến lòng nàng vui mừng khấp
khởi.

Lúc ấy trời đã sáng. Những người hầu bàn vẻ mặt rầu rĩ và nghiêm nghị chốc chốc lại thay nến, nhưng không ai để ý đến họ.
Piotr đã kể hết. Natasa với đôi mắt sáng long lanh vẫn nhìn chàng
chăm, chú như muốn hiểu biết những điều còn lại mà có lẽ chàng không
nói ra. Piotr, vẻ bối rối và sung sướng, thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn
nàng và ngẫm xem bây giờ nên nói gì để chuyển câu chuyện sang một đề tài
khác. Tiểu thư Maria ừn lặng. Không ai thoáng có ý nghĩ rằng bây giờ đã
là ba giờ sáng và đã đến lúc nên đi nghỉ.
- Người ta thường nói: tai hoạ, đau khổ, - Piotr nói - Nhưng nếu bây
giờ, ngay giây phút này có ai nói với tôi: anh có muốn tiếp tục sống như
hồi bị bắt, hay sống lại từ đầu tất cả những sự việc ấy không? Thì tôi
sẽ trả lời rằng xin trời cứ cho tôi bị tù và ăn thịt ngựa lần nữa. Ta cứ
tưởng hễ bị vứt ra khỏi con đường quen thuộc là đã mất hết: nhưng thật
ra lúc đó mới bắt đầu có một cái gì mới mẻ, tốt đẹp. Một khi hãy còn
cuộc sống thì tất là hãy còn hạnh phúc. Trước mắt chúng ta còn nhiều,
nhiều lắm. Điều này tôi nói với cô đấy, - chàng nói thêm với Natasa.
- Phải, phải, - nàng nói, đáp lại một điều gì khác hẳn, - và tôi không ao ước gì hơn là sống lại tất cả từ đầu.
Piotr chăm chú nhìn nàng.
- Vâng, không còn ao ước gì hơn nữa, - Natasa nhắc lại.
- Không đúng, không đúng, - Piotr nói to lên - Tôi còn sống và muốn sống, thì đó chẳng phải là lỗi của tôi, cô cũng thế.
Bỗng Natasa gục đầu vào tay và khóc.
- Natasa làm sao thế? - công tước tiểu thư Maria nói.
- Không, không sao cả - Nàng nhìn Piotr, mỉm cười qua làn nước mắt - Chào anh nhé, đã đến lúc đi ngủ.
Piotr đứng dậy cáo từ.
Công tước tiểu thư Maria và Natasa vẫn thường như vậy, lại gặp
nhau trong phòng ngủ. Họ nói chuyện về những điều Piotr đã kể. Tiểu thư
Maria không nói ý kiến của nàng về Piotr. Natasa cũng không nhắc đến
chàng.
- Thôi, Maria ngủ ngon nhé, - Natasa nói - Maria biết không, nhiều
khi em sợ rằng chúng mình không nói đến anh ấy (công tước Andrey) như
thể sợ làm cho tình cảm chúng mình thấp kém đi thế rồi dần dần đâm ra
quên anh ấy.
Công tước tiểu thư buông một tiếng thở dài nặng trĩu và tiếng thở
dài ấy thừa nhận rằng Natasa nói đúng, nhưng ngoài miệng nàng không đồng
ý với bạn. Làm sao có thế quên được? - nàng nói.
- Hôm nay em kể được hết mọi việc, thấy nhẹ nhõm quá, em vừa thấy khổ
tâm, vừa đau xót, vừa thấy nguôi lòng. Rất nguôi lòng, - Natasa nói, -
Em tin chắc rằng Piotr quý anh ấy lắm. Chính vì vậy em kể cho Piotr
nghe… kể như vậy có làm sao không - nàng bỗng đỏ mặt hỏi.
- Kể cho Piotr ấy à? - Ồ, không! Anh ấy quá tốt, - tiểu thư Maria nói.
- Maria ạ, - Natasa bỗng nói với một nụ cười tinh nghịch mà từ lâu tiểu
thư Maria không trông thấy trên gương mặt nàng - Anh ấy trông sạch sẽ,
trơn tru, tươi tắn như là vừa mới tắm ấy, Maria có hiểu không? - Về tinh
thần ấy mà, có đúng không?
- Phải, - tiểu thư Maria nói, - Anh ấy hơn trước nhiều Lại mặc áo đuôi
én ngăn ngắn, tóc cũng cắt ngắn, đúng thật, đúng như vừa mới tắm xong…
như ba cũng có khi…
- Mình hiểu rằng anh ấy (công tước Andrey) chưa mến ai bằng Piotr - tiểu thư Maria nói.
- Đúng, và anh ấy khác Piotr lắm. Người ta thường nói là đàn ông họ thân
nhau khi nào họ thật khác nhau. Chắc chắn là đúng như vậy Có đúng là
Piotr chẳng giống anh ấy tí nào không?
- Đúng, và Piotr thật là một người tốt tuyệt trần.
- Thôi Maria ngủ ngon nhé, - Natasa đáp. Và nụ cười tinh nghịch lúc nãy như bị bỏ quên vẫn vương lại trên gương mặt nàng.
hết: Chương - 16 -17 -, xem tiếp: Chương - 18 -19 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 EmptyWed Jan 05, 2011 10:20 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XV

Chương - 18 -19 -


Đêm hôm ấy Piotr không ngủ được, chàng đi đi lại lại trong phòng,
khi thì cau mày nghĩ đến một việc gì khó khăn, rồi bỗng so vai rùng
mình, khi thì mỉm cười vui sướng.
Chàng nghĩ đến công tước Andrey, đến Natasa, đến tình yêu của hai người
và khi thì ghen với dĩ vãng của nàng, khi thì trách mình đã tự dung thứ ý
nghĩ đó. Đã sáu giờ mà chàng vẫn đi đi lại lại trong phòng.
"Thôi thì biết làm thế nào, nếu không thể tránh được? Biết làm thế nào?
Như vậy tức là phải thế mới được", - chàng tự nhủ, rồi vội vã cởi áo lên
gường nằm, lòng sung sướng và bồi hồi xúc động nhưng không còn ngờ vực
và hoang mang nữa.
"Dù cái hạnh phúc ấy có kỳ lạ, có vô lý đến đâu chăng nữa, vẫn phải làm hết cách để nàng với ta nên vợ chồng" - chàng tự nhủ.
Trước đây mấy hôm Piotr đã định ngày thứ sáu sẽ đến Petersburg.
Hôm thứ năm, khi chàng tỉnh dậy, Xavelits vào phòng chàng xin sửa soạn hành lý để lên đường.
"Sao lại đi Petersburg? Petersburg là cái gì nhỉ? Có ai ở
Petersburg? - chàng bất giác tự hỏi một mình. - Phải, trước khi việc này
xảy ra khá lâu ta đã định đi Petersburg, chả biết để làm gì, - chàng
nhớ lại. - Tại sao lại không nhỉ? Ta sẽ đi cũng nên. Chà bác ấy tốt bụng
và chu đáo quá, cái gì cũng nhớ? - chàng nghĩ thầm trong khi nhìn khuôn
mặt Xavelits - mà nụ cười mới dễ chịu làm sao! - chàng nghĩ.
- Này thế bác, vẫn không muốn được giải phóng à? - Piotr hỏi.
- Để làm gì kia ạ? Từ sinh thời cụ bá tước - Chúa đón linh hồn cụ - Tôi
đã hầu hạ ở đây và đến đời ngài tôi cũng không có điều gì phải than
phiền.
- Thế còn con cái bác thì sao?
- Con cái tôi cũng thế, ngài ạ. Được ở với những vị chủ nhân như ngài còn đòi hỏi gì nữa?
- Thế rồi đến đời con cháu tôi thì sao - Piotr nói - Nhỡ tôi có cưới vợ
cũng có thể như thế lắm, - chàng nói tiếp, bất giác mỉm cười.
- Xin ngài bỏ quá cho: được như vậy thì tốt lắm ạ.
"Bác ta nghĩ đến việc ấy một cách dễ dàng thật - Piotr nghĩ. Bác ta
không biết nó đáng sợ, nguy hiểm đến chờng nào. Còn sớm quá hay đã muộn
quá rồi… Thật đáng sợ!".
- Thế ngài dạy sao ạ? Ngày mai lên đường chứ ạ? - Xavelits hỏi.
- Không, để ít hôm nữa đã. Lúc nào cần tôi sẽ nói. Làm phiền bác quá,
bác bỏ qua cho nhé, - Piotr nói, và nhìn nụ cười của Xavelits, chàng
nghĩ thầm: "Nhưng kể cũng lạ, sao bác ta lại không biết rằng bây giờ
không còn có Petersburg nào hết, và trước tiên là phải làm sao giải
quyết cho xong việc ấy. Vả lại chắc bác ta cũng biết nhưng giả vờ thế
thôi. Nói với bác ấy chăng? Bác ta nghĩ thế nào? - Piotr tự nhủ - Không,
rồi sau này sẽ nói".
Đến bữa ăn sáng, Piotr kể lại với nữ công tước Katerina rằng hôm
qua chàng đến nhà công tước tiểu thư Maria và đã gặp, cô thử tưởng tượng
xem gặp ai nào? - Cô Natasa Roxtova đấy.
Nữ công tước làm ra vẻ như chẳng thấy điều này có gì lạ hơn việc gặp Piotr một bà Anna Xemionovna nào đấy.
- Cô có biết cô ấy không? - Piotr hỏi.
- Tôi có gặp công tước tiểu thư, cô ta đáp - Tôi có nghe nói là họ đang
làm mối tiểu thư cho bá tước Roxtov. Được việc này thì hay cho gia đình
Roxtov lắm, nghe nói nhà họ khánh kiệt rồi.
- Không, cô có biết cô Roxtov không kia!
- Dạo trước tôi chỉ nghe kể lại chuyện ấy. Thật là đáng thương.
"Không, cô ta không hiểu, hoặc giả vờ không hiểu, - Piotr nghĩ - Chi bằng cũng đừng nói với cô ta nữa".
Nữ công tước cũng đang soạn thức ăn đi đường cho Piotr.
"Họ đều tốt thật, - Piotr nghĩ, - Bây giờ thì chắc hẳn là những
việc ấy không còn có gì thú vị đối với họ nữa, thế mà họ vẫn làm. Và tất
cả những việc đó chỉ vì ta, thế mới lạ chứ!
Hôm ấy có viên cảnh sát trưởng đến gặp Piotr đề nghị chàng cho
người nhà đến điện Granovitia nhận những đồ đạc đang được hoàn lại cho
các chủ nhân. "Cả anh này nữa, - Piotr nghĩ thầm trong khi nhìn gương
mặt viên ảnh sát trưởng, - Thật là một viên sĩ quan đẹp trai, đáng yêu,
mà lại tốt bụng quá! Bây giờ mà anh ta vẫn chịu khó lo đến những vtệc
không đâu như thế. Thế mà người ta còn bảo anh ta không thật thà, anh ta
lợi dụng. Anh ta đã được giáo dục như thế. Và ai cũng đều làm như thế
cả. Chà, khuôn mặt mới hiền lành, dễ chịu làm sao, lại nhìn ta mà mỉm
cười nữa chứ?".
Piotr đến nhà công tước tiểu thư Maria ăn bữa chiều. Đi qua các
dãy phố, giữa những toà nhà bị cháy, chàng ngạc nhiên vì vẻ đẹp của cảnh
hoang tàn ấy. Những ống khói, những bức tường đỏ kéo dài ra, che lấp
nhau trên những khu phố cháy dở làm thành một quanh cảnh ngoạn mục gợi
lại những lâu đài đổ nát trên bờ sông Ranh hoặc hí trường Coliseum hoang
tàn. Dọc đường, những người xà ích và những người đi xe, những người
thợ mộc đang đẽo xà nhà, những nhà bán hàng và những ông chủ hiệu, mọi
người đều nhìn Piotr với gương mặt tươi roi rói, tựa như muốn nói: "A,
anh ta đây rồi! Để xem kết quả sẽ ra sao đây!".
Khi bước vào nhà tiểu thư Maria, Piotr bỗng đâm ra ngờ vực không
biết hôm qua có thật là mình đã đến đây đã gặp Natasa và nói chuyện với
nàng không. "Có lẽ ta tưởng ra cũng nên, có thể là bây giờ ta vào nhà
chẳng trông thấy ai hết". Nhưng chàng chưa kịp bước vào phòng thì cả
linh hồn và thể xác chàng đều cảm thấy có nàng ở đây, vì trong khoảnh
khắc chàng đã thấy mình không còn ung dung thoải mái nữa. Nàng vẫn mặc
chiếc áo dài đen với những nếp gấp mềm mại; đầu chải như hôm qua, nhưng
nàng đã là một người khác hẳn. Giả sử hôm qua nàng cũng như thế này thì
khi bước vào phòng chàng không thể không nhận ngay ra nàng được.
Nàng bây giờ hệt như hồi chàng biết nàng, khi nàng còn là một cô
bé lớn lên, rồi khi nàng là vợ chưa cưới của công tước Andrey.
Mắt nàng ánh lên vui vẻ và như dò hỏi, gương mặt Natasa dịu dàng và có
vẻ gì âu yếm và tinh nghịch lạ lùng. Piotr ăn bữa chiều và đã định ngồi
lại suốt buổi tối, nhưng công tước tiểu thư Maria phải đi chầu lễ chiều,
nên Piotr cũng ra về một thể.
Ngày hôm sau Piotr đến sớm, ăn bữa chiều và ở lại suốt buổi tối.
Mặc dầu tiểu thư Maria và Natasa rõ ràng đều vui sướng được tiếp chàng,
mặc dầu bao nhiêu hứng thú của đời Piotr nay đã tập trung vào ngôi nhà
này, đến tối họ cũng vẫn chẳng còn chuyện gì để nói với nhau nữa, và câu
chuyện cứ luôn luôn chuyển từ một đề tài không đâu sang một đề tài
không đâu khác, và chốc chốc lại bị đứt quãng. Tối hôm ấy, Piotr ngồi
lâu đến nỗi nữ công tước Maria và Natasa đưa mắt nhìn nhau, rõ ràng là
băn khoăn không biết chàng đã sắp về chưa. Piotr biết thế nhưng không ra
về được. Chàng thấy khó khăn ngượng ngùng, nhưng chàng vẫn ngồi, bởi vì
chàng không sao đứng dậy ra về được.
Công tước tiểu thư Maria mãi không thấy chàng cáo từ, bèn đứng dậy trước và kêu nhức đầu xin đi nghỉ.
- Thế ngày mai anh đi Petersburg à? - nàng nói.
- Không, tôi không đi, - Piotr hấp tấp nói, có vẻ ngạc nhiên và dường
như có ý giận. - À, đi Petersburg ấy à? Mai tôi sẽ đi, nhưng tôi chưa từ
biệt hai tiểu thư. Tôi còn ghé lại xem hai tiểu thư có gửi gì không -
chàng đứng trước tiểu thư Maria, mặt đỏ bừng, và vẫn không ra về.
Natasa đưa tay cho chàng rồi lui ra. Công tước tiểu thư Maria thì ngược
lại, không lui ra mà lại gieo mình xuống ghế bành và đưa đôi mắt trong
sáng, sâu thẳm nhìn Piotr nghiêm nghị và chăm chú.
Vẻ mệt mỏi rõ rệt của nàng lúc này đã mất hẳn. Nàng buông một tiếng thở
dài nặng trĩu, dường như sửa soạn nói một câu chuyện dài.
Khi Natasa đã ra ngoài, tất cả vẻ bối rối và ngượng nghịu của Piotr biến
đi trong khoảnh khắc, nhường chỗ cho vẻ phấn khích và xúc động. Chàng
hấp tấp dịch ghế lại gần tiểu thư Maria.
- Vâng chính tôi cũng muốn nói với tiểu thư, - chàng nói để đáp lại cái
nhìn của nàng như đáp lại một câu hỏi - Tiểu thư giúp tôi với. Tôi cần
phải làm gì? Tôi có thể hy vọng được không? Tiểu thư ạ, hãy nghe tôi
nói. Tôi biết hết. Tôi biết rằng tôi không xứng đáng với nàng, tôi biết
nàng hiện nay không thể nói đến việc ấy được. Nhưng tôi muốn làm một
người anh của nàng. Không, không phải thế… tôi không muốn, tôi không
thể…
Chàng dừng lại, giơ tay lên vuốt mặt và dụi mắt:
- Thế này tiểu thư ạ, - chàng nói tiếp, hẳn là đang cố tự chủ để nói cho
có mạch lạc - Tôi không biết tôi yêu nàng từ lúc nào. Nhưng tôi chỉ yêu
có một mình nàng, suốt đời chỉ yêu nàng, và tôi yêu tha thiết đến nỗi
tôi không thể nào hình dung một cuộc sống không có nàng được. Ngỏ lời
cầu hôn bây giờ thì không dám nhưng khi nghĩ rằng có lẽ nàng có thể
thành vợ tôi mà tôi lại bỏ lỡ mất: khả năng ấy khủng khiếp quá. Chị ạ,
tôi cần phải làm gì?… Tiểu thư thân mến ạ, - chàng nói sau một lát im
lặng và chạm vào tay nàng, vì không thấy nàng trả lời.
- Tôi đang nghĩ về việc anh vừa nói, - công tước tiểu thư Maria đáp, - Ý
tôi thế này anh ạ. Anh nghĩ thế là phải, bây giờ mà nói chuyện tình yêu
với Natasa… - công tước tiểu thư ngừng bặt.
Nàng muốn nói: bây giờ mà nói chuyện tình yêu với Natasa thì không thể
được, nhưng nàng dừng lại, và đã ba ngày nay sự thay đổi của Natasa đã
cho nàng thấy rõ rằng nếu Piotr thổ lộ tình yêu, không những Natasa sẽ
không phật lòng, mà thậm chí đó còn là điều duy nhất nàng mong mỏi. Tuy
vậy nàng vẫn nói:
- Bây giờ mà nói với Natasa… thì không được.
- Nhưng tôi cần phải làm gì?
Anh cứ để tôi thu xếp cho - công tước tiểu thư Maria nói - Tôi biết.
Piotr nhìn vào mắt tiểu thư Maria.
- Thế thì, thế thì…
- Tôi biết rằng cô ấy yêu… sẽ yêu anh, - tiểu thư Maria chữa lại.
Nàng chưa kịp nói hết câu thi Piotr đã đứng phắt dậy và vẻ mặt hoảng hốt, chàng nắm lấy tay tiểu thư Maria.
- Tại sao chị nghĩ như thế? Chị cho rằng tôi có thể hy vọng được ư? Chị nghĩ thế thật à?
- Vâng tôi nghĩ như thế, - tiểu thư Maria mỉm cười nói, - Anh viết thư
cho hai cụ đi. Và cứ để tôi lo liệu. Có dịp tôi sẽ nói với cô ấy. Tôi
cũng mong thế. Và lòng tôi đã cảm thấy rằng điều đó sẽ thực hiện.
- Không, không thể như thế được! Tôi sung sướng quá! Nhưng lẽ nào lại có
thể như thế. Tôi sung sướng quá! Không, không thể được! - Piotr vừa nói
vừa hôn tay tiểu thư Maria.
- Anh đi Petersburg đi, như thế tốt hơn. Tôi sẽ viết thư cho anh, nàng nói.
- Đi Petersburg ư? Vâng, tôi sẽ đi. Nhưng ngày mai tôi có thể đến đây chứ?
Ngày hôm sau Piotr đến chào hai người để lên đường. Natasa không
có vẻ sôi nổi như mấy ngày trước, nhưng hôm ấy thỉnh thoảng nhìn vào mặt
nàng, Piotr thấy mình như tan biến đi, chẳng còn chàng, chẳng còn nàng
nữa, mà chỉ còn một niềm hạnh phúc tràn trề. "Có lẽ nào? Không, không
thể được", - cứ mỗi khoé nhìn, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói của nàng Piotr
lại tự nhủ, lòng tràn đầy hạnh phúc.
Khi từ biệt nàng, Piotr cầm lấy bàn tay thon gầy của nàng và bất giác giữ lại lâu lâu trong tay mình.
"Có lẽ bàn tay này, khuôn mặt này, tất cả những cái kiều diễm quý
giá vô ngần trong một người đàn bà xa lạ đối với ta, có lẽ nào tất cả
những cái ấy sẽ vĩnh viễn là của ta, sẽ thành một cái gì quen thuộc như
bản thân ta đối với ta? Không, không thể như thế được!"
- Thôi bá tước đi nhé, - nàng nói to - Tôi sẽ nóng lòng chờ anh - nàng thì thầm nói thêm.
Và những lời đơn giản này, khoé nhìn và vẻ mặt của nàng khi nói ra
những lời ấy, trong hai tháng trời đã làm một cội nguồn không bao giờ
cạn của những hổi tưởng, những cách lý giải và những ước mơ êm đẹp của
Piotr. "Tôi sẽ nóng lòng chờ anh. Ô, ta sung sướng quá! Làm sao thế nhỉ,
ta sung sướng quá" - Piotr tự nhủ.

Chú thích:
(1) Một hí trường khán đài vòng tròn rất đồ sộ ở La Mã, ngày xưa dùng
làm nơi đấu võ đua xe ngựa hoặc để thú dữ ăn thịt tội nhân cho công
chúng xém. Hí trường Coliseum xây dưới hai triều Vespasien và Titus vào
khoảng thế kỷ đầu Công nguyên

19.
Trong tâm hồn Piotr lúc này không thề thấy diễn ra một cái gì
giống như trong thời gian chàng đính hôn với Elen, tuy hoàn cảnh có thể
tưởng chừng như tương tự.
Bây giờ chàng không thầm nhắc đi nhắc lại những lời đã nói ra với
một nỗi hổ thẹn da diết như dạo ấy, chàng không tự nhủ: "Ờ, tại sao ta
lại không nói như thế, và tại sao, tại sao lúc ấy ta lại nói "Tôi yêu
cô". Bây giờ thì trái lại, mỗi lời nói của nàng hay của chàng, Piotr đều
nhắc lại trong tưởng tựng cùng với tất cả những chi tiết của gương mặt,
nụ cười, và chàng không hề muốn thêm bớt gì vào đấy cả: chàng chỉ muốn
nhắc lại mãi. Những nỗi ngờ vực không biết việc mình đang làm là tốt hay
là xấu bây giờ không còn lấy một dấu vết nào nữa. Chỉ còn một nỗi nghi
hoặc khủng khiếp thỉnh thoảng hiện lên trong tâm trí chàng. Tất cả những
điều đó là chiêm bao chăng? Công tước tiểu thư Maria nhầm chăng? Ta có
hợm mình và tự tin quá chăng? Ta cứ tin tưởng thế này, rồi bỗng nhiên -
mà chắc rồi cơ sự phải như thế - rồi một hôm công tước tiểu thư sẽ nói
với nàng, thế là nàng cười mỉm và đáp: "Lạ quá! Chắc anh ấy nhầm. Chả
nhẽ anh ấy không biết rằng anh ấy là một con người, chỉ là một con người
mà thôi, còn tôi? Tôi là một cái gì khác hẳn cao hơn".
Chỉ có nỗi ngờ vực ấy thường đến với Piotr. Bây giờ chàng cũng
không dự tính trước điều gì cả. Chàng thấy hạnh phúc trước mắt có vẻ khó
tin đến nỗi chỉ riêng điều đó thực hiện là đủ rồi, còn về sau không thể
có gì khác nữa. Tất cả đều đã kết thúc.
Một trạng thái điên rồ hoan hỉ, bất ngờ mà Piotr tưởng mình không
thể có được, làm chủ tâm hồn chàng. Tất cả ý nghĩa cuộc sống, không phải
đối với mình chàng mà đối với cả thế giới chàng thấy đều bao hàm trong
tình yêu của chàng và cái khả năng được nàng yêu lại. Đôi khi chàng có
cảm tưởng mọi người đều chỉ bận tâm nghĩ đến một điều duy nhất: hạnh
phúc tương lai của chàng.
Đôi khi chàng có cảm tưởng họ cũng vui mừng như chính chàng, chẳng
qua họ cố che giấu nỗi vui mừng đi và giả vờ như đang bận lo đến những
việc khác mà thôi. Trong mỗi lời nói, mỗi cử chỉ chàng đều thấy họ có ý
ám chỉ đến hạnh phúc của chàng. Chàng thường làm cho những người gặp
chàng phải ngạc nhiên vì những cái nhìn và nụ cười sung sướng đầy ý
nghĩa biểu lộ sự thoả thuận thầm kín giữa chàng và họ. Nhưng những khi
chàng hiểu rằng người ta có thể không biết đến hạnh phúc của chàng,
chàng thành tâm thương hại họ và muốn tìm cách cắt nghĩa cho họ rằng tất
cả những điều đang khiến họ bận tâm đều là những điều hoàn toàn nhảm
nhí, vô nghĩa, không đáng cho họ lưu ý.
Những khi người ta đề nghị chàng ra làm việc nhà nước, hoặc những
khi người ta bàn luận những vấn đề chung chung về tổ quốc, về chiến
tranh, làm như là hạnh phúc của mọi người đều lệ thuộc vào kết quả này
nọ của các biến cố, chàng lắng nghe với: một nụ cười thương hại dịu dàng
và làm cho những người nói chuyện với chàng phải ngạc nhiên vì những
lời nhận xét kỳ quặc của chàng.
Nhưng dù là những người mà Piotr cho là hiểu rõ ý nghĩa chân chính của
cuộc sống - tức là tình yêu của chàng - hay là những kẻ bất hạnh hiển
nhiên không hiểu nổi điều đó cũng vậy, trong thời gian ấy mọi người đều
hiện ra trước mắr chàng dưới ánh hào quang của cái tình cảm đang chói
lọi trong lòng chàng, cho nên hê gặp người nào, là chàng thấy rõ ngay,
không phải cố gắng một mảy may nào, tất cả những gì tốt đẹp và đáng mến
trong con người đó.
Xem xét những công việc và giấy tờ của người vợ quá cố, chàng
không thấy có cảm xúc gì ngoài lòng thương hại đối với nàng, vì nàng
không biết cái hạnh phúc mà chàng đang được hưởng. Công tước Vaxili, bấy
giờ đang rất hãnh diện vì mới được thăng chức và được thưởng bội tinh,
chàng lại thấy là một ông già tốt bụng hiền lành, đáng thương.
Về sau. Piotr hay nhớ lại thời gian điên rồ đầy hạnh phúc này.
Tất cả những điều phê phán của chàng về người và việc trong thời gian
ấy, mãi mãi về sau chàng vẫn thấy là đúng. Về sau không những chàng
không từ bỏ cách nhìn ấy đối với người và ưiệc, mà trái lại trong những
lúc ngờ vực và mâu thuẫn nội tâm, chàng còn tìm đến cách nhìn của chàng
trong thời gian điên rồ ấy, và cách nhìn ấy bao giờ cũng tỏ ra đúng đắn.
"Có lẽ hồi ấy ta có kỳ quặc buồn cười thật, - chàng thường nghĩ,
nhưng hồi ấy ta không đến nỗi điên rồ như họ có thể tưởng. Trái lại, hồi
ấy ta thông minh và sắc sảo hơn lúc nào hết, và hiểu được tất cả những
gì đáng hiểu trong cuộc sống, bởi vì hồi ấy ta sung sướng". Sự điên rồ
của Piotr là ở chỗ chàng không chờ đợi tìm thấy như trước kia những lý
do cá nhân, mà chàng gọi là giá trị của con người rồi sau mới yêu mến
họ, mà tình yêu mến tràn ngập lòng chàng, chàng yêu mọi người một cách
vô cớ, và tìm thấy những lý do chắc chắn khiến cho họ xứng đáng được yêu
mến.
hết: Chương - 18 -19 -, xem tiếp: Chương - 20 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 EmptyWed Jan 05, 2011 10:24 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XV

Chương - 20 -

Từ cái buổi tối đầu tiên sau khi Piotr ra về, Natasa với nụ cười
tinh nghịch vui vẻ nói với công tước tiểu thư Maria rằng Piotr trông hệt
như người vừa mới tắm xong. Với chiếc áo đuôi én, với bộ tóc cắt ngắn
từ giờ phút ấy có một cái gì thầm kín mà chính nàng cũng không biết,
không sao cưỡng nổi, đã bừng tỉnh trong lòng Natasa.
Tất cả vẻ mặt dáng đi, khoé nhìn, giọng nói - Tất cả đều bỗng nhiên
thay đổi trong người nàng. Những điều mà chính nàng cũng không ngờ tới, -
Sức sống, những niềm hy vọng hạnh phúc - Đã trỗi dậy và đòi được thoả
mãn. Từ tối hôm đầu, Natasa dường như đã quên tất cả những việc đã xảy
ra đến với nàng. Từ buổi ấy, nàng không lần nào than phiền về cảnh ngộ
của mình, không nói lấy một lời về d vãng và không còn sợ xây đắp những
dự định vui vẻ cho tương lai. Nàng ít nói đến Piotr, nhưng khi tiểu thư
Maria nhắc đến chàng, một ánh sáng đã tắt ngấm từ lâu bỗng dưng lại bừng
sáng lên trong mắt nàng, và môi nàng mỉm cười một nụ cười kỳ lạ.
Sự thay đổi của Natasa thoạt tiên làm cho công tước tiểu thư Maria
ngạc nhiên, nhưng khi nàng đã hiểu được ý nghĩa của sự thay đổi ấy, nó
lại làm cho nàng phiền lòng. "Lẽ nào cô ấy yêu anh mình ít đến nỗi có
thể quên chóng như vậy?" - Nữ công tước Maria tự nhủ mỗi khi ngẫm nghĩ
về sự thay đổi đã diễn ra trong Natasa.
Nhưng khi ở bên cạnh Natasa thì tiểu thư không giận và không
trách nàng. Cái sức sống mới bừng tỉnh dậy và đang khống chế Natasa rõ
ràng là mãnh liệt, bất ngờ và không sao cưỡng nổi đối với chính bản thân
Natasa, đến nỗi những khi có Natasa bên cạnh, tiểu thư Maria cảm thấy
mình không có quyền trách móc nàng dù chỉ trong thâm tân cũng vậy.
Natasa buông mình theo tình cảm mới một cách trọn vẹn và chân
thành đến nỗi nàng cũng không cố che dấu rằng bây giờ nỗi buồn đã nhường
chỗ cho niềm vui.
Đêm hôm ấy, khi công tước tiểu thư Maria về phòng sau cuộc nói chuyện với Piotr, Natasa đón nàng trên ngưỡng cửa.
- Anh ấy nói rồi à? Đúng không? Anh ấy nói rồi à? - Natasa hỏi lại. Và
một sắc thái vừa vui mừng vừa tội nghiệp, như van lơn bạn tha thứ cho
nỗi vui mừng của mình, ngưng lại trên gương mặt Natasa.
- Em định đứng nghe lỏm ở ngoài cửa, nhưng em biết rằng chị sẽ nói lại với em.
Công tước tiểu thư Maria rất hiểu và rất cảm động trước đôi mắt
của Natasa đang nhìn nàng, nàng rất thương xót khi thấy bạn xúc động như
vậy, nhưng thoạt tiên những lời nói của Natasa vẫn làm cho công tước
tiểu thư Maria chạnh lòng. Nàng nhớ đến công tước Andrey đến tình yêu
của chàng.
"Nhưng biết làm thế nào được! Natasa không thể có cách nào khác". -
Tiểu thư Maria thầm nghĩ, và với vẻ mặt buồn rầu và hơi nghiêm nghị,
nàng thuật lại cho Natasa nghe tất cả Natasa điều mà Piotr đã nói với
nàng. Nghe nói chàng sắp đi Petersburg, Natasa sửng sốt:
- Đi Petersburg? - nàng nhắc lại, tựa hồ như không hiểu. Nhưng nhìn
vào vẻ mặt buồn rầu của tiểu thư Maria nàng đoán ra nguyên do khiến cho
bạn buồn và bỗng khóc oà lên.
- Maria, - nàng nói, - chị hãy cho em biết nên thế nào, em sợ em xấu xa. Maria bảo gì, em cũng sẽ làm theo, bảo với em.
- Natasa yêu anh ấy chứ.
- Vâng, - Natasa thì thầm.
- Thế tại sao Natasa lại khóc. Mình mừng cho Natasa - công tước
tiểu thư Maria nói, chỉ những giọt nước mắt ấy thôi cũng đã đủ cho nàng
hoàn toàn tha thứ cho nỗi vui mừng của Natasa.
Sẽ còn lâu, sau này kia, Maria, chị thử nghĩ mà xem sướng biết chừng nào khi em sẽ là vợ anh ấy, còn chị thì lấy anh Nikolai.
- Natasa, mình đã xin Natasa đừng nói đến việc ấy. Chúng mình hãy nói đến Natasa thôi.
Hai người im lặng một lát.
- Nhưng tại sao lại phải đi Petersburg? - Natasa bỗng thốt lên, rồi tự
mình vội vã, trả lời - Không, không, cần phải thế… Đúng không, Maria?
Cần phải như thế…
hết: Chương - 20 -, xem tiếp: Phần XVI -Chương -1 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 EmptyWed Jan 05, 2011 10:25 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Dịch giả: Cao Xuân Hạo, Nhữ Thành, Hoàng Thiếu Sơn, Thường Xuyên

Phần XVI -Chương -1 -


Bảy năm đã trôi qua kể từ những biến cố năm 1812 Đại dương lịch sử
của châu Âu, sau cơn sóng gió ba đào, đã trở lại yên tĩnh. Nó có vẻ như
đã lặng, nhưng những sức mạnh huyền bí thúc đẩy nhân loại (huyền bí bởi
vì chúng ta không biết những quy luật quy định sự vận động của nó) vẫn
tiếp tục tác động.
Tuy mặt biển lịch sử có vẻ im lìm, nhưng sự vận động của nhân loại
vẫn tiếp tục không ngừng chẳng khác gì sự vận động của thời gian. Những
nhóm người khác nhau tập hợp rồi lại phân tán, những nguyên nhân làm
cho các quốc gia hình thành và tan rã, làm cho các dân tộc thiên di, vẫn
đang dần dần được chuẩn bị.
Đại dương lịch sử không chuyển động thành từng đợt sóng xô từ bờ này
sang bờ kia như trước: nó đang sôi sục ở tận dưới đáy sâu.
Các nhân vật lịch sử không bị sóng cuốn đi từ bờ này sang bờ kia như
trước, bây giờ hình như họ quay tròn ở một chỗ. Các nhân vật lịch sử,
trước kia, phản ánh ở cương vị tướng soái cuộc vận động của quần chúng
bằng những mệnh lệnh chiến đấu, xung trận thì nay lại phản ánh sự vận
động sôi sục này bằng những âm mưu chính trị và ngoại giao; bằng những
đạo luật, những hiệp ước.
Các sử gia gọi hoạt động này của các nhân vật lịch sử là hành vi phản động.
Trong khi miêu tả hoạt động của các nhân vật lịch sử này, mà họ cho
là nguyên nhân của cái gọi là hành vi phản động, các sử gia đã nghiêm
khắc lên án họ. Tất cả các nhân vật nổi tiếng trong thời đại ấy kể từ
Alekxandr và Napoléon cho đến De Stael, các ông Fotyux, Selling, Ficher,
Satobrien v.v, đều bị họ phê phán nghiêm khắc và bị kết án hay được
thanh minh tuỳ ở chỗ họ góp sức vào phe tiến bộ hay phe phản động.
Theo miêu tả của họ, trong thời kỳ ấy ở Nga cũng diễn ra những hành
vi phản động mà người chủ mưu là Alekxandr mà chính họ đã miêu tả như
là người thủ xướng những công cuộc có xu hướng tự do trong thời kỳ đầu
của triều đại và là người đã cứu nước Nga.
Trong các sách vở của người Nga hiện nay, từ cậu học sinh trung
học đến nhà sử học thông thái không ai không công kích Alekxandr về
những hành động sai lầm của ông trong giai đoạn này.
"Đáng lý ông ta phải hành động thế này, thế nọ. Trong trường hợp
này ông làm đúng, trong trường hợp kia ông làm sai " Ông đã xử sự rất
tài tình trong thời gian đầu trị vì và năm 1812 nhưng ông đã hành động
kém cỏi khi ban hành hiến pháp cho nước Ba Lan, thành lập Liên minh thần
thánh, giao quyền cho Arakseyev, khuyến khích Golixyn và chủ nghĩa thần
bí, và sau đó lại khuyến khích Siskoy và Fotyux. Ông ta làm sai khi
giải tán trung đoàn Xemenovxki(1).
Phải mất hàng chục tờ giấy mới có thể kể hết những điều mà các sử
gia đã trách cứ ông, căn cứ trên những hiểu biết của họ về hạnh phúc của
nhân loại.
Những lời trách cứ kia có ý nghĩa gì?
Ngay cả những hành động của Alekxandr được các sử gia khen ngợi,
chẳng hạn: những công việc có xu hướng tự do trong thời kỳ đầu triều
đại, cuộc đấu tranh chống Napoléon, thái độ kiên quyết năm 1812 và cuộc
viễn chinh năm 1813, chẳng qua cũng đều xuất phát từ những cội nguồn làm
thành cái cá tính của Alekxandr huyết thống, giáo dục, sinh hoạt, và
đồng thời cũng là những nguyên nhân làm nảy sinh những hành động mà các
nhà sử học phê phán như thành lập Liên minh thần thánh, phục hồi nước Ba
Lan, mưu mô phản động trong những năm hai mươi.
Vậy thì những lời trách cứ ấy thực chất là thế nào? Đó là: một
nhân vật lịch sử như Alekxandr I, người đứng ở bậc thang cao nhất của
quyền lực mà con người có thể đạt tới, có thể nói là đứng ở cái tiêu
điểm sáng loà tập trung tất cả những luồng ánh sáng lịch sử, con người
chịu ảnh hưởng mạnh nhất thế giới của những âm mưu, những sự dối trá,
những lời nịnh hót, những ảo tưởng về mình, những điều vốn gắn bó khăng
khít với quyền lực, con người mà phút nào cũng cảm thấy mình chịu trách
nhiệm về tất cả những điều gì xảy ra ở châu Âu, lại không phải là một
con người tưởng tượng ra mà là một con người có thật, sống như tất cả
mọi người với những tập quán riêng, những dục vọng, những chí hướng vươn
tới chân, thiện, mỹ, - con người ấy cách đây năm mươi năm không phải là
không có đạo đức (các sử gia không chê trách ông về mặt này) nhưng ông
ta không quan niệm hạnh phúc của nhân loại như một vị giáo sư ngày nay,
tức là một người từ lúc còn trẻ đã nghiên cứu khoa học, tức là đọc sách,
đọc những bài giảng và ghi những điều đã học trong sách và những bài
giảng ấy vào một quyển vở.
Nhưng dù cứ cho Alekxandr cách đây năm mươi năm đã quan niệm sai về
vấn đề hạnh phúc của các dân tộc thì như vậy vô hình chung cũng giả
thiết rằng quan niệm về vấn đề này của nhà sử học hiện đang phê phán
Alekxandr, ít lâu nữa cũng sẽ thành ra sai lầm.
Giả thiết này lại càng dĩ nhiên và tất yếu bởi vì nếu ta theo dõi
sự phát triển của lịch sử, ta sẽ thấy rằng cứ mỗi năm, với mỗi tác giả
mới, cái quan niệm về hạnh phúc của nhân loại lại thay đổi, như vậy là
cái trước kia được xem là tốt thì mười năm sau sẽ là xấu và ngược lại.
Không những thế, còn có thể thấy trong lịch sử nhiều quan điểm hoàn toàn
đối lập cùng tồn tại một lúc về vấn đề cái gì là tốt cái gì là xấu có
người cho việc Alekxandr ban hành hiến pháp cho nước Ba Lan và thành lập
Liên minh thần thánh là một công lao, có người lại cho đó là một lỗi
lầm.
Còn về hoạt động của Alekxandr và Napoléon thì không thể nào nói là
có ích hay có hại, bởi vì chúng ta không thể nói nó có ích cho cái gì và
có hại cho cái gì. Nếu hoạt động này không làm cho một người nào đấy
vừa lòng, thì đó chẳng qua là nó không phù hợp với quan niệm của người
đó về vấn đề thế nào là tốt. Dù tôi có quan niệm điều tốt đây là năm
1812 ngôi nhà của cha tôi ở Moskva vẫn được nguyên vẹn, hay là vinh
quang của quân đội Nga, hay là sự phát triển của trường đại học
Petersburg hay của các trường đại học khác hay là nền tự do của Ba Lan,
hay là sự cường thịnh của nước Nga, hay là thế quân bình của châu Âu,
hay là một hình thức khai hoá nào đó ở châu Âu mệnh danh là sự tiến bộ,
thì tôi cũng cứ phải thừa nhận rằng hoạt động của bất kỳ nhân vật hch sử
ngoài những mục đích này còn có những mục đích khác khái quát hơn và
tôi không hiểu nổi.
Nhưng ta hãy thử giả thiết rằng cái gọi là khoa học có thể điều hoà
mọi mẫu thuẫn và có một tiêu chuẩn cố định để đánh giá cái tốt và cái
xấu đối với những nhân vật và những biến cố lịch sử.
Ta hãy giả thiết rằng Alekxandr lẽ ra có thể tiến hành mọi việc một
cách khác. Ta hãy giả thiết rằng theo chỉ thị của những người trách cử
ông, những người tự do biết được mục đích cuối cùng của sự vận động nhân
loại, của tự do, blnh đẳng và tiến bộ (hình như không có cái gì mới hơn
nữa) mà những người hiện nay trách cứ ông đã cấp cho ông. Ta hãy giả
thiết rằng cái cương lĩnh ấy có thể thực hiện được, đã vạch xong và
Alekxandr đã hành động theo cương lĩnh ấy. Nếu vậy, hoạt động của tất cả
những người phản đối xu hướng đường thời của chính phủ (hoạt động mà
các nhà sở gia cho là tốt và có ích) sẽ ra sao? Hoạt động ấy sẽ không
có, sự sống sẽ không có, sẽ chẳng có gì hết.
Cho rằng sự sống của con người có thể tuân theo sự chỉ huy của lý trí tức là phủ nhận khả năng tồn tại của sự sống.

Chú thích:
(1) Một đơn vị cận vệ. Sau cuộc chiến tranh 1812, có một phong trào mạnh
mẽ chống lại chế độ hà khắc trong quân đội. Trung đoàn Xemenovxki khởi
nghĩa vào tháng 10 năm 1820 bị trấn áp dữ dội và bị giải tán
hết: Phần XVI -Chương -1 -, xem tiếp: Chương - 2 -3 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 EmptyWed Jan 05, 2011 10:25 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XVI

Chương - 2 -3 -


Nếu ta thừa nhận, như các sử gia vẫn làm, rằng các vĩ nhân đưa nhân
loại đến những mục đích nhất định: hoặc là sự cường thịnh của nước Nga
hay nước Pháp, hoặc là thế quân bình của châu Âu, hoặc là việc truyền bá
những tư tưởng cách mạng, hoặc là sự tiến bộ chung, hoặc bất cứ cái gì
đi nữa, thì ta không thể nào cắt nghĩa các biến cố lịch sử mà không dùng
đến hai khái niệm là ngẫu nhiên, và thiên tài.
Nếu mục đích của những cuộc chiến tranh ở châu Âu đầu thế kỷ này là sự
cường thịnh của nước Nga, thì dù không có những cuộc chiến tranh trước
đó và không có cuộc xâm lăng, mục đích này vẫn có thể đạt được. Nếu mục
đích là sự vĩ đại của nước Pháp, thì không cần có Cách mạng và Đế chế
mục đích này cũng vần có thể đạt được. Nếu mục đích là truyền bá tư
tưởng thì ấn loát còn thực hiện nhiệm vụ ấy có kết quả hơn quân đội
nhiều, nếu mục đích là sự tiến bộ của nền văn minh thì có thể giả thiết
rất dễ dàng rằng ngoài cách bắn giết và phá huỷ tài sản của người ta,
còn có những cách khác hiệu nghiệm hơn nhiều để truyền bá văn minh.
Vậy thì tại sao việc lại xảy ra như vậy chứ không phải xảy ra một cách khác?
Bởi vì nó đã xảy ra như vậy. "Ngẫu nhiên đã tạo ra tình hình kẻ thiên tài đã lợi dụng nó" - sử học nói như vậy.
Nhưng ngẫu nhiên là gì? Thiên tài là gì? Hai danh từ ngẫu nhiên và
thiên tài không chỉ một cái gì thực tế tồn tại chó nên không thể nào
định nglĩla được. Những danh từ này chỉ nói lên một trình độ nhất định
trong việc hiểu biết các hiện tượng. Tôi không biết tại sao một hiện
tượng nào đó lại xảy ra, tôi nghĩ rằng tôi không thể nào biết được, vì
vậy tôi không muốn biết, và tôi nói: đó là ngẫu nhiên. Tôi thấy một sức
mạnh gây nên một tác dụng vượt hẳn lên trên mọi thuộc tính chung của con
người tôi không hiểu tại sao lại như thế, và tôi nói: đó là thiên tài.
Đối với một đàn cừu, thì con cừu mỗi buổi chiều được người chăn cừu
đưa đến một cái chuồng riêng và vỗ béo gấp đôi những con khác cần phải
xem là một thiên tài. Chiều nào cũng vẫn con cừu ấy không ở trong chuồng
chung mà được đưa sang một chuồng riêng để ăn phần yến mạch, rồi đến
khi đã béo tốt chính con cừu ấy được đưa ra làm thịt: hai hiện tượng đó
phải được xem là một sự phối hợp kỳ lạ của thiên tài với cả một loạt
những trường hợp ngẫu nhiên ít có.
Nhưng chỉ cần giống cừu dừng nghĩ rằng tất cả những điều chúng gặp
đều xảy ra nhằm mục đích của loài cừu, chỉ cần chúng, cho rằng những
điều chúng gặp có thể là những mục đích mà chúng không hiểu nổi, là lập
tức chúng sẽ thấy được tính thống nhất và liên quan chặt chẽ trong những
điều xảy ra đến với con cừu được vỗ béo. Dù chúng không biết con cừu
kia được vỗ cho béo nhằm mục đích gì thì ít nhất chúng cũng sẽ biết rằng
tất cả những điều con cừu đã gặp đều phải xảy ra một cách ngẫu nhiên,
và cũng sẽ không cần đến khái niệm ngẫu nhiên cũng như khái niệm thiên
tài nữa.
Chỉ có cách đừng đi tìm một mục đích gần gũi có thể hiểu được và
thừa nhận rằng không thể nào hiểu được mục đích cuối cùng, ta mới thấy
được tính chất nhất quán và hợp lí trong đời sống của các nhân vật lịch
sử, ta sẽ phát hiện được nguyên nhân sự bất tương xứng giữa hành vi của
họ với năng lực của con người nói chung, và chúng ta không cần đến hai
danh từ ngẫu nhiên và thiên tài nữa.
Ta chỉ cần thừa nhận rằng mình không biết được mục đích những biến
động của các dân tộc châu Âu, mà chỉ biết những hành động tàn sát đã xảy
ra thoạt tiên ở Pháp, rồi ở Ý, ở châu Phi, ở Áo, ở Tây Ban Nha, ở Nga,
và cuộc vận động từ Tây sang Đông rồi lại từ Đông sang Tây chính là thực
chất của những biến cố này, thế là ta không những không cần thấy có gì
là phi thường, là thiên tài trong tính cách của Napoléon và của
Alekxandr mà còn thấy rõ rằng tất cả những biến cố nhỏ nhất này đều tất
yếu.
Một khi đã thừa nhận rằng không sao biết được mục đích cuối cùng, ta
sẽ thấy rõ điều này: nếu đã không thể nào tưởng tượng ra rằng một giống
cây nào đó có thể có một loài và một thứ hạt giống thích hợp hơn loài
hoa và thứ hạt giống mà nó sinh sản ra, thì cũng không thể nào tưởng
tượng ra được hai người khác nhau với tất cả những điều họ đã trải qua
lại có thể thích hợp như vậy ngay đến từng chi tiết nhỏ nhất, với sứ
mệnh mà họ có nhiệm vụ thực hiện.

3.
Sự kiện căn bản chủ yếu trong những biến cố ở châu Âu đầu thế kỷ này
là cuộc di chuyển có tính chất quân sự của các khối dân tộc châu Âu từ
Tây sang Đông rồi lại từ Đông sang Tây. Cuộc di chuyển đầu tiên là cuộc
di chuyển từ Tây sang Đông. Để cho các đân tộc ở phương Tây có thể thực
hiện cuộc di chuyển đến tận Moskva, cần phải có những điều kiện sau đây:
1. Họ phải tập hợp lại thành một tổ chức quân sự to lớn đến mức có thể chạm trán với tổ chức quân sự ở phương Đông.
2. Họ phải phủ nhận tất cả những truyền thống và tập quán đã có và,
3. Để thực hiện cuộc di chuyển họ phải có một người cầm đầu có thể
biện hộ cho bản thân cũng như cho họ về tất cả những hành động lừa dối,
cướp bóc và tàn sát đã xảy ra trong cuộc tiến quân này.

Và bắt đầu từ cuộc cách mạng Pháp, cái tổ chức cũ không đủ to lớn
đã sụp đổ những tập quán và truyền thống cũ đã bị thủ tiêu, từng bước
một, dần dần hình thành một tổ chức có những quy mô mới, những tập quán
và những truyền thống mới, thế rồi hình thành con người có nhiệm vụ cầm
đầu cuộc di chuyển sau này và lãnh hết phần trách nhiệm về những việc
xảy ra.
Con người ấy vốn không có chính kiến, không có tập quán, không có
truyền thống, không có tên tuổi, thậm chí cũng không phải là người Pháp
nữa, hình như do những việc ngẫu nhiên hết sức kỳ lạ, bằng len lỏi giữa
tất cả những đảng phái đang làm cho nước Pháp náo động, và không theo
đảng phái nào, đã tiến lên chiếm một địa vị hiển hách.
Sự ngu dốt của những người đồng sự, sự nhu nhược và bất tài của
những kẻ đối địch, sự chân thành trong khi lừa dối, tính thiển cận hào
nhoáng và tự phụ của con người này đã đưa ông ta lên địa vị cầm đầu quân
đội. Cái tập thể binh sĩ ưu tú của quân đoàn Ý kết hợp với sự bạc nhược
của một đối phương không có ý chí chiến đấu, tính táo bạo và lòng tự
tin ngây thơ đã đem lại vinh quang quân sự cho ông ta. Vô số những
trường hợp gọi là ngẫu nhiên đâu đâu cũng đi kèm theo ông ta. Việc ông
thất sủng đối với những người cầm quyền ở Pháp lại có lợi cho ông ta.
Những cố gắng của ông ta nhằm thay đổi con đường đã định sẵn cho mình
đều thất bại: người ta không cho ông ta sang Nga, và ông ta xin sang Thổ
nhĩ Kỳ cũng không được(1). Trong cuộc chiến tranh ở Ý ông ta đã mấy lần
nguy đến tính mạng, và mỗi lần như thế đều thoát chết một cách bất ngờ.
Quân đội Nga là quân đội duy nhất có thể làm tiêu ma vinh quang của ông
ta, thì, vì những lí do ngoại giao này nọ lại không tiến vào châu Âu
khi ông đang ở đấy(2).
Ở Ý về, ông thấy chính phủ Paris đang trong quá trình tan rã và những
người tham gia chính phủ này thế nào cũng bị quét sạch và bị tiêu diệt.
Và cái lối thoát có thể đưa ông ra khỏi cái tình cảnh hiểm nghèo này
bỗng dưng tự nó hiện ra: đó là cuộc viễn chinh vô nghĩa và vô cớ sang
châu Phi.

Thế rồi những cái gọi là ngẫu nhiên lại giúp đỡ cho ông ta. Đảo Malta
vốn nổi tiếng là hiểm yếu và kiên cố đã đầu hàng không bắn một viên
đạn, những kế hoạch liều lĩnh, sơ hở nhất của ông ta đều thu được thắng
lợi. Hạm đội địch sau này sẽ không để lọt một chiếc thuyền con nào, lần
ấy lại để cho cả quân đội của ỡng ta đi qua. Ở châu Phi cả một loạt hành
động tàn bạo đã được thực hiện chống lại những người dân hầu như không
có vũ khí. Ấy thế mà những thủ phạm nhất là người cầm đầu của họ, lại tự
nhủ rằng đó là những việc đẹp đẽ quang vinh tựa như những hành động của
Cezar và Alekxandr vua Makedoni.
Cái lý tưởng vinh quang và vĩ đại ở đây tức là không những không thấy có
gì sai lầm trong những việc mà mình đã làm mà con lấy làm hãnh diện về
tất cả những tội ác mình đã phạm, gán cho nó một ý nghĩa siêu phàm không
thể hiểu được, - cái lý tưởng chỉ đạo con người này và những kẻ liên
quan đến ông ta, - đã hình thành một cách tự do ở châu Phi. Tất cả những
việc đó ông ta làm đều thành công. Bệnh dịch hạch không đụng đến ông
ta. Việc ông ta rời châu Phi, bỏ rơi các bạn chiến đấu trong cơn hoạn
nạn là một hành động hồ đồ của trẻ con, không có lý do và chẳng cao quý
một chút nào, nhưng lại được xem là một công lao, và hạm đội của địch
lại hai lần để cho ông ta đi lọt. Đến khi ông ta về Paris một cách vu
vơ, đầu óc đã hoàn toàn mê muội vì những tội ác đã chót lọt, sãn sàng
đóng vai trò của mình, thì tình trạng tan rã của cái chính phủ cộng hoà
mà một năm trước đây có thể nguy hại cho ông ta, bây giờ đã lên đến cùng
cực, và sự có mặt của ông, một con người mới không thuộc đảng phái nào,
nay chỉ có thể đề cao ông lên mà thôi.
Ông ta không có một chương trình hành động nào, cái gì ông ta cũng sợ,
nhưng các chính đảng bám lấy ông ta và khẩn khoản mời ông gia nhập.
Chỉ có một mình ông ta với cái lí tưởng về vinh quang và vĩ đại đã
hình thành ở Ý và ở Ai Cập, với lòng sủng bái bản thân một cách điên
cuồng, với thái độ táo bạo trong tội ác, chân thành trong dối trá, chỉ
có ông ta mới có thể biện hộ cho những điều sẽ phải xảy ra.
Ông ta cần thiết cho cái địa vị đang chờ mình, và chính vì vậy, hầu như
bất chấp ý muốn của mình và tuy đang phân vân lưỡng lự, tuy chưa có kế
hoạch gì, tuy đã phạm đủ các sai lầm, ông ta bị lôi cuốn vào một cuộc âm
mưu cướp chính quyền và âm mưu này đã thành công.
Người ta đẩy ông vào dự phiên họp của hội đồng chấp chính. Hoảng sợ,
ông muốn bỏ chạy, cho là mình chết đến nơi rồi, ông giả vờ ngất đi, ông
nói những điều vô nghĩa đáng lẽ phải làm cho ông mất mạng. Nhưng những
người cầm đầu nước Pháp, trước kia thông minh và tự hào là thế, bây giờ
lại cảm thấy vai trò của mình đã hết, nên còn bối rối hơn cả ông ta nữa,
và phát biểu những lời khác hẳn những lời đáng lẽ phải nói để giữ lấy
chính quyền và hãm hại ông.
Sự ngẫu nhiên, hàng triệu việc ngẫu nhiên đã trao chính quyền cho
ông, và mọi người hầu như đã thoả thuận với nhau, đều góp phần củng cố
cái chính quyền ấy. Những sự ngẫu nhiên đã tạo nên tính cách của những
người cầm quyền ở Pháp lúc bấy giờ đã chịu phục tùng ông, sự ngẫu nhiên
đã tạo nên tính cách Pavel I là người thừa nhận quyền lực của ông, sự
ngẫu nhiên đã tạo nên một cuộc mưu sát không những không làm hại đến ông
mà còn làm cho quyền lực của ông thêm vững chắc. Ngẫu nhiên đã đặt công
tước Anghien vào tay ông và tình cờ buộc ông giết chết công tước mặc dù
ông không muốn, và sự tình cờ này đã thuyết phục quần chúng mạnh mẽ hơn
tất cả những việc khác, cho họ thấy rằng ông ta có lí vì ông ta có sức
mạnh. Ngẫu nhiên đã khiến ông dốc toàn lực để thực hiện một cuộc viễn
chinh sang Anh (một cuộc viễn chinh hiển nhiên sẽ là tiêu diệt ông),
nhưng rồi không bao giờ thực hiện kế hoạch này, mà lại tấn công Mack và
quân áo một cách bất ngờ và đạo quân này đã đầu hàng không chiến đấu.
Ngẫu nhiên và thiên tài đã làm cho ông chiến thắng ở Auxterlitx và tình
cờ tất cả mọi người, không riêng gì ở Pháp mà trên toàn cõi châu Âu cũng
thế - trừ nước Anh là nước sẽ không tham dự vào những biến cố sẽ xảy ra
- tất cả mọi người, mặc dầu trước kia vẫn ghê sợ những tội ác của ông,
bây giờ đều thừa nhận quyền lực của ông, thừa nhận cái danh vị mà ông tự
khoác cho mình cũng như cái lí tưởng của ông về quang vinh và vĩ đại mà
bây giờ ai cũng cảm thấy là một cái gì tốt đẹp và hợp lý.
Dường như để ướm thử và chuẩn bị cho cuộc di chuyển sáp đến, những
lực lượng của phương Tây đã mấy lần trong những năm 1805, 1806, 1807,
1809 cố gắng tiến về phương Đông, mỗi lần một đông hơn và mạnh hơn. Năm
1811, một đoàn người vũ trang hình thành ở Pháp, hợp với các dân tộc
Trung Âu làm thành một khối người đồ sộ. Cái khối này ngày càng tăng lên
thì các sức biện hộ của con người cầm đầu cuộc di chuyển cũng càng mạnh
hơn. Trong khoảng mười năm chuẩn bị trước khi diễn ra cuộc di chuyển vĩ
đại này, con người ấy giao dịch với tất cả các đế vương ở châu Âu. Các
vị chúa tể của thế giới này, là những kẻ bị lột mặt nạ, không thể nào
đựa ra một lí tưởng nào hợp lí để chống đối lại với cái lí tưởng vô
nghĩa của ông về vinh quang và vĩ đại. Họ lần lượt thi nhau tìm cách
biểu lộ cho ông ta thấy rõ cái nhân cách không ra gì của họ. Vua Phổ cho
vợ đến cầu xin ân huệ của bậc vĩ nhân; hoàng đế Áo coi việc ông ta nhận
con gái mình làm nàng hầu là một ân huệ; giáo hoàng, người giữ gin
thánh địa của các dân tộc, dùng tôn giáo của mình để đề cao uy danh của
bậc vĩ nhân. Bản thân Napoléon tự chuẩn bị vai trò của mình ít hơn là
mọi người chung quanh chuẩn bị cho ông ta nhận hết phần trách nhiệm về
những việc đang xảy ra và sẽ phải xảy ra. Không có lấy một hành động,
một tội ác, một mánh khoé lừa bịp vụn vặt nào của ông ta mà những người
chung quanh lại không lập tức tán tụng như một hành động cao cả. Ngày
hội tốt nhất mà người Đức có thể nghĩ ra để ca ngợi ông ta là hội ăn
mừng hai trận Lenca và Auerstet. Không phải chỉ một mình ông ông ta vĩ
đại mà cả tổ tiên, anh em ông ta, các con riêng của vợ ông ta, anh em vợ
ông ta cũng đều vĩ đại cả. Mọi việc đều diễn ra nhằm làm cho ông ta mất
hết những dấu vết cuối cùng của lí trí và chuẩn bị cho ông ta đóng các
vai trò khủng khiếp của mình. Và đến khi ông ta đã sẵn sàng thì lực
lượng ông cần đến cũng sẵn sàng.
Cuộc xâm lăng tràn sang phương Đông, dắt đến mục tiêu cuối cùng của
nó là Moskva. Thủ đô bị chiếm, quân đội Nga còn bị tổn thất nhiều hơn
tất cả những đạo quân của đối phương trong những cuộc chiến tranh kia,
từ Auxterlix đến Vagram.

Thế rồi đùng một cái, thay cho những sự ngẫu nhiên, thay cho cái
thiên tài vẫn nhất quán đưa ông ta đến mục đích đã định qua cả một loạt
những thành công liên tiếp, bỗng xảy ra vô số những việc ngẫu nhiên
ngược lại, từ bệnh sổ mũi ở Borodino đến những cơn giá rét và những tia
lửa đã đốt cháy Moskva, thế là cái thiên tài kia nhường chỗ cho một sự
ngu ngốc và hèn hạ nhất xưa nay chưa từng thấy.
Đạo quân xâm lược bỏ chạy, quay trở lại, chạy nữa và lần này tất cả
những việc ngẫu nhiên lại luôn luôn chống lại ông ta chứ không ủng hộ
ông ta nữa.
Một cuộc di chuyển ngược lại ở Đông sang Tây đã diễn ra, giống cuộc di chuyển trước đây từ Tây sang Đông một cách lạ lùng.
Trước cuộc di chuyển to lớn này cũng đã có những cuộc thí nghiệm tiến
quân từ Đông sang Tây vào những năm 1805, 1807, 1809, cũng có sự tập hợp
những khối người ở những quy mô đồ sộ, những dân tộc ở Trung Âu cũng
gia nhập cuộc di chuyển, cũng có sự dao động ở giữa đường và càng đến
gần mục đích thì tốc độ càng tăng.
Paris, mục tiêu cuối cùng, đã đạt tới. Chính phủ và quân đội
Napoléon bị tiêu diệt. Bản thân Napoléon không còn có chút ý nghĩa gì
nữa: tất cả những hành động của ông ta đã rõ ràng là thảm hại và xấu xa.
Nhưng một sự ngẫu nhiên không thể giải thích được lại xảy ra, đồng minh
căm ghét Napoléon vì thấy ông ta là nguyên nhân làm họ nguy khốn, một
khi ông đã mất hết lực lượng và quyền hành, một khi những tội ác và
những trò man trá của ông ta đã bị bóc trần, đáng lẽ họ phải thấy ông ta
đúng như mười năm trước và sau một năm sau - tức như một tên cường đạo ở
ngoài vòng pháp luật. Nhưng do một sự ngẫu nhiên kỳ lạ, không ai thấy
điều đó cả.
Vai trò của ông ta chưa hết. Con người mà mười năm về trước và một năm
về sau người ta cho là một tên cường đạo ở ngoài vòng pháp luật lại được
đưa đến một hòn đảo cách nước Pháp hai ngày thuyền, người ta cho ông
làm chủ hòn đảo, cấp cho ông một đội bảo vệ và hàng triệu bạc để làm gì
chẳng ai hiểu.
Chú thích:
(1) Tháng 8 năm 1895 Napoléon xin chính phủ phái đến Thổ Nhĩ Kỳ để cải tổ pháo binh.
(2) Năm 1897 Napoléon sang Ai Cập. Năm 1899 quân Nga Xuvorov chỉ huy
tiến vào Ý, đánh bại Morô ở Calsano, đánh bại Mac Donal ở Trebbia, đánh
bại Juben ở Novy
hết: Chương - 2 -3 -, xem tiếp: Chương - 4 -5 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 EmptyWed Jan 05, 2011 10:25 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XVI

Chương - 4 -5 -


Sự vận động của các dân tộc bắt đầu lắng lại. Những làn sóng của
cuộc vận động to lớn đã hạ xuống và trên mặt biển yên lặng hiện ra những
vòng tròn. Trong đó có những nhà ngoại giao bơi thuyền qua lại và tưởng
đâu chính mình đã làm cho mặt biển trở thành phẳng lặng.
Nhưng mặt biển lặng bỗng lại nổi sóng. Các nhà ngoại giao tưởng đâu
những sự bất đồng của họ là nguyên nhân của cơn sóng gió mới. Họ chờ đợi
chiến tranh xảy ra giữa các vị vua của họ, họ cảm thấy tình hình này
không sao giải quyết nổi. Nhưng làn sóng mà họ cảm thấy dâng lên lại
không xuất phát từ nơi họ dự kiến. Đó vẫn là làn sóng ngày trước và điểm
xuất phát vẫn là Paris. Đó là làn sóng dội lại cuối cùng của cuộc vận
động từ phương Tây, làn sóng này phải giải quyết được những khó khăn về
ngoại giao tưởng chừng không giải quyết nổi và kết thúc cuộc vận động
quân sự của thời đại này.
Con người đã làm cho nước Pháp tan hoang, một thân một mình, không có nội ứng, không có quân đội, đổ bộ lên đất Pháp.
Bất cứ người lính gác nào cũng có thể bắt ông ta, nhưng do một sự ngẫu
nhiên kỳ lạ, không những không ai bắt ông ta, mà mọi người còn hân hoan
đón chào con người mà vừa mới hôm qua họ còn nguyền rủa và một tháng sau
họ lại sẽ nguyền rủa.
Con người này cần thiết để biểu lộ cho hồi kịch tập thể cuối cùng. Hồi kịch ấy đã diễn ra, vai trò cuối cùng đã đóng xong.
Người ta bảo diễn viên cởi bỏ trang phục và lau sạch son phấn, người ta không cần đến hắn nữa.
Và mấy năm trôi qua: trong thời gian đó, sống cô đơn trên hòn đảo
con người ấy lại:tự diễn trước mặt mình một tấn kịch thảm hại, lại mưu
mô dối trá đé bào chữa cho những hành vi của mình trong khi sự bào chữa
này không còn cần thiết nữa, và bày ra cho tất cả thế giới thấy rõ cái
mà người ta cho là một sức mạnh khi có một bàn tay vô hình dắt dẫn nó
thật ra là cái gì.
Khi vở kịch đã diễn xong và diễn viên đã cởi trang phục, nhà đạo
diễn đưa hắn ra cho chúng ta xem và nói: Hãy xem con người mà các anh đã
tin tơởng? Đây, nó đây? Bây giờ các anh đã thấy rằng chính tôi chứ
không phải nó chi phối các anh rồi chứ?
Nhưng bị quáng mắt vì sức mạnh của cuộc vận động, trong một thời gian dài, người ta vẫn không hiểu điều đó.
Cuộc đời của Alekxandr, con người cầm đầu cuộc vận động ngược lại từ
Đông sang Tây, lại còn cho ta thấy một sự liên quan chặt chẽ và tất yếu
hơn nữà.
Người có thể làm lu mờ tất cả những người khác và cầm đầu cuộc vận động từ Đông sang Tây này cần có những gì?
Người đó cần phải có ý thức về chính nghĩa, cần quan tâm đến
những công việc của châu Âu, nhưng phải nhìn từ xa, không bị những lợi
ích nhỏ nhất làm mờ mắt, người đó cần phải vượt lên trên các quốc vương
đường thời về mặt đạo đức. Người đó cần phải có một nhân cách dịu dàng
và hấp dẫn, cần phải có một mối hiềm khích riêng với Napoléon. Và tất
những điều đó đều tập trung ở Alekxandr I, tất cả những điều đó đều được
chuẩn bị bởi những cái gọi là ngẫu nhiên trong suốt quãng đời trước đây
của ông ta, nếp giáo dục, xu hướng tự do ở thời kỳ đầu, những người cố
vấn ở quanh ông, những sự biến ở Austerlix, Tilzit, và Erfurt.
Trong cuộc chiến tranh nhân dân, nhân vật này ngồi không bởi vì
người ta không cần đến. Nhưng đến khi người ta thấy thế nào cũng phải có
một cuộc chtến tranh của toàn thể châu Âu, nhân vật này liền xuất hiện
đúng lúc và đúng địa vị của mình. Rồi sau khi liên kết các dân tộc ở
châu Âu lại, ông ta đã đưa họ đến mục đích.
Mục đích đã đạt được. Sau cuộc chiến tranh cuối cùng năm 1815,
Alekxandr đã lên đến tột đỉnh của quyền lực con người. Ông ta đã sử dụng
cái quyền lực ấy như thế nào?
Alekxandr I, con người đã bình định châu Âu, con người từ lúc niên
thiếu chỉ nghĩ đến hạnh phúc của dân tộc mình, con người đã đề xướng
những cải cách tự do ở tổ quốc mình, đến bây giờ, khi mà hình như ông ta
đã có được uy quyền tối cao và do đó có đủ khả năng mưu cầu hạnh phúc
cho nhân dân mình, trong khi Napoléon đang ngồi xây dựng trong cảnh tù
đày những kế hoạch trẻ con và dối trá nhằm đem lại hạnh phúc cho nhân
loại nếu ông ta có quyền lực thì Alekxandr I, sau khi đã làm xong sứ
mệnh và cảm thấy bàn tay của Thượng đế đặt lên người mình, bỗng nhận ra
sự vô nghĩa của cái quyền lực hư ảo kia, bèn tờ bỏ nó, trao nó lại cho
cọn người đáng khinh bỉ và bị ông khinh bỉ, chỉ nói:
"Không phải vì tôi, không phải vì tôi mà nhân danh Chúa!(1) Tôi
cũng chỉ là một người như các anh, xin để cho tôi sống như một con người
và cho tồi nghĩ đến linh hồn của tôi và nghĩ đến thượng đế".
Cũng như mặt trời và mỗi nguyên tử ê-te đều là những hình cầu hoàn chỉnh
tự bản thân nó và đồng thời chỉ là những nguyên tử của một tổng thể mà
con người không thể thiếu được vì nó quá to lớn, mỗi cá nhân cũng mang
trong bản thân những mục đích riêng, và đồng thời nó mang những mục đích
ấy cũng là để phục vụ những mục đích chung mà con người không hiểu
được.
Con ong đậu trên một bông hoa đã đốt một đứa trẻ. Thế là đứa trẻ
sợ loài ong và nói rằng mục đích của ong là đốt người. Nhà thờ ngắm con
ong đậu trên đài hoa và nói rằng mục đích của ong là hấp thụ hương thơm
của hoa. Người nuôi ong nhận thấy con ong lấy phấn hoa và mật hoa đem về
tổ nên nói rằng mục đích của ong là kiếm mật. Một người nuôi ong khác,
nghiên cứu đời sống của bầy ong kĩ hơn, nói rằng con ong lấy phấn và mật
để nuôi ong con và ong chúa, rằng mục đích của nó là bảo tồn nòi giống.
Nhà thực vật học nhận thấy rằng trong khi mang phấn hoa bay từ hoa đực
đến hoa cái, con ong làm cho hoa cái thụ tinh, và cho rằng đó chính là
mục đích của ong. Một nhà thực vật học khác nhìn thấy hiện tượng di cư
của thực vật nói rằng con ong góp phần vào sự di cư ấy, và người quan
sát mới này có thể nói rằng đó chính là mục đích của ong. Nhưng mục đích
cuối cùng của ong thì vẫn không thể quay về mục đích thứ nhất, thứ hai
hay thứ ba mà trí tuệ con người có thể phát hiện được, trí tuệ con người
càng được nâng cao trong việc phát hiện những mục đích này thì đối với
nó mục đích cuối cùng lại càng hiển nhiên là không sao hiểu nổi.
Con người chỉ có thể quan sát sự tương quan giữa đời sống của ong với
những hiện tượng khác của cuộc sống. Về những mục đích của các nhân vật
lịch sử và của các dân tộc cũng cần phải nói như vậy.

Chú thích:
(1)Alekxandr sai đúc một huy chương kỷ niệm việc chiến thắng quân Pháp năm 1812 trên huy chương có câu này.

5.
Đám cưới Natasa lấy Bezukhov năm 1813 là sự việc vui mừng cuối cùng
trong gia đình Roxtov. Năm ấy, bá tước Ilya Andreyevich qua đời, và như
sự thể vẫn thường thấy xưa nay, với cái chết của ông, gia đình cũ của
họ Roxtov cũng tan rã.
Những biến cố năm vừa qua: vụ hoả hoạn Moskva, cuộc lánh nạn ra
khỏi thành phố, cái chết của công tước Andrey và nỗi tuyệt vọng của
Natasa, cái chết của Petya và nỗi đau buồn của bá tước phu nhân - tất cả
những việc ấy cứ dồn dập giáng xuống đầu lão bá tước. Hình như ông ta
không hiểu và cảm thấy mình không sao đủ sức hiểu nổi ý nghĩa của tất cả
những biến cố này nên đành nhẫn nhục cúi mái đầu già nua xuống, dường
như chờ đợi và cầu xin bồi thêm những đòn khác nữa để kết liễu đời mình.
Khi thì ông có vẻ hoảng sợ và ngỡ ngàng, khi thì ông lại phấn chấn và
hăng hái một cách thiếu tự nhiên.
Đám cưới Natasa, do những công việc lo toan về hình thức của nó đã
làm cho ông bận rộn một dạo. Ông sai dọn những bữa ăn chiều, những bữa
ăn tối để thết khách và hẳn là ông muốn làm ra vẻ vui nhưng cái vui của
ông không lan sang người khác như xưa, trái lại có làm những người biết
rõ và mến ông đâm ái ngại cho ông.
Sau khi Piotr đưa vợ đi, ông trở nên trầm lặng và bắt đầu kêu buồn.
Được mấy ngày, ông ốm nằm liệt giường. Ngay từ những ngày đầu tiên lâm
bệnh, mặc dầu các bác sĩ đã ra sức an ủi, ông vẫn hiểu rằng ông sẽ không
bao giờ trở dậy nữa. Bá tước phu nhân suốt hai tuần lễ túc trực bên
giường ông, ngồi trong chiếc ghế bành, không thay quần áo. Cứ mỗi lần
phu nhân cho ông uống thuốc ông lại nghẹn ngào nén tiếng nấc và lặng lẽ
hôn tay vợ. Ngày cuối cùng ông khóc rưng rức, xin vợ và người con trai
vắng mặt tha thứ cho ông đã trót làm khuynh gia bại sản - đó là tội lỗi
nặng nhất mà ông cảm thấy mình đã phạm. Sau khi làm lễ nhận mình Chúa và
xức đầu thánh. Ông tắt thở một cách êm thấm, và ngày hôm sau đám người
quen biết đến làm trọn bổn phận cuối cùng đối với người đã khuất đông
chật cả căn nhà của gia đình Roxtov thuê ở. Tất cả những người quen biết
kia đã bao nhiêu lần ăn uống ở nhà ông, đã bao lần chê cười ông, bây
giờ đều có một cảm giác hối hận và mủi lòng như nhau, họ nói như để tự
thanh minh cho mình trước một người khác:
"Phải, muốn nói gì thì nói chứ ông ta vẫn là một người hết sức quý
giá, thời buổi này chẳng còn ai được như thế. Vả chăng ai mà chẳng có
nhược điểm?".
Đúng vào lúc công việc tiền nong của bá tước rối ren đến nỗi không
thể nào hình dung cơ sự rồi sẽ kết thúc ra sao nếu tình hình này cứ kéo
dài một năm nữa thì ông ta chết một cách đột ngột.
Nikolai đang ở Paris với quân đội Nga thì nhận được tin cha chết.
Chàng liền làm đơn xin giải ngũ rồi không đợi được phê chuẩn, chàng xin
nghỉ phép và lập tức trở về Moskva. Tình hình tiền nong của gia đình một
tháng sau khi bá tước chết đã lộ rõ hẳn ra và mọi người đều ngạc nhiên
về số tiền khổng lồ gồm các khoản nợ lặt vặt mà không ai ngờ đến. Số
tiền nợ lớn gấp đôi giá trị tài sản.
Họ hàng thân thích khuyên Nikolai từ chối việc thừa kế gia sản.
Nhưng Nikolai thấy từ chối như vậy là xúc phạm đến hương hồn cha cho nên
một mực không nghe, và nhất định thừa kế di sản cùng với nghĩa vụ trả
hết các món nợ.
Các chủ nợ mấy lâu nay im lặng vì sinh thời bá tước họ đều thấy
ngần ngại trước tấm lòng đốn hậu bừa bãi của ông ta, vốn có một ảnh
hưởng mơ hồ nhưng mạnh mẽ với họ, bây giờ bỗng nhiên kéo nhau đến đòi
nợ. Và như thói đời vẫn thế, họ ganh đua nhau về chỗ ai sẽ được trả nợ
trước, rồi chính những kẻ như Mityenka là những người chỉ có tấm hối
phiếu cho tiền chứ không phải biên nợ, lại là những chủ nợ sách nhiễu
nhất. Họ không cho Nikolai trì hoãn, không cho chàng thư thả lấy một
phút, và những người ra về thương hại ông già đã làm cho họ thiệt thòi
(nếu quả có thiệt thòi) thì bây giờ lại nhẫn tâm xô vào người thừa kế
trẻ tuổi - con người hiển nhiên là chẳng có lỗi gì đối với họ và đã tình
nguyện đảm đương việc trang trải nợ nần.
Những biện pháp dàn xếp của Nikolai đưa ra không thu được kết
quả, những đất đai đem lại đấu giá chỉ bán được một nửa giá thật, thế mà
một nửa số nợ vẫn chưa làm sao trả được. Nikolai nhận ba vạn rúp của em
rể là Bezukhov gửi cho chàng để trả khoản nợ mà chàng cho là một món nợ
thực sự và khẩn cấp, và để khỏi bị tù vì số nợ còn lại, như những người
chủ nợ vẫn hăm doạ chàng, chàng lại xin nhận một chức vụ nhà nước.

Chàng không thể nào trở về quân ngũ tuy hễ có chỗ khuyết là chàng
sẽ được thăng ngay trung đoàn trưởng, bởi vì mẹ chàng bây giờ cứ bám
lấy chàng, lẽ sống cuối cùng của bà. Cũng vì vậy, tuy không muốn ở
Moskva giữa những người đã quen biết mình từ trước tuy chán ghét cái
nghề công chức, chàng vẫn phải nhận làm một chức vụ nhà nước ở Moskva,
và sau khi cởi bỏ bộ quân phục yêu quí chàng cùng mẹ và Sonya đến ở căn
phòng nhỏ hẹp trên đường Xitxev-Vrazok.
Natasa và Piotr hồi ấy ở Petersburg, họ không có được một khái niệm rõ
ràng về tình cảnh của Nikolai. Nikolai vay tiền em rể nhưng vẫn tìm cách
giấu không cho Piotr biết tình trạng quẫn bách của mình. Tình cảnh của
Nikolai đặc biệt gay go là vì với một nghìn hai trăm rúp tiền lương
không nhưng chàng vẫn phải lo nuôi sống mình, Sonya và mẹ chàng, mà còn
phải phụng dưỡng mẹ như thế nào cho bà đừng nhận thấy trong nhà túng
thiếu. Bá tước phu nhân không thể nào quan niệm cuộc sống không có những
món xa hoa mà bà đã quen từ thuở nhỏ, và không hề biết cái đó khó khăn
đến thế nào đối với con trai, bà cứ luôn luôn vòi vĩnh, khi thì với cỗ
xe bây giờ không còn nữa để đi mời một bà bạn về, khi thì yêu cầu một
món ăn đắt tiền cho mình hay là một chai rượu cho con trai, khi thì đòi
tiền để mua một món quà bất ngờ cho Natasa, cho Sonya, hay cho cả
Nikolai nữa.
Sonya trông coi việc nhà, chăm sóc bà cô, đọc sách cho bà nghe,
chịu đựng cái tính khí bất thường và cái ác cảm thầm kín của bà, và giúp
Nikolai che giấu không cho lão bá tước phu nhân biết tình cảnh túng
thiếu của họ. Nikolai cảm thấy mình như một món nợ không sao trả được,
chàng không phục tình cảm nhẫn nại và lòng tận tuỵ của nàng, nhưng lại
cố xa lánh nàng.
Trong thâm tâm, chàng dường như có ý trách nàng rằng sao lại
quá hoàn toàn như vậy. Ở nàng có đủ những cái khiến chàng phải yêu. Và
chàng cảm thấy mình càng quý trọng nàng bao nhiêu thì chàng lại càng ít
yêu nàng bấy nhiêu. Chàng tin vào những lời nàng đã viết trong bức thư
nói rằng nàng trả lại tự do cho chàng, và bây giờ chàng đối xử với nàng
như thể tất cả những gì đã xảy ra giữa hai người đều đã bị quên lãng từ
thời nảo thời nao và dù sao cũng không bao giờ trở lại được nữa.
Tình cảnh Nikolai càng ngày càng sa sút. Ý nghĩ dành dụm tiền
lương nay đã là một giấc mơ hão huyển. Không những chàng không dành dụm
được gì, mà vì phải thoả mãn những đòi hỏi của mẹ, chàng còn mắc thêm
những món nợ nhỏ. Chàng không thấy có lấy một lối thoát nào có thể đưa
chàng ra khỏi tình cảnh này.
Ý nghĩ lấy một người con gái giàu có, điều mà những người thân
thích thường bàn với chàng, chàng thấy nó kinh tởm quá. Một lối thoát
khác ra khỏi tình cảnh này - cái chết của mẹ chàng - không bao giờ nảy
ra trong óc chàng. Chàng không mong ước gì, không hy vọng vào cái gì
hết, trong thâm tâm chàng chỉ có một khoái cảm u ám và khắc khổ trong
khi chịu đựng tình cảnh của mình mà không hề than thở. Chàng tìm cách
tránh những người quen cũ vì lòng ái ngại và những lời đề nghị giúp đỡ
của họ khiến chàng thấy nhục, chàng tránh hết những trò tiêu khiển và
những thú vui, ngay ở nhà chàng cũng không làm gì ngoài việc xếp bài với
mẹ, im lặng thơ thẩn một mình trong phòng, hểt hết tẩu thuốc này đến
tẩu thuốc khác. Chàng dường như trân trọng gin giữ tâm trạng ảo não này
vì cảm thấy chính mình nhờ có nó chàng mới chịu đựng được tình cảnh của
mình.
hết: Chương - 4 -5 -, xem tiếp: Chương - 6 -7 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 EmptyWed Jan 05, 2011 10:26 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XVI

Chương - 6 -7 -


Đầu mùa đông, công tước tiểu thư Maria đến Moskva. Nhờ những tin
đồn đại trong thành phố, nàng biết tình cảnh gia đình Roxtov và việc
người con trai "hi sinh cho mẹ" - trong thành phố người ta vẫn nói như
vậy.
"Mình vẫn biết chàng không thể nào khác được" - tiểu thư Maria tự
nhủ, lòng vui sướng cảm thấy rõ hơn bao giờ hết mình yêu chàng. Hồi
tưởng lại những quan hệ thân mật và gần như ruột thịt với tất cả gia
đình, nàng cho rằng mình có bổn phận phải đến thăm họ. Nhưng khi nhớ đến
những quan hệ với Nikolai ở Voronez nàng lại càng đâm sợ không dám đến.
Tuy vậy mấy tuần sau khi đến Moskva, nàng cố gắng tự nhủ, và đến nhà
Roxtov. Nikolai là người đầu tiên ra đón nàng, vì muốn đến phòng bá tước
phu nhân phải đi qua phòng chàng. Thoạt mới nhìn chàng, gương mặt
Nikolai chẳng hề lộ vẻ gì vui mừng như tiểu thư Maria hằng mong đợi, mà
lại có vẻ lạnh lùng, khắc khổ và kiêu hãnh, điều mà trước đây nàng không
bao giờ thấy ở chàng. Nikolai hỏi thăm sức khoẻ của nàng, đưa nàng đến
gặp mẹ, và sau khi ngồi năm phút chàng bỏ ra ngoài.
Khi công tước tiểu thư ở phòng bá tước phu nhân đi ra, Nikolai lại
tiếp nàng và đưa nàng ra ngoài với một thái độ đặc biệt khách khí và
lãnh đạm. Chàng không nói một lời nào để đáp lại những nhận xét của nàng
về sức khoẻ của bá tước phu nhân. "Việc này có quan hệ gì đến cô kia
chứ? Cô cứ mặc xác tôi" - cái nhìn của chàng như muốn nói.
- Cô ta lảng vảng đến đây làm gì? Cô ta cần cái gì kia chứ? Tôi không chịu nổi các bà tiểu thư với những thái độ ân cần ấy!
Chàng nói to lên với Sonya, hẳn là không sao nén nổi bực tức, sau khi công tước tiểu thư đã ra khỏi nhà mình.
- Sao anh lại nói như vậy, anh Nikolai - Sonya nói, chật vật lắm mới
giấu nổi niềm vui sướng trong lòng - Cô ấy tốt thế, mẹ quí cô ấy lắm kia
mà!
Nikolai không đáp. Chàng chỉ muốn đừng ai nói gì đến công tước
tiểu thư nữa. Nhưng từ khi nàng đến thăm, lão bá tước phu nhân mỗi ngày
lại mấy lần nhắc đến nàng.
Phu nhân khen ngợi nàng, bảo con trai đến thăm nàng, tỏ ý muốn gặp
nàng luôn, nhưng đồng thời bao giờ cũng tỏ ra bực bội mỗi khi nói đến
nàng.
Nikolai cố gắng lặng thinh khi phu nhân nói đến công tước tiểu thư,
nhưng thái độ yên lặng của chàng làm cho phu nhân phát bẳn.
- Tiểu thư là một cô gái rất đứng đắn và rất đáng yêu, - phu nhân nói -
Con phải đến thăm đáp lễ chứ. ít nhất con cũng sẽ được gặp gỡ chuyện trò
với một người, chứ không cứ suốt ngày ở nhà với mẹ và Sonya thế này,
mẹ chắc con buồn lắm.
- Nhưng con không muốn chút nào mẹ ạ.
- Trước đây con muốn gặp, thế mà bây giờ con lại không muốn. Mẹ chẳng
hiểu con nghĩ ra làm sao cả con ạ. Khi thì con buồn chán, khi thì con
bỗng dưng không muốn gặp ai cả.
- Nhưng con có nói là con buồn chán đâu?
- Ô kìa con vừa nói là con không muốn gặp tiểu thư nữa đấy thôi. Tiểu
thư là một cô gái rất đứng đắn và xưa nay con vẫn có thiện cảm với tiểu
thư, ấy thế mà đột nhiên lại có những lí do gì. Cái gì người ta cũng
giấu mẹ.
- Giấu giếm gì đâu, thưa mẹ.
- Nào mẹ có bảo con làm việc gì khổ sở cho cam, đằng này mẹ chỉ xin con
đến thăm tiểu thư. Phép lịch sự cũng đòi hỏi như vậy Mẹ đã xin con nhưng
bây giờ mẹ không can thiệp vào đấy nữa, một khi con đã có những điều
cần giấu mẹ.
- Thôi mẹ đã muốn thế thì con sẽ đi.
- Mẹ thì thế nào cũng được, mẹ muốn là muốn cho con.
Nikolai thở dài, cắn ria mép và đem bài ra sắp để cho mẹ nghĩ sang việc khác.
Ngày hôm sau và hai ngày kế tiếp theo, cũng cuộc nói chuyện này giữa hai mẹ con lại được tái diễn.
Sau khi đến thăm gia đình Roxtov và được Nikolai tiếp một cách lạnh
nhạt không ngờ, công tước tiểu thư Maria tự nhủ rằng trước đây mình
không muốn đến gia đình Roxtov trước là phải. "Ta đã biết từ trước -
Nàng tự nhủ, cầu cứu đến lòng tự trọng của mình - Ta không hề để ý gì
đến chàng cả, chỉ muốn thăm lão bá tước phu nhân vì phu nhân xưa nay vẫn
tử tế với ta và ta chịu ơn phu nhân nhiều".
Nhưng những điều suy luận ấy làm nàng yên tâm: một tình cảnh giống
như hối hận cứ dằn vặt nàng, khi nàng nghĩ đến cuộc đi thăm. Mặc dầu đã
quyết định dứt khoát không đến thăm gia đình Roxtov nữa và quên hết mọi
chuyện, nàng vẫn luôn luôn cảm thấy mình ở trong một tình trạng mập mờ
và khi tự hỏi cái gì đang dằn vặt mình, nàng phải thú nhận rằng đó là
những mối quan hệ giữa nàng với Roxtov. Giọng nói lạnh lùng, lễ phép của
chàng không phải xuất phát từ tình cảm của chàng đối với nàng (nàng
biết rõ như vậy) giọng ấy che dấu một điều gì đấy. Điều đó nàng cần phải
hiểu rõ, và nàng cảm thấy không sao yên tâm được khi chưa hiểu được
điều đó
Một hôm, vào giữa mùa đông, khi nàng đang ngồi trong phòng học của
đứa cháu trai theo dõi buổi học của nó, thì người nhà vào báo có Roxtov
đến. Với ý định nhất quyết không để lộ điều bí ẩn của lòng mình, và
không tỏ ra xúc động, nàng gọi cô Burien và cùng cô ta bước ra phòng
khách:
Mới thoạt nhìn gương mặt của Nikolai, nàng đã thấy ngay rằng
chàng đến đây chỉ là đáp lễ và nàng quyết định cũng tiếp chuyện với cái
giọng khách khí mà chàng đã dùng để nói với nàng. Hai người nói chuyện
về sức khoẻ của bá tước phu nhân, về những người quen chung, về những
tin tức cuối cùng của chiến sự, và sau thời hạn mười phút mà phép xã
giao đòi hỏi khách phải ngồi nói chuyện rồi mới có thể ra về, Nikolai
đứng dậy cáo từ.
Công tước tiểu thư, với sự giúp đỡ của cô Burien nãy giờ đã giữ
cho câu chuyện được liên tục, nhưng đến phút cuối cùng, khi chàng đứng
dậy, nàng cảm thấy mệt mỏi vì phải nói đến những điều mà mình chẳng hề
quan tâm, và ý nghĩ không biết tại sao cuộc đời lại dành cho nàng ít
niềm vui như thế lôi cuốn nàng đến nỗi trong lúc lơ đãng, đôi mắt trong
sáng của nàng thẫn thờ nhìn về phía trước, nàng ngồi im lìm không thấy
rằng, chàng đã đứng dậy.
Nikolai nhìn nàng, và muốn làm như không nhận thấy vẻ thẫn thờ của
nàng, chàng nói mấy câu với Burien, rồi lại liếc nhìn công tước tiểu
thư. Nàng vẫn ngồi yên như cũ và gương mặt dịu dàng của nàng lộ vẻ đau
đớn. Đột nhiên, chàng cảm thấy thương hại nàng và có một cảm giác mơ hồ
rằng có lẽ chính mình đã gây nên vẻ đau buồn đang hiện rõ trên gương mặt
nàng. Chàng muốn giúp đỡ nàng, muốn nói với nàng một đôi lời ôn tồn,
nhưng chàng không sao nghĩ ra được một điều gì để nói.
- Xin chào công tước tiểu thư, - Chàng nói.
- À xin lỗi, - Nàng nói như vừa sực tỉnh - Bá tước về rồi sao, thôi xin chào bá tước vậy! Nhưng còn cái gối của phu nhân.
- Xin đợi một lát để tôi đem lại ngay - Cô Bunen nói đoạn bước ra khỏi phòng.
Hai người im lặng, thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn nhau.
- Vâng, thưa tiểu thư - Cuối cùng Nikolai nói, miệng mỉm cười buồn bã -
Tôi cảm thấy hình như việc mới xảy ra gần đây thôi, ấy thế mà bao nhiêu
nước đã chảy qua cầu từ khi chúng ta gặp nhau lần đầu ở Bogutsarovo. Lúc
bấy giờ chúng ta hình như đều gặp cảnh gian nan, nhưng tôi sẽ chịu trả
một giá rất đắt để cái thuở ấy trở lại. Nhưng không thể quay về dĩ vãng
được.
Công tước tiểu thư đưa đôi mắt trong sáng nhìn đăm đăm vào mặt
chàng trong khi chàng nói. Hình như nàng đang cố gắng tìm hiểu ý nghĩa
bí ẩn của những lời chàng nói, vì ý nghĩa ấy sẽ có thể nói rõ tình cảm
của chàng đối với nàng.
- Vâng, vâng, - Nàng nói, - Nhưng bá tước không nên luyến tiếc thời đã
qua, theo như tôi được biết về cuộc sống hiện tại của bá tước thì sau
này bá tước sẽ phải hài lòng mỗi khi nghĩ đến nó, bởi vì tấm lòng hy
sinh của bá tước hiện nay.
- Tôi không dám nhận những lời khen ngợi của tiểu thư - chàng vội vã
ngắt lời nàng - Trái lại, tôi vẫn luôn luôn tự trách mình, nhưng đó là
một câu chuyện chẳng có gì thú vị và vui vẻ.
Rồi nét nhìn của chàng lại trở lại khắc khổ và lạnh lùng như trước.
Nhưng công tước tiểu thư đã gặp lại chàng ở con người mà nàng biết và
đã yêu, bây giờ nàng chỉ nói với con người ấy.
- Trước đây tôi cứ tưởng bá tước cho phép tôi nói điều đó với bá tước -
nàng nói - tôi đã được gần gũi bá tước và gia đình bá tước, nên tôi trộm
nghĩ rằng bá tước sẽ không cho lòng thông cảm của tôi là đúng chỗ,
nhưng tôi đã lầm, - Giọng nàng bỗng run run - Tôi không hiểu tại sao -
nàng trấn tĩnh lại và nói tiếp, - trước kia bá tước khác và.
- Có hàng ngàn lý do tại sao (chàng đã biết nhấn mạnh chữ này). Tôi cảm
ơn tiểu thư, - chàng hạ thấp giọng nói khẽ - Đôi khi cũng rất khổ.
"À ra chỉ vì thế! Lý do là vì thế! Một tiếng nói đâu từ bên trong
tâm hồn tiểu thư Maria vang lên - Không, ta yêu chàng không phải chỉ vì
vẻ đẹp bên ngoài, ta đã đoán thấy cái tâm hồn cao quý, bây giờ chàng
nghèo, mà ta thì giàu. Phải, đó là lý do duy nhất. Phải, nếu không có
điều đó".
Rồi nàng sực nhớ đến thái độ dịu dàng của chàng ngày trước, và
bây giờ, nhìn gương mặt trung hậu và rầu rĩ của chàng, nàng chợt hiểu
tại sao chàng lại lãnh đạm với mình.
- Tại sao, bá tước, tại sao? - Nàng bất giác gần như kêu lên và bước lại
gần chàng - Xin bá tước cho tôi biết tại sao. Bá tước phải cho tôi
biết.
Chàng im lặng.
- Bá tước ạ, tôi không hiểu tại sao bá tước… - Nàng nói tiếp - Nhưng tôi
thấy khổ tâm, tôi… tôi xin thú thật. Vì một lý do mà tôi không được
biết, bá tước muốn làm cho tôi mất tình bạn của bá tước ngày xưa. Và
điều đó làm cho tôi đau xót.
Mắt nàng rưng rưng và giọng nói nghẹn ngào.
- Đời tôi rất ít được hạnh phúc, nên mỗi tổn thất đều làm tôi đau khổ…
Xin bá tước bỏ qua cho, xin chào bá tước. - Và nàng bỗng khóc rưng rức,
bước ra khỏi phòng.
- Tiểu thư! Khoan đã, trời ời! - Chàng kêu lên, tìm cách giữ nàng lại. - Tiểu thư!
Nàng ngoảnh lại. Trong mấy giây họ nhìn nhau yên lặng, mắt nhìn
vào mắt, và đột nhiên cái xa xôi, cái không thể bỗng trở nên gần gũi, có
thể có được và không sao tránh khỏi.

7.
Mùa thu năm 1814, Nikolai cưới công tước tiểu thư Maria và cùng với vợ, mẹ và Sonya dọn đến ở Luxye Gorư.
Sau ba năm, không phải bán chác gì trong gia sản của vợ, chàng đã
trả hết món nợ còn lại và sau khi thừa hưởng một gia tài nhỏ của người
chị em mới chết để lại, chàng còn trả được số tiền vay của Piotr nữa.
Ba năm sau nữa, 1820, Nikolai khéo thu xếp công việc tiền nong đến nỗi
chàng đã mua được một điền trang nhỏ gần Lưxye Gorư và đang điều đình
chuộc lại điền trang Otradnoye của cha chàng, điều ước mơ thiết tha nhất
của chàng.
Sau khi bắt tay vào cai quản điền trang vì hoàn cảnh bắt buộc,
chẳng bao lâu chàng đã say mê nghề nông đến nỗi nghề đó đã trở thành
công việc thích thú nhất và gần như là công việc duy nhất của chàng.
Nikolai là một trang chủ giản dị, chàng không thích cải cách, đặc
biệt là những cải cách theo lối Anh lúc bấy giờ đanh thịnh hành, chàng
chế nhạo những tác phẩm lí luận về canh nông - không thích những trại
ngựa giống, không thích những sản vật đắt tiền, không thích gieo những
giống lúa đắt tiền, và nói chung không chú ý riêng đến một bộ phận nào
trong nông nghiệp. Trước mắt chàng bao giờ cũng là toàn bộ cái điền
trang chứ không phải một bộ phận riêng biết nào của nó. Và ở đó trong
điền trang cái chính không phải là chất đạm, cũng không phải là chất
dưỡng khí của đất và của không khí, không phải là một kiểu lưỡi cày hay
một thứ phân mới, mà là cái công cụ chủ yếu thông qua đó chất đạm, dưỡng
khí, phân bón cũng như lưỡi cày có tác dụng, tức là con người nông dân
lao động. Khi Nikolai bắt tay vào quản lý cơ ngơi và bắt đầu khảo sát
từng bộ phận một của nó, thì người nông dân đặc biệt khiến chàng chú ý,
đối với chàng người nông dân không những là một công cụ mà còn là mục
đích và là người quan toà nữa. Thoạt tiên, chàng quan sát người nông
dân, cố gắng tìm xem họ cần gì, họ cho cái gì là xấu cái gì là tốt chàng
giả vờ chỉ dẫn và sai khiến, nhưng kỳ thực, chàng chỉ học nông dân, học
những cách làm của họ, ngôn ngữ của họ và cách họ phán đoán cái gì là
tốt, cái gì là xấu. Và mãi đến khi chàng đã hiểu những thị hiếu và những
mong muốn, hoài bão của nông dân, đến khi chàng biết nói cái ngôn ngữ
của họ và hiểu được cái ý nghĩa kín đáo của nó, đến khi chàng cảm thấy
mình đã là một người thân đích thực của họ, lúc bấy giờ chàng mới bắt
đầu điều khiển họ một cách mạnh dạn, tức là chấp hành cái nhiệm vụ mà
nông dân đòi hỏi ở chàng. Và cách quản lí của Nikolai đã đưa đến những
kết quả hết sức tốt đẹp.
Vừa bắt tay vào việc cai quản điền trang, Nikolai đã chỉ định ngay những
người làm quản lí, thôn trưởng, đại biểu và nhờ một thứ thiên bẩm nào
đấy chàng chọn không sai một người nào: đó chính là những người mà bản
thân nông dân cũng sẽ lựa chọn nếu được quyền lựa chọn, và chàng không
bao giờ phải thay đổi những người này. Trước khi phân tích những thành
phần hoá học của phân, trước khi đi sâu vào các "trái khoán" và "tín
dụng" (như chàng vẫn thích nói với một giọng giễu cọt), chàng điều tra
số gia súc của nông dân và tìm mọi cách đề tăng số gia súc này lên.
Chàng tìm cách làm cho nông dân duy trì đại gia đình, không để cho họ
phân tán ra. Chàng trục xuất những kẻ lười biếng, phóng đãng, yếu ớt và
cố xua đuổi họ ra ngoài điền trang.
Lúc gieo hạt, cắt cỏ hay gặt lúa mì chàng chú ý đồng đều đến ruộng
của mình và ruộng của nông dân, không chút thiên vị. Và ít có trang chủ
nào mà ruộng được gieo và được gặt hái nhanh, tốt và thu hoạch được
nhiều như Nikolai.
Chàng không thích có quan hệ gì với gia nhân, chàng gọi họ là bọn
ăn bám và, như mọi người đều nói, chàng để họ quá phóng túng và quá
nuông chiều họ, khi có việc cần phải xử trí đối với một gia nhân nào đó,
nhất là khi cần phải trừng phạt thì chàng thường lưỡng lự và hỏi ý kiến
mọi người trong nhà: nhưng khi nào có thể cho một gia nhân đi lính thay
cho một nông dân thì chàng làm ngay, không chút do dự. Bất cứ một điều
cắt đặt nào của chàng - chàng cũng biết như vậy - cũng sẽ được mọi người
tán thành chỉ trừ một hay vài người nào đấy.
Chàng không cho phép mình bắt ai làm việc quá nhiều hay xử phạt
người ta chỉ vì ý thích riêng, cũng như không giảm nhẹ công việc cho ai
và ban thưởng cho người ta chỉ vì đó là sở thích cá nhân của mình. Chàng
không thể nào nói rõ tiêu chuẩn gì cho phép chàng phân định cái gì nên
làm và cái gì không nên làm, nhưng trong tâm trí chàng thì tiêu chuẩn ấy
rất vững chắc và bất di bất dịch.
Khi có việc gì hư hỏng hay rối ren chàng thường nói một cách bực bội:
"Với dân Nga ta", và chàng tưởng tượng mình không chịu nổi người
mu-gich.
Nhưng chàng lại yêu mến hết sức thiết tha người "dân Nga ta" ấy và
cách sống của họ, và chính vì vậy nên chàng hiểu và nắm được cách kinh
doanh duy nhất có thể đưa đến những kết quả tốt.
Bá tước phu nhân Maria ghen với tình yêu này của chàng và lấy làm tiếc
rằng mình không được tham dự vào đó: nhưng nàng không thể nào hiểu niềm
vui sướng và những nỗi buồn bực mà cái thế giới kia, một thế giới riêng
biết, xa lạ đối với nàng, có thể đưa đến cho chàng. Nàng không hiểu nổi
vì sao chàng lại đặc biệt phấn chấn và sung sướng đến thế, khi thức dậy
từ sớm tinh mơ, suốt buổi sáng ở ngoài đồng hay trên sân đập lúa, rồi
trở về uống trà với nàng sau khi đi coi nông dân gieo hạt, cắt cỏ hay
gặt lúa.
Nàng không hiểu cái gì làm cho chàng hồ hởi đến thế khi chàng nói
chuyện say sưa về anh nông dân giàu Matvey Ermisin chí thú đã suốt đêm
cùng gia đình lo chuyên chở lúa về, và trong khi chưa ai gặt cả thì rơm
anh ta đã chất thành đụn. Nàng không hiểu tại sao chàng lại vui sướng
như vậy trong khi đi đi lại lại từ cửa, sổ đến bao lơn, mỉm cười đưới bộ
râu mép và nheo nheo con mắt khi một trận mưa nhỏ ấm và nặng hạt rơi
trên những mầm yến mạch đã khô héo, hay tại sao khi một đám mây đến đáng
sợ bị gió thổi bạt đi vào lúc làm cỏ hay gặt hái. Nikolai ở sân đập lúa
về, mặt đỏ bừng, mồ hôi nhễ nhại, tóc sực mùi ngải đắng và mùi bạc hà,
vừa vui vẻ xoa tay vừa nói: "Ấy cứ cho một ngày nữa thôi là tất cả mùa
màng của ta và của dân cày đều sẽ vào kho hết".
Nàng lại càng không hiểu tại sao con người tốt bụng và luôn luôn
sẵn sàng đón trước những điều nàng muốn như chàng, lại nổi cáu lên khi
nàng mở miệng xin hộ cho một người nông dân được nghỉ việc, tại sao anh
Nikolai tốt bụng lại một mực cự tuyệt và giận dữ yêu cầu nàng đừng xen
vào những việc không là việc của mình. Nàng cảm thấy chàng có một cái
thế giới riêng, được chàng yêu tha thiết, trong đó có những quy luật
riêng nào đấy mà nàng không hiểu.
Đôi khi, trong lúc cố gắng hiểu chàng, nàng nói đến những điều
thiện mà chàng đang làm cho những người thuộc hạ, thì chàng nổi sung lên
nói: "Hoàn toàn không phải thế, không bao giờ tôi có ý nghĩ như thế,
tôi làm như vậy không phải cốt để cho họ sướng đâu. Tất cả những chuyện
làm điều thiện cho đồng loại kia chỉ là chuyện thơ mộng viển vông,
chuyện đàn bà. Điều tôi cần là làm sao cho con cái tôi đừng phải bị gậy
lên đường, tôi phải tổ chức cho chu đáo cái cơ ngơi của nhà ta trong khi
tôi còn sống, chỉ có thế thôi. Và muốn thế cần phải có trật tự, cần
phải nghiêm khắc thế đấy!" - chàng nói, bàn tay lực lưỡng nắm chặt lại.
"Và cần phải công bằng nữa, cố nhiên. - Chàng nói thêm, - vì nếu người
nông dân đói rách và chỉ có một con ngựa khổ thôi thì hắn không thể nào
làm việc cho hắn và cũng không thể nào làm việc cho tôi được".
Và chính vì Nikolai không cho phép mình nghĩ rằng làm một điều vì
cho những người khác vì nhân nghĩa, cho nên tất cả những việc chàng làm
đều có kết quả, tài sản của chàng tăng lên nhanh chóng, nông dân những
vùng lân cận đến yêu cầu chàng mua họ và một thời gian dài sau khi chàng
chết, nhân dân còn giữ một kỷ niệm trân trọng về cách cai quản của
chàng. "Thật là một ông chủ của nông dân trước đã, rồi sau mới đến mình.
Nhưng cũng không phải là tay nhu nhược đâu. Tóm lại - thật là một ông
chủ!".
hết: Chương - 6 -7 -, xem tiếp: Chương - 8 -9 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 EmptyWed Jan 05, 2011 10:26 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XVI

Chương - 8 -9 -


Điều duy nhất đôi khi làm cho Nikolai bị dằn vặt khổ sở trong công
việc điền trang của chàng là cái tính nỏng nảy kết hợp với cái thói hay
đánh người ngày xưa của một sĩ quan phiêu kỵ. Lúc đầu chàng đều thấy đó
chẳng có gì đáng chê trách, nhưng chàng lấy vợ được một năm thì cách
nhìn của chàng đối với lối trừng phạt ấy bỗng thay đổi.
Một hôm vào mùa hạ, chàng sai gọi viên thôn trưởng đã thế chân mồ ma lão
Dron từ Bogutsarovo đến. Hắn bị báo là ăn cắp và làm việc cẩu thả,
Nikolai ra gặp hắn ở trước thềm, và hắn mới trả lời được mấy câu thì
ngoài hiên đã nghe những tiếng kêu la và tiếng đấm huỳnh huỵch. Khi trở
về nhà ăn trưa, Nikolai đến cạnh vợ đang ngồi cúi đầu bên trước khung
thêu.
Chàng bắt đầu kể lại theo như thường lệ những việc chàng đã làm lúc
ban sáng và nhân thể nhắc đến viên thôn trưởng ở Bogutsarovo. Bá tước
phu nhân Maria mặt đỏ bừng lên rồi lại tái xanh đi, hai môi mím chặt,
vẫn ngồi cúi đầu như cũ không đáp lấy một lời.
- Thằng khốn nạn thật là láo xược! - chàng nói, chỉ nhớ lại thôi mà
chàng cũng đã nổi nóng - Giá nó nói với tôi là nó say rượu, là nó chẳng
nhìn thấy cái gì cả. Kìa Maria em làm sao thế? - Chàng bỗng hỏi.
Bá tước phu nhân Maria ngẩng đầu lên, định nói điều gì nhưng lại vội cúi xuống, môi mím chặt.
- Việc gì thế em? Em làm sao thế? Em của anh.
Tuy không có nhan sắc, bá tước phu nhân Maria bao giờ cũng đẹp hẳn
lên khi nàng khóc. Nàng không bao giờ khóc vì bực dọc hay đau đớn về thể
xác mà bao giờ cũng vì thương xót và buồn rầu. Và mỗi khi nàng khóc đôi
mắt trong sáng của nàng bao giờ cũng có sức hẫp dẫn không sao cưỡng
được.
Khi Nikolai nắm lấy tay nàng, nàng không còn đủ sức tự chủ nữa và khóc oà lên.
- Anh Nikolai, em đã thấy rõ - ông ấy có lỗi, nhưng anh - tại sao anh lại.? Nikolai! Anh Nikolai - và nàng đưa tay lên bưng mặt.
Nikolai im bặt, mặt đỏ bừng, và rời nàng ra, bắt đầu đi đi lại lại trong
phòng, không nói nửa lời. Chàng đã hiểu tại sao nàng khóc, nhưng lòng
chàng không thể nào ngay một lúc đồng ý với nàng để thừa nhận rằng cái
việc chàng vẫn quen làm từ hồi còn nhỏ, cái việc mà chàng cho là hết sức
bình thường kia lại là một điều đáng trách.
"Đó là những trò thương cảm vẩn vơ, những chuyện đàn bà, hay là nàng nói
đúng?" - Chàng tự hỏi, trong thâm tâm, chàng vẫn chưa giải quyết được
vấn đề này, nhưng khi liếc nhìn khuôn mặt đau khổ và đáng yêu của nàng
lần thứ hai, chàng chợt hiểu ra rằng chính nàng có lý và từ lâu chàng đã
có lỗi đối với bản thân mình.
- Maria! - Chàng đến cạnh nàng nói khẽ, - Việc đó sẽ không bao giờ xảy
ra nữa, anh cam đoan với em. Không bao giờ nữa, - chàng nhắc lại, giọng
run run như một đứa trẻ xin lỗi.
Nước mắt chảy giàn giụa từ khoé mắt của bá tước phu nhân. Nàng nắm lấy bàn tay chàng mà hôn.
- Anh Nikolai, anh làm vỡ cái mặt ngọc trạm nổi lúc nào thế?
Nàng nói để chuyển sang chuyện khác, mắt nhìn bàn tay của chồng có đeo một chiếc nhẫn trạm đầu Laocoon.
- Vừa hôm nay đấy, cũng vì chuyện ấy cả. Maria, em đừng nhắc anh chuyện
ấy nữa. - Chàng lại đỏ mặt. - Anh thề với em rằng việc đó sẽ không bao
giờ xảy ra nữa và cái này sẽ mãi mãi nhắc nhở anh - chàng nói và chỉ cái
mặt nhẫn bị vỡ.
Từ đó, trong lúc bàn bạc với những người thôn trưởng và người quản
gia. Mỗi khi máu chàng đổ dồn lên mặt và bàn tay bắt đầu nắm chặt lại,
Nikolai lại mâm mê cái mặt nhẫn vỡ trên ngón tay và cúi mặt trước con
người làm chàng nổi giận. Tuy vậy, mỗi năm cũng có một đôi lần chàng
không tự chủ nổi và mỗi lần như vậy chàng lại trở về tìm vợ để thú nhận
và lại hứa lần này đúng là lần cuối cùng.
- Maria. Chắc là em khinh anh? - Chàng nói với vợ - Anh đáng thế lắm.
- Anh phải bỏ đi nơi khác, mỗi khi anh cảm thấy không đủ sức tự kiềm chế
thì anh phải bỏ đi ngay, - bá tước phu nhân Maria nói, giọng buồn rầu
và lựa lời an ủi chồng.
Trong giới quí tộc ở tỉnh này, Nikolai được người ta kính trọng
nhưng không được người ta yêu mến. Những hứng thú của giới quí tộc không
khiến chàng quan tâm. Vì vậy có người cho chàng là kiêu ngạo có người
lại cho chàng là ngốc. Suốt mùa hạ, kể từ khi gieo giống mùa xuân, cho
tới khi gặt hái, lúc nào chàng cũng bận túi bụi với những công việc điền
trang. Mùa thu, cũng với cách làm việc chăm chỉ và chu đáo như trong
việc quản lý nông nghiệp, chàng rời khỏi nhà một hai tháng đi săn với
đàn chó của chàng. Mùa đông, chàng đi thăm các làng khác hay ngồi đọc
sách. Sách chàng đọc phần lớn là sách lịch sử, đặt mua từng năm, với số
tiền nhất định. Như chàng thường nói, chàng đã tập hợp được một tủ sách
đứng đắn và nêu thành một nguyên tắc là đã mua sách về thì phải đọc cho
hết. Chàng trang trọng ngồi vào phòng làm việc rồi giở sách ra đọc, lúc
đầu còn xem đó là một nhiệm vụ phải làm, nhưng về sau việc này đã thành
một thói quen, đưa lại cho chàng một niềm vui đặc biệt và cái ý thức là
mình đang làm một việc nghiêm trang.
Trừ những lúc ra đi vì công việc, vào mùa đông chàng thường ở nhà gần
gũi gia đình và dự phần nào những quan hệ nhỏ nhất giữa các con và mẹ
chúng. Chàng ngày càng thấy gần gũi vợ và mỗi ngày lại tìm thấy ở nàng
những giá trị tinh thần mới.
Từ khi Nikolai lấy vợ, Sonya vẫn ở trong nhà. Trước khi cưới,
Nikolai đã kể lại cho vợ biết tất cả những điều xảy ra giữa chàng và
Sonya, và trong lúc kể lại chàng đã tự trách mình và ca ngợi Sonya.
Chàng đã xin công tước tiểu thư Maria đối xử dịu dàng và nhân hậu với cô
em họ của chàng. Bá tước phu nhân Maria thấy hết lỗi của chồng và cũng
thấy có lỗi của mình đối với Sonya, nàng nghĩ rằng gia sản của mình có
ảnh hưởng đến việc lựa chọn của Nikolai, nàng không có điều gì phải
trách Sonya, và muốn yêu Sonya, tuy vậy không những nàng không yêu Sonya
mà lại thường thấy trong lòng mình có những mối ác cảm đối với Sonya mà
nàng không sao khắc phục nổi.
Một hôm, nàng nói chuyện với Natasa về Sonya và về sự bất công của mình đối với nàng. Natasa nói:
- Chị đọc Phúc âm nhiều thế, chị có biết trong ấy có đoạn thật đúng với Sonya không?
- Đoạn nào? - Bá tước phu nhân Maria kinh ngạc hỏi.
"Kẻ nào có sẽ được cấp thêm, còn kẻ nào không có gì sẽ bị tước hết"
chị nhớ đoạn ấy chứ? Chị ấy là con người không có gì. Tại sao? Em không
biết, có lẽ vì chị ấy không ích kỷ, em cũng chẳng rõ nữa, nhưng người ta
sẽ tước mất của chị ấy, và chị ấy đã bị tước hết. Đôi khi em rất thương
chị ấy. Trước kia em tha thiết mong anh Nikolai lấy chị ấy, nhưng bao
giờ em cũng linh cảm thấy rằng điều đó sẽ không thực hiện được. Chị ấy
là một bông hoa không kết quả như chị vẫn thấy ở trên cây dâu tây. Đôi
khi em rất thương chị ấy nhưng đôi khi em cảm thấy hình như chị ấy không
cảm thấy tủi như chúng mình sẽ cảm thấy nếu ở vào địa vị chị ấy.
Tuy bá tước phu nhân Maria giảng giải cho Natasa rằng cần phải hiểu
những câu Phúc âm thầm này là một cách khác, nhưng khi nhìn Sonya nàng
cũng đồng ý với lời giải thích của Natasa.
Thật vậy nàng thấy hình như Sonya không đau khổ về hoàn cảnh của
mình và hoàn toàn cam tâm chịu đựng số phận của một bông hoa không kết
quả, hình như nàng quí chuộng những người trong nhà thì ít, mà quí
chuộng cả gia đình thì nhiều hơn. Cũng như một con mèo, nàng không phải
gắn bó với người mà gắn bó với cái nhà.
Nàng săn sóc bá tước phu nhân, nâng niu chiều chuộng bọn trẻ và bao giờ
cũng sẵn sàng làm giúp những việc nhỏ mà nàng có thể làm, nhưng người ta
bất giác chấp nhận những cái đó một cách quá tự nhiên, chẳng biết ơn
nàng mấy đỗi.
Những ngôi nhà ở Lưxye Gorư đã được xây lại nhưng không theo quy mô
của cố công tước. Các công trình kiến trúc đều bắt đầu làm lúc còn túng
thiếu nên hết sức sơ sài. Toà nhà lớn dựng trên cái nền đá cũ, tường
bằng gỗ chỉ trát vữa bên trong. Những căn phòng rộng rãi sàn bằng thứ gỗ
bạch dương của rừng nhà và do thợ nhà đóng. Toà nhà khá rộng rãi, có
những gian dành cho gia nhân và những căn phòng dành cho khách. Họ hàng
thân thích của gia đình Roxtov và gia đình Bolkonxki đôi khi đến chơi
Lưxye Gorư với hàng mười sáu con ngựa, hàng chục gia nhân và ở lại đây
hàng tháng. Ngoài ra, mỗi năm bốn lần, nhân những ngày lễ thánh và lễ
sinh nhật của các gia chủ, trong một hai ngày nhà có đến hàng trăm mâm
khách. Còn những thời gian còn lại trong năm thì cuộc sống trôi qua đều
đều và không thay đổi, với những công việc hàng ngày, những buổi dùng
trà, ăn sáng, ăn trưa, ăn tối toàn dọn những sản vật của điền trang.

9.
Hôm ấy là hôm trước lễ thánh Nikolai vào mùa đông, ngày mồng năm
tháng mười bai năm 1820. Năm ấy Natasa cùng với chồng và các con đến ở
tại nhà anh nàng từ đầu mùa thu. Piotr đã đi Petersburg vắng vì những
công việc riêng như chàng vẫn nói, định sẽ
Ở lại đấy ba tuần lễ, nhưng kể đến bây giờ chàng đi đã được sáu tuần rồi. Trong nhà đang đợi chàng về từng giờ từng phút.
Ngày mồng năm tháng mười hai, ngoài gia đình Bezukhov ra, gia đình
Roxtov còn có một người khách nữa là ông bạn cũ của Nikolai, vị tướng về
hưu Vaxili Fiodorovich Denixov.
Ngày mồng sáu là ngày long trọng, sẽ có nhiều tân khách đến.
Nikolai biết rằng mình sẽ phải bỏ chiếc áo Besmet, khoác chiếc áo đuôi
tôm, đi những đôi giày chật nhọn mũi và đến ngôi nhà thờ mà chàng vừa
xây xong, rồi nhận những lời chúc tụng, mời khách ăn uống và nói chuyện
về cuộc tuyển cử của quý tộc và công việc mùa màng, nhưng trước đấy một
hôm chàng cho rằng mình vẫn có quyền sống như mọi ngày. Trước bữa ăn
chiều, Nikolai kiểm soát lại sổ sách của nhân viên quản lí điền trang ở
một làng trong tỉnh Ryazan thuộc quyền sở hữu đứa cháu trai của vợ,
chàng viết hai bức thư về công việc và đi một vòng đến xem sân đập lúa,
các chuồng bò và tàu ngựa. Sau khi đã thi hành những biện pháp nhằm đề
phòng tình trạng mọi người say xưa tuý luý nhân ngày lễ của giao khu
ngày mai, chàng trở về ăn chiều, và không kịp có thì giờ nói chuyện
riêng với vợ, chàng đến ngồi ở cái bàn có hai mươi bộ dao dĩa. Quanh bàn
mọi người đều đã tề tựu đông đủ: mẹ chàng, bà già Belova ít lâu nay đến
ở với mẹ chàng, vợ chàng, ba đứa con của chàng, chị giữ trẻ, người gia
sư, cháu trai của chàng với ông Dexal, Sonya, Natasa và ba đứa con của
nàng, người bảo mẫu của chúng và ông già Mikhail Ivanyts, người kiến
trúc sư của cố công tước nay vẫn sống an nhàn ở Lưxye Gorư.
Bá tước phu nhân Maria ngồi ở đầu kia bàn. Ngay từ khi Nikolai vừa ngồi
vào chỗ, nhìn những cử chỉ của chàng khi lấy cái khăn và nhanh nhẹn sắp
những cốc rượu mạnh đặt thành hàng trước mặt, nàng biết rằng chồng đang
bực mình - điều này đôi khi vẫn xảy ra, nhất là khi chàng vừa ở ngoài
đồng về ngồi ngay vào bàn ăn.
Bá tước phu nhân Maria biết rất rõ tâm trạng ấy của chồng và những khi
đang vui thì nàng lặng lẽ chờ đợi chàng ăn cho xong đĩa xúp rồi mới bắt
chuyện, và bắt chàng thú nhận rằng chàng chẳng có lý do gì mà bực mình
hết. Nhưng hôm nay nàng quên hẳn điều đó, nàng chạnh lòng vì thấy chàng
giận mình tuy chẳng có lí do gì, và nàng cảm thấy khổ sở. Nàng hỏi chàng
ở đâu về. Chàng đáp lại.
Nàng lại hỏi xem mọi việc ở trong điền trang có đâu vào đâu không. Giọng
nói không tự nhiên của nàng làm chàng cau mày khó chịu, chàng vội vã
trả lời cho xong.
"Thế là mình nghĩ không sai, - bá tước phu nhân Maria nghĩ thầm - Nhưng
tại sao anh ấy lại giận mình?" - Trong giọng nói của chàng đáp lại câu
hỏi của mình, bá tước phu nhân thấy chàng bực bội với nàng và có ý muốn
chấm dứt câu chuyện. Nàng cảm thấy những lời nói của mình thiếu tự
nhiên, nhưng nàng không thể nào tự kiềm chế mình không hỏi thêm vài câu
nữa.
Câu chuyện trong bữa ăn nhờ có Denixov nên chỉ trong chốc lát đã lôi
cuốn mọi người và trở nên rôm rả, và bá tước phu nhân Maria không nói
với chồng nữa. Khi mọi người rời bàn ăn đứng dậy đến gặp lão bá tước phu
nhân để cảm ơn, đưa tay cho chồng hôn và hỏi tại sao chàng lại giận
mình.
- Em bao giờ cũng có những ý nghĩ kỳ quặc: anh có giận gì đâu? - Chàng nói.
Nhưng hai chữ "bao giờ" đối với bá tước phu nhân Maria có nghĩa là: Phải, tôi giận đấy, nhưng tôi không muốn nói tại sao.
Nikolai sống với vợ hoà thuận đến nỗi Sonya và lão bá tước phu nhân, tuy
chỉ vì ghen tị, cứ mong cho hai vợ chồng có chuyện bất hoà, cũng không
thể nào tìm thấy điều gì có thể chê trách, nhưng giữa hai người đôi khi
cũng vẫn có những phút bất hoà. Đôi khi đặc biệt là sau những thời kỳ
hạnh phúc nhất, họ bỗng cảm thấy xa nhau và có ác cảm với nhau, tình
trạng ấy thường xảy trong những thời kỳ bá tước phu nhân Maria có mang.
Bây giờ đang là một thời kỳ như thế.
- Thưa các ông các bà - Nikolai nói to với một giọng dường như vui vẻ
(bá tước phu nhân có cảm tưởng cái giọng ấy cốt là để trêu tức mình) -
Sáng nay tôi dậy từ sáu giờ. Ngày mai thì đành phải chịu đựng nhưng hôm
nay tôi xin đi nghỉ. - Và không nói gì với bá tước phu nhân Maria nữa,
chàng vào gian phòng khách nhỏ rồi ngả mình trên đi-văng.
"Đấy bao giờ cũng cứ thế - bá tước phu nhân Maria nghĩ thầm - Chàng nói
với mọi người, chỉ có mình là chàng lờ đi. Mình thấy, mình thấy rõ rằng
chàng chán ghét mình. Nhất là khi mình ở trong tình trạng này" - Nàng
nhìn xuống cái bụng to rồi nhìn vào khuôn mặt gầy gò, vàng bủng trong
gương với đôi mắt to hơn bao giờ hết.
Thế rồi tất cả đối với nàng bỗng trở thành khó chịu, tiếng nói cười của
Denixov, tiếng nói chuyện của Natasa, nhất là cái nhìn của Sonya đưa
nhanh về phía nàng.
Bây giờ Sonya cũng là duyên cớ đầu tiên mà bá tước phu nhân Maria chọn mỗi khi phải tìm một duyên cớ để cáu gắt.
Sau khi ngồi lại vài phút với các tân khách nhưng không hiểu họ nói gì, nàng rón rén bước ra và sang phòng các con.
Mấy đứa trẻ đang ngồi ghế để đi Moskva và mời nàng cùng đi du lịch với
chúng. Nàng ngồi chơi với con nhưng vẫn đang day dứt nghĩ đến chồng và
nỗi bực dọc vô cớ của chàng. Nàng đứng lên và mệt nhọc nhón chân sang
phòng khách nhỏ.
"Có lẽ chàng chưa ngủ, mình sẽ phân trần với chàng" - nàng tự nhủ.
Andriusa, đứa con đầu lòng của nàng, cũng bắt chước mẹ nhón chân rón rén
đi theo sau. Bá tước phu nhân Maria không để ý thấy nó.
- Chị Maria, hình như anh ấy đang ngủ, anh ấy mệt lắm - Sonya gặp nàng
trong phòng khách liền nói (nàng có cảm tưởng rằng ở chỗ nào cũng gặp
phải cái cô Sonya này) - cháu Andriusa sẽ làm anh ấy thức giấc mất.
Bá tước phu nhân quay lại, nhận ra thằng bé Andriusa đang đi theo sau,
thấy Sonya có lý và chính vì thế, nàng đỏ mặt và rõ ràng là phải cố gắng
lắm mới khỏi buông ra một lời cay độc. Nàng không nói gì, và để khỏi
nghe lời Sonya nàng ra hiệu cho Andriusa đừng làm ồn nhưng vẫn cứ đi
theo nàng rồi đến gần cánh cửa phòng Nikolai, Sonya ra một cửa khác. Từ
căn phòng Nikolai ngủ đưa ra một tiếng thở đều đều, quen thuộc đối với
vợ chàng cho đến từng sắc thái nhỏ nhặt nhất.
Nàng lắng nghe hơi thở ấy, trông thấy cả gương mặt của chàng mà nàng đã
bao lần ngắm trông hàng giờ những khi chàng ngủ, trong đêm yên tĩnh,
Nikolai bỗng cựa nình và ho khe khẽ. Ngay lúc ấy Andriusa đứng đằng sau
cánh cửa kêu lên:
- Ba ơi, mẹ đứng ở đây này.
Bá tước phu nhân Maria sợ tái mặt đi. Nàng bắt đầu ra hiệu cho con. Nó
im bặt, và một phút yên lặng trôi qua, một phút hãi hùng đối với nàng.
Nàng biết rằng Nikolai không thích người ta đánh thức mình dậy. Đột
nhiên đằng sau cánh cửa lại nghe tiếng ho húng hắng, tiếng cựa mình và
giọng nói bực dọc của Nikolai:
- Chẳng có cách gì yên lấy được một phút. Maria em đấy à? Em đưa nó đến đây làm gì?
- Em chỉ ghé qua một chút xem thử, em không để ý thấy nó theo em… xin lỗi.
Nikolai ho húng hắng mấy tiếng rồi im lặng. Bá tước phu nhân Maria đi ra cửa đưa con trai về phòng trẻ.
Năm phút sau, cô bé Natasa lên ba có cặp mắt đen, con cưng của bố
Nikolai, nghe anh nói là bố đang ngủ còn mẹ thì đang ngồi ở phòng
đi-văng, liền lén mẹ chạy đến tìm bố. Con bé mắt đen mạnh dạn đẩy cửa
nghe tiếng kẹt một cái, đôi chân nhỏ xíu và vụng về bước quả quyết đến
gần đi-văng, nó đứng nhìn bố đang ngủ quay lưng về phía nó, kiễng chân
hôn lên bàn tay của bố gối ở dưới đầu.
Nikolai quay lại, trên gương mặt nở một nụ cười trìu mến.
- Natasa! Natasa! - Ở ngoài cửa có tiếng thì thào hốt hoảng của bá tước phu nhân Maria - Để ba ngủ.
- Không mẹ ạ, ba không ngủ đâu - bé Natasa đáp, giọng quả quyết - Ba đang cười.
Nikolai bỏ chân xuống đất, đứng dậy bế con lên.
- Masa, em vào đi, - chàng bảo vợ. Bá tước phu nhân Maria bước vào phòng và ngồi xuống cạnh chồng.
- Em không biết là nó chạy theo theo em, - nàng nói, giọng rụt rè - Em chỉ ghé qua một chút.
Nikolai, một tay bế con gái, đưa mắt nhìn vợ, và nhận thấy vợ mặt nàng
ngượng ngùng như người có lỗi, chàng giơ cánh tay kia ra ôm lấy người
nàng và hôn lên tóc nàng.
- Con có cho ba hôn mẹ không nào? - chàng hỏi Natasa. Bé Natasa mỉm cười bẽn lẽn.
- Hôn nữa đi, - nó vừa nói vừa giơ tay chỉ vào chỗ Nikolai vừa hôn vợ, như để ra lệnh.
- Anh không hiểu tại sao em lại nghĩ rằng anh cáu, - Nikolai nói, trả lời câu hỏi mà chàng biết là đang khiến vợ bận tâm.
- Anh không thể hình dung được em khổ sở, cô đơn như thế nào mỗi khi anh như thế. Em cứ có cảm giác…
- Mari! Thôi đi, em chỉ vớ vẩn! Sao em không biết xấu! - Chàng vui vẻ nói.
- Em cảm thấy anh không thể nào yêu em được, vì em xấu xí thế này… Bao giờ cũng… Mà bây giờ thì trong tình trạng.
- Em rõ buồn cười! Người ta đáng yêu không phải vì đẹp, người ta đẹp vì
đáng yêu. Chỉ có những thứ người như Malvina thì người ta mới yêu vì sắc
đẹp, còn anh có yêu vợ không? Anh không yêu, nhưng thế đấy, anh chẳng
biết nói như thế nào cho em hiểu. Khi nào không có em, khi nào giữa
chúng ta có một chút bất hoà như lúc này, anh cảm thấy mình như nguy
khốn đến nơi, và không làm gì được nữa. Em xem anh có yêu ngón tay của
anh không? Anh không yêu, nhưng cứ thử chặt nó đi xem.
- Không, em không phải như thế, nhưng em hiểu. Thế anh không giận em chứ?
- Giận ghê lắm… - chàng mỉm cười nói đoạn đứng dậy vuốt lại mái tóc và
bắt đầu đi đi lại lại trong phòng. - Maria ạ, em có biết anh vừa nghĩ gì
không?
Chàng bắt đầu nói, bây giờ hai vợ chồng đã làm lành với nhau, chàng
lập tức theo thói quen nói to những ý nghĩ của mình lên. Chàng không
hỏi xem nàng có sẵn lòng nghe chàng nói hay không, đối với chàng điều đó
không quan trọng. Chàng đã nảy ra một ý nghĩ, thì ý nghĩ ấy cũng phải
là của nàng nữa. Và chàng kể cho vợ nghe rằng chàng có ý định mời Piotr ở
lại với họ cho đến mùa xuân.
Bá tước phu nhân Maria lắng nghe, đưa ra những lời nhận xét và đến lượt
nàng cũng nói to những điều mình đang nghĩ lên. Bây giờ nàng đang nói
đến con.
- Xem nó đã ra vẻ con gái chưa, - nàng chỉ bé Natasa nói bằng tiếng
Pháp. - Anh cứ trách đàn bà chúng em thiếu lo-gich. Đấy là lo-gich của
chúng em đấy. Em nói: ba muốn ngủ, còn nó thì đáp: không ba cười. Thế mà
nó nói đúng đấy - Bá tước phu nhân Maria nói, miệng nở một nụ cười sung
sướng.
- Đúng, đúng đấy, - Và Nikolai bế con gái trên cánh tay lực lưỡng, nhấc
bổng nó lên, cho nó ngồi trên cổ, nắm lấy đôi chân nhỏ xíu của nó và bắt
đầu cõng nó đi đi lại lại trong phòng. Trên gương mặt của hai cha con
đều có một vẻ vui sướng ngây thơ như nhau.
- Này anh, khéo mà thiên vị đấy nhé. Anh nuông con này quá, - bá tước phu nhân Maria thì thầm nói bằng tiếng Pháp.
- Đúng thế, nhưng biết làm thế nào bây giờ? - Anh cũng cố gắng không lộ ra ngoài.
Trong lúc ấy ngoài hành lang và phòng trước nghe có tiếng cửa mở và tiếng bước chân như có ai vào nhà.
- Có người nào vừa đến ấy.
- Em chắc là Piotr. Để em ra xem - bá tước phu nhân Maria nói đoạn ra khỏi phòng.
Nhân khi vắng mặt vợ, Nikolai liền bầy trò làm ngựa cõng con phi
quanh phòng. Thở hổn hển, chàng nhanh nhẹn tung con bé lên khiến nó cười
khanh khách, và ghì nó vào ngực. Những bước nhảy của chàng nhắc chàng
nhớ đến những điệu khiêu vũ, và đưa mắt nhìn cái khuôn mặt tròn trĩnh
vui sướng của con gái, chàng thử hình dung sau này nó sẽ như thế nào khi
mình đã già, dẫn nó vào nơi giao tế và khiêu vũ với nó điệu mazarka như
cha chàng xưa kia đã khiêu vũ với con gái điệu Danilo Cuper.
- Đúng cậu ấy rồi, anh Nikolai ạ! - Vài phút sau bá tước phu nhân
Maria quay trở lại vào nói - Bây giờ thì Natasa nhà ta tha hồ mừng. Cô
ta cứ cuống lên, và chàng Piotr bị một chầu nên thân về tội không đúng
hẹn! Nào ta ra nhanh đi, đi? Thôi buông nhau ra chứ, - nàng mỉm cười
nhìn cô con gái đang bám chặt lấy cha.
Nikolai đi ra, tay dắt con gái. Bá tước phu nhân ở lại phòng đi văng.
"Không bao giờ, không bao giờ mình có thể tin - nàng thì thầm tự nhủ
rằng người ta có thể hạnh phúc đến thể. Gương mặt nàng bừng sáng lên
trong nụ cười rạng rỡ, nhưng ngay lúc ấy nàng bỗng thở dài và một nỗi
buồn lặng lẽ hiện lên trong khoé nhìn sâu thẳm của nàng. Dường như ngoài
cái hạnh phúc mà nàng đang hưởng còn có một hạnh phúc khác, không thể
có được ở trong cuộc đời này, và trong một giây phút này nàng bất giác
sực nhớ đến nó.
hết: Chương - 8 -9 -, xem tiếp: Chương - 10 -11 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 EmptyWed Jan 05, 2011 10:27 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XVI

Chương - 10 -11 -


Natasa lấy chồng trong ngày đầu năm 1813 và đến năm 1820 nàng đã có
ba đứa con gái và một thằng con trai - Đứa con trai mà nàng vẫn mong
ước, và hiện nay nàng đang tự mình cho bú lấy.
Nàng đã đẫy ra, thân hình nở nang đến nỗi khó lòng nhận ra được cô bé
Natasa mảnh dẻ và linh hoạt ngày xưa ở người mẹ phốp pháp khoẻ mạnh này.
Nét mặt nàng đã rõ hẳn và có một vẻ dịu hiền bình thản và trong sáng.
Gương mặt nàng không còn xưa bừng bừng ngọn lửa phấn chấn vốn làm thành
sức quyến rũ của nàng kia. Bây giờ nhiều khi người ta chỉ thấy được
khuôn mặt và thân thể của nàng, còn linh hồn nàng thì không thể nào thấy
được. Chỉ thấy một người đàn bà khoẻ đẹp và mắn con. Ngọn lửa ngày xưa
hoạ hoằn lắm mới bừng sáng lên ở nàng. Nó chỉ bừng lên trong khi chồng
nàng đi xa về như bây giờ, khi một đứa con của nàng khỏi bệnh hay khi
nàng cùng bá tước phu nhân Maria hồi tưởng đến công tước Andrey (nàng
không bao giờ nói với chồng về công tước Andrey vì cho rằng chàng ghen
với những kỷ niệm của bạn) và hoạ hoằn lắm, khi có việc gì tình cờ lôi
cuốn nàng khiến nàng cất tiếng hát, một cái thú mà nàng đã bỏ hẳn từ dạo
lấy chồng. Và trong những giây phút hiếm có ấy, khi ngọn lửa ngày xưa
lại rực cháy trong thân thể xinh đẹp nở nang của nàng, nàng lại còn đáng
yêu hơn cả ngày xưa nữa.
Từ ngày cưới, Natasa vẫn sống với chồng ở Moskva, hay ở nhà mẹ, tức
là ở nhà Nikolai. Trong giới xã giao người ta ít gặp bá tước phu nhân
Bezukhova trẻ tuổi, và những người gặp nàng đều không hài lòng về nàng.
Nàng không đáng yêu, cũng không lịch thiệp.
Không phải tính Natasa thích cô độc (nàng không biết mình có thích
thế hay không, thậm chí nàng còn có cảm tưởng là không), nhưng vì cứ
thai nghén, sinh nở, cho con bú và tham dự vào đời sống của chồng từng
phút nên nàng không thể nào đáp ứng được tất cả những đòi hỏi này bằng
cách nào khác hơn là từ bỏ nếp sinh hoạt xã giao. Những ai đã từng biết
Natasa trước khi nàng lấy chồng đều phải kinh ngạc khi thấy nàng đã thay
đổi hẳn đi như vậy, xem nó như một điều gì phi thường. Chỉ có lão bá
tước phu nhân, với bản năng làm mẹ của bà, là hiểu tất cả rằng những cơn
bồng bột của Natasa đều do một cội nguồn mà ra, đó là nhu cầu có gia
đình, có một người chồng (ở Otradnoye bà đã lớn tiếng tuyên bố như vậy,
nửa đùa nửa thật, nhưng thật nhiều hơn là đùa). Chỉ có mẹ nàng là ngạc
nhiên về nỗi ngạc nhiên của những người không hiểu Natasa và bà cứ nhắc
đi nhắc lại rằng xưa nay bà vẫn biết Natasa sẽ là một người vợ và một
người mẹ gương mẫu. Bà thường nói: "Chỉ có điều là nó yêu chồng con quá
sức, đến nỗi nhiều khi đâm ra ngớ ngẩn".
Natasa không theo cái khuôn vàng thước ngọc mà những người thông
minh, nhất là những người Pháp, thường tuyên truyền, là con gái sau khi
lấy chồng không nên buông lơi mình, không nên vứt bỏ tài năng của mình
đi, mà phải chăm sóc đến bề ngoài của mình còn hơn cả thời con gái, phải
quyến rũ chồng như đã quyến rũ người yêu. Natasa thì trái lại, đã vứt
bỏ ngay một lúc tất cả những cái gì có sức quyến rũ của mình, trong đó
có một cái có tác dụng đặc biệt mạnh mẽ là tiếng hát của nàng. Nàng đã
vứt bỏ nó chính vì nó có sức quyến rũ mạnh mẽ. Nàng không để ý gì đến
cách đi đứng, nói năng cho thanh nhã, cũng không buồn phô trương những
tư thế đẹp mắt nhất trước mặt chồng, nàng không để ý gì đến trang sức,
cũng không chú ý hạn chế bớt những đòi hỏi khắt khe để khỏi làm phiền
chồng (tất cả những gì nàng làm đều trái với quy tắc ấy. Nàng cảm thấy
rằng những thuật quyến rũ mà bản năng đã dạy cho nàng sử dụng trước kia
sẽ đâm ra lố bịch nếu đem phô ra trước mặt chồng, con người mà: ngay từ
phút đầu nàng đã hoàn toàn trao thân gửi phận với tất cả tâm hồn, không
còn dành lại một góc nhỏ bí mật nào đối với chồng. Nàng cảm thấy mối
liên hệ giữa nàng với chồng không phải do những cảm giác thi vị xưa kia
đã thu hút "chàng" đến với nàng mà là do một cái khác, không rõ rệt,
nhưng vững chắc như sự gắn bó giữa linh hồn nàng và thể xác nàng.
Uốn tóc cho quăn lên, mặc váy phồng và hát những bài hát tình ca để lôi
cuốn chồng - những cái đó đối với nàng xem ra cũng kỳ quặc như là trang
sức để tự mình thoả mãn với mình. Còn trang sức để làm đỏm với những
người khác thì có lẽ nàng cũng thích - nàng cũng không biết có phải thế
không - nhưng nàng không làm sao có thì giờ được. Đó chính là lí do
chính khiến nàng không để ý gì đến ca hát, trang sức, hay chau chuốt
những lời lẽ cho kiểu cách.
Ai cũng biết rằng con người có khả năng tập trung tất cả tâm trí vào một
đối tượng duy nhất, dù cho đối tượng ấy có vẻ vô nghĩa đến đâu Và ai
cũng biết rằng không có đối tượng nào dù vô nghĩa đến đâu mà lại không
được khuếch đại lên đến nỗi trở thành vô cùng tận một khi người ta đã
tập trung chú ý vào đấy.
Cái đối tượng mà Natasa để tất cả tâm trí của mình vào là gia đình nàng,
là chồng nàng, mà nàng phải giữ làm sao cho chàng hoàn toàn thuộc về
mình, thuộc về gia đình và những đứa con mà nàng phải cưu mang, sinh đẻ,
nuôi nấng và dạy dỗ.
Và khi càng đi sâu vào cái đối tượng đã thu hết tâm trí của mình, không
phải bằng lí trí, mà bằng tất cả tâm hồn, bằng mỗi đường gân thớ thịt
của mình, cái đối tượng này lại càng được khuếch đại bởi sức chú ý của
nàng, và nàng lại càng thấy sức lực của mình nhỏ bé, vô nghĩa hơn, thành
thở có bao nhiêu tinh lực nàng đã đem tập trung hết vào một điểm duy
nhất, ấy thế mà nàng vẫn không sao làm xuể tất cả những việc nàng thấy
cần làm.
Những câu chuyện trò bàn về quyền lợi của phụ nữ, về quan hệ vợ chồng,
về tự do và quyền hạn của hai bên, tuy hồi ấy không gọi là những vấn đề
như ngày nay, nhưng cũng vẫn giống hệt như ngày nay - thì không những
Natasa không để tâm mà còn chẳng hiểu chút gì nữa là khác.
Những vấn đề này, hồi ấy cũng như bây giờ, chỉ tồn tại đối với những kẻ
chỉ nhìn thấy trong hôn nhân sự khoái lạc mà hai vợ chồng đem lại cho
nhau, tức chỉ là một yếu tố của hôn nhân mà thôi chứ không phải ý nghĩa
toàn vẹn của nó, tức là gia đình.
Những vấn đề ấy cũng tương tự như vấn đề làm thế nào ăn cho thật sướng
miệng, hồi ấy cũng như ngày nay các vấn đề ấy không đặt ra đối với những
người nghĩ rằng mục đích của bữa ăn là để nuôi sống cơ thể và mục đích
của hôn nhân là gia đình.
Nếu mục đích của bữa ăn là nuôi sống cơ thể, thì người nào ăn hai bữa
một lúc có thể sướng miệng hơn, nhưng người đó sẽ không đạt được mục
đích, bởi vì dạ dày sẽ không tiêu hoá hết tất cả hai bữa ăn.
Nếu mục đích của hôn nhân là gia đình, thì người nào muốn nhiều vợ hay
nhiều chồng có lẽ sẽ được nhiều khoái lạc hơn, nhưng dứt khoát họ không
thể nào có gia đình.
Nếu mục đích của bữa ăn là nuôi sống cơ thể và mục đích của hôn nhân là
xây dựng gia đình, thì tất cả vấn đề chung quy là đừng ăn quá sức tiêu
hoá của dạ dày và đừng lấy vợ lấy chồng nhiều hơn số vợ chồng mà việc
xây dựng gia đình đòi hỏi, tức chỉ một vợ một chồng mà thôi. Natasa cần
có một người chồng. Nàng đã có được người chồng ấy. Người chồng ấy đã
cho nàng một gia đình. Và không những nàng không thấy cần một người
chồng khác tốt hơn, mà bởi vì bao nhiêu tinh lực của nàng đều dồn vào
một mục đích là phục vụ người chồng ấy và cái gia đình ấy, cho nên nàng
không thể nào tưởng tượng xem nếu sự thể khác đi thì sẽ như thế nào.
Natasa không thích tiếp xúc với giới xã giao, nhưng chính vì vậy mà nàng
lại càng tha thiết với cái thế giới của những người thân thuộc, với bá
tước phu nhân Maria, với anh nàng, mẹ nàng và Sonya. Nàng tha thiết với
cái thế giới trong đó nàng có thể mặc áo ngủ, để đầu tóc rối tung, rảo
bước từ phòng các con ra chỉ cho họ xem chiếc tã bốn dây một vết màu
vàng chứ không phải màu xanh cứt ngựa, với vẻ mặt hân hoan và nghe lời
an ủi của họ nói rằng thế là đứa bé đã đỡ nhiều.
Natasa buông lơi mình đến nỗi áo quần, cách trang điểm những câu nói
không phải của nàng, cái tính hay ghen của nàng - nàng ghen với Sonya,
với chị giữ trẻ, với bất cứ người đàn bà nào dù đẹp hay xấu - đã được
tất cả những người thân thuộc đem làm đầu đề đùa bỡn hàng ngày.
Theo ý cả nhà thì Piotr bị vợ xỏ mũi, và sự thật là như vậy. Ngay từ
những ngày đầu chung sống, Natasa đã tuyên bố những yêu sách của mình.
Piotr rất đỗi ngạc nhiên về quan niệm của vợ - Một quan niệm mà chàng
thấy là hoàn toàn mới mẻ - Cho rằng mỗi giây phút của đời chàng đều
thuộc về nàng và thuộc về gia đình. Piotr ngạc nhiên về những yêu sách
của vợ, nhưng cũng thấy tự hào và cũng vui lòng phục tùng.
Cái tình trạng phục tùng của Piotr ở chỗ không những chàng không dám tán
tỉnh và thậm chí cũng không dám mỉm cười trong khi nói chuyện với một
người đàn bà nào khác, chàng không dám đến các câu lạc bộ, dự những bữa
tiệc "gọi là để tiêu khiển", chàng không dám tiêu tiền theo những ý
thích riêng, cũng không dám đi xa lâu, trừ những khi có công có việc -
Trong số những công việc này nàng kể cả những việc nghiên cứu khoa học
của chàng mà nàng chẳng hiểu tí gì nhưng cũng cho là rất quan trọng.
Ngược lại, ở nhà Piotr có toàn quyền muốn làm gì thì làm, không những
đối với bản thân mình mà ngay cả đối với gia đình cũng vậy. Trong gia
đình, Natasa tự đặt mình vào địa vị người nô lệ của chồng, và cả nhà đều
phải đi rón rén khi Piotr đang làm việc - tức đọc sách hay viết lách
trong phòng. Chàng chỉ hơi ngỏ ý cần cái gì là Natasa đứng phắt dậy chạy
đi làm ngay.
Cả nhà răm rắp tuân theo những cái gọi là mệnh lệnh của ông chồng, tức
là những ý muốn của Piotr mà Natasa cố đoán ra. Cách sống, chỗ ở, bạn bè
giao dịch, những việc làm của Natasa, việc dạy dỗ các con, mọi việc đều
được quyết theo ý muốn mà Piotr ngỏ ra.
Ngoài ra Natasa còn tìm cách phỏng đoán những ý nghĩa có thể toát ra từ
những lời nói hay những câu chuyện của chàng. Nàng đoán đúng được thực
chất những ý muốn của Piotr, và một khi đã đoán ra là nàng một mực làm
cho kỳ xong theo cách nàng đã chọn. Và khi Piotr muốn thay đổi ý muốn
thì nàng lại dùng ngay những vũ khí của chàng để chống lại chàng.
Chẳng hạn, trong một thời kỳ gay go mà Piotr ghi nhớ mãi, sau khi sinh
đứa con đầu lòng yếu ớt, họ phải thay đến ba người vú em, và Natasa lo
phiền quá đến nỗi sinh bệnh, một hôm Piotr giảng giải cho nàng nghe
những quan niệm của Russeau mà chàng hoàn toàn tán thành, cho rằng việc
dùng vú em là trái tự nhiên và có hại. Đến khi sinh đứa thứ hai, mặc dầu
mẹ nàng, thầy thuốc và ngay cả chồng nàng không muốn để cho nàng tự cho
con bú vì đó là một việc không thấy ai làm và thậm chí có hại, nhưng
Natasa giữ vững ý mình và từ đó trở đi đứa con nào cũng tự mình cho bú
lấy.
Có nhiều khi trong những phút giận dỗi, hai vợ chồng cũng cãi cọ nhưng
sau đấy một thời gian, Piotr vui sướng và ngạc nhiên nhận thấy những lời
nói cũng như việc làm của Natasa đều phản ánh đúng cái ý kiến của chàng
đã bị Natasa cãi lại. Và không những chàng thấy ý kiến ấy được thực
hiện, mà còn thấy nó được tước bỏ hết những phần quá khích trong cách
nói của chàng lúc đang say sưa tranh cãi.
Sau bảy năm chung sống, Piotr vui sướng nhận thức một cách chắc chắn
rằng mình không phải là người xấu, và chàng cảm thấy như vậy là vì thấy
rõ hình ảnh mình được vợ phản chiếu lại. Trong thâm"tâm, chàng cảm thấy
cái tốt và cái xấu ở trong mình lẫn lộn vào nhau và che mờ lẫn nhau.
Nhưng ở vợ chàng thì chỉ thấy phản ánh những cái gì tốt thật sự, tất cả
những gì không hẳn là tốt đều bị gạt đi. Và sự phản ánh này diễn ra
không phải thông qua tư duy lô-gich, mà qua một con đường khác, trực
tiếp và huyền bí.



11.

Hai tháng trước đây, Piotr lúc bấy giờ đã ở với gia đình Roxtov, có
nhận được một bức thư của công tước Feodor, gọi chàng đến Petersburg để
thảo luận về những vấn đề quan trọng đang làm bận tâm những người tham
gia cái hội mà Piotr là một trong những người sáng lập chủ yếu.
Sau khi đọc bức thư này - nàng vẫn đọc tất cả thư từ của chồng - Natasa,
tuy rất khổ tâm khi phải vắng chồng, vẫn tự mình khuyên Piotr đến
Petersburg. Tất cả những công việc có tính chất trí óc và trừu tượng của
chồng, Natasa tuy không hiểu cũng vẫn cho là hết sức quan trọng, và
luôn luôn sợ mình cản trở chồng trong hoạt động này. Đáp lại cái nhìn dò
hỏi và ngại ngùng của Piotr sau khi đọc bức thư, nàng bảo chàng nên đi
nhưng phải cho nàng biết đích xác ngày nào trở về. Thế là chàng được đi
phép bốn tuần lễ.
Từ khi thời hạn của Piotr đã hết, tức là đã hai tuần nay, Natasa luôn luôn lo buồn và bực bội.
Denixov, vị tướng về hưu bất mãn với thời cuộc đã đến chơi từ hai tuần
nay, kinh ngạc và buồn rầu nhìn Natasa như nhìn một bức chân dung không
được giống của một người xưa kia mình yêu mến. Cái nhìn rầu rĩ, chán
ngán, những câu trả lời chẳng đâu vào đâu và những câu chuyện về con
cái: đó là tất cả những điều bây giờ chàng thấy và nghe được ở nàng đạo
cô thuở trước đã làm cho chàng mê mẩn.
Trong suốt thời gian này, Natasa buồn bã và bực bội khi để an ủi nàng,
mẹ nàng, anh nàng, Sonya hay bá tước phu nhân Maria tìm cách bào chữa
cho Piotr và bày ra những lí do để cắt nghĩa lại sao chàng về muộn.
- Toàn là những câu chuyện vớ vẩn, nhảm nhí hết - Natasa nói - Tất cả
những tư tưởng chẳng đưa đến đâu và những hội những phường ngớ ngẩn ấy. -
Nàng nói về chính những việc mà trước đây nàng tin chắc là vô cùng quan
trọng. Rồi nàng vào phòng trẻ để cho thằng Petya đứa con trai duy nhất
của nàng bú.
Không ai có thể nói với nàng một cái gì phải lẽ và có sức an ủi như
thằng bé ba tháng này, trong khi nó nằm áp vào ngực nàng và nàng cảm
thấy những cử động của đôi môi nó đang bú, nghe hơi thở nhẹ từ cái mũi
xinh xinh của nó đưa ra. Thằng bé nói: "Mẹ giận, mẹ ghen, mẹ muốn trả
thù bố, nhưng có con đây, con tức là bố đấy.". Và nàng không có cách gì
trả lời được nữa. Điều đó còn đúng hơn cả sự thật.
Trong suốt hai tuần lễ lo âu này, Natasa thường hay đến tìm ở đứa bé một
nguồn an ủi, nàng chăm chút nó đến nỗi nó ăn nhiều quá sinh ốm. Nàng sợ
hãi về bệnh tình của nó, nhưng đồng thời chính nàng đang cần nó ốm.
Trong khi săn sóc nó, nàng cảm thấy nỗi lo ngại về chồng nguôi nguôi.
Nàng đang cho con bú thì chợt nghe trước thềm có tiếng xe ngựa của Piotr
về, và u già, vốn biết cách làm cho bà chủ vui lòng, hiện ra ở cửa
không một tiếng động nhưng rất nhanh, vẻ mặt hớn hở:
- Về rồi à? - Natasa thì thầm hỏi gấp, không dám cử động sợ thằng bé thức dậy.
- Thưa bà, về rồi ạ - u già thì thầm.
Máu dồn lên mặt Natasa và chân nàng bất giác cử động nhưng nàng không
thể nào nhảy ra hay chạy ra được. Đứa bé lại mở mắt, nhìn nàng rồi lại
lười biếng chìa môi ra bú, dường như muốn nói: "Mẹ đấy à".
Natasa nhẹ nhàng kéo vú ra, ru đứa bé và trao nó cho u già rồi bước
nhanh ra cửa. Nhưng đến ngưỡng cửa, nàng bỗng dừng lại, dường như hối
hận rằng trong khi mừng rỡ mình lại đã vội vã bỏ con, và ngoảnh lại nhìn
u già đang đưa cao hai khuỷu tay lên, nhấc bổng thằng bé qua thành nôi.
- Bà cứ đi đi, cứ đi đi, bà cứ yên tâm - u già mỉm cười nói thì thầm với cái vẻ thân mật thường có giữa bà chủ và người bảo mẫu.
Và Natasa nhanh nhẹn bước ra khỏi phòng.
Denixov bỗng cảm thấy mình cũng như quýnh lên vì Piotr đã về, tuy chàng
chẳng yêu mến gì Piotr. Chạy ra phòng áo. Natasa nhận ra một nóng đáng
người cao lớn mặc cao khoác đang tháo chiếc khăn quàng.
- Anh ấy đây rồi? Anh ấy đây rồi? Đúng rồi! - Nàng tự nhủ và chạy như
bay về phía Piotr, ôm lấy chàng ghì chặt lấy chàng, nép đầu vào ngực
chàng rồi lại đẩy chàng ra nhìn gương mặt hồng hào, sung sướng của chàng
lấm tấm sương băng. "Phải chính anh ấy, anh ấy sung sướng, thoả mãn.".
Thế rồi đột nhiên nàng nhớ đến những nỗi buồn khổ của cảnh chờ đợi mà
nàng đã trải qua trong hai tuần nay: niềm vui sướng đang sáng ngời trên
gương mặt nàng bỗng nhiên biến mất, nàng cau mày và trút lên Piotr cả
một tràng những lời trách móc chua cay.
- Phải rồi! Anh thì thích lắm, anh thì sướng lắm, anh tha hồ chơi. Còn
em thì thế nào? Ít nhất anh cũng phải nghĩ đến con chứ? Em đang cho con
bú, sữa của em hỏng. Thằng Petya suýt chết. Còn anh thì cứ vui chơi.
Phải, anh vui lắm?
Piotr biết mình không có lỗi, bởi vì chàng không thể nào về sớm hơn,
chàng biết nàng giận dỗi như vậy là không phải, và chỉ hai phút nữa là
cơn giận sẽ qua, và cái chính là chàng biết mình đang vui vẻ sung sướng.
Chàng muốn mỉm cười nhưng không dám.
Chàng làm ra một vẻ mặt tội nghiệp, sợ hãi và cúi đầu.
- Anh không có cách gì về sớm hơn, anh thề với em như vậy? Nhưng thằng Petya thế nào?
- Bây giờ đã khá rồi, ta đi vào đi. Anh chẳng biết gì hết. Giá anh biết vắng anh em ra sao, em khổ sở như thế nào.
- Em khoẻ chứ?
- Ta vào đi, ta vào đi, - nàng nói, tay vẫn nắm lấy tay chàng. Và hai người bước vào phòng riêng.
Khi vợ chồng Nikolai ra tìm Piotr thì chàng đang ở trong phòng trẻ, đang
đỡ trên lòng bàn tay phải khổng lồ đứa con trai út vừa thức giấc, và
đang ru nó. Trên khuôn mặt rộng của chàng với cái miệng móm há hốc bừng
lên một nụ cười vui vẻ. Cơn bão đã qua từ lâu và một ánh sáng rực rỡ
ngời sáng trên gương mặt Natasa đang âu yếm nhìn con và chồng.
- Thế anh đã bàn bạc xong vớt công tước Feodor rồi chứ? - Nàng nói.
- Phải, ổn lắm rồi.
- Anh xem, ngóc lên được rồi đấy. (Natasa muốn nói đến đầu đứa bé). Thế
mà nó làm cho em sợ một mẻ đấy. Anh có gặp công tước tiểu thư không? Có
phải cô ta đang mê anh chàng.
- Có, em thử tưởng tượng…
Vừa lúc ấy Nikolai và bá tước phu nhân Maria bước vào. Piotr tay vẫn ẵm
con, cúi mình xuống hôn hai người và trả lời những câu hỏi của họ. Nhưng
rõ ràng là mặc dầu họ có nhiều điều rất thú vị để nói cho nhau nghe,
thằng bé với cái mũi và cái đầu lắc lư của nó vẫn thu hút sức chú ý của
Piotr.
- Dễ thương quá! - Bá tước phu nhân Maria ngắm đứa bé và chơi với nó. -
Có điều này thực em không hiểu, anh Nikolai ạ - nàng quay lại nói với
chồng - làm sao anh lại không hiểu được sức hấp dẫn của những thiên thần
này?
- Anh không hiểu, chịu thôi - Nikolai nói, lạnh lùng nhìn đứa bé - Một cục thịt, Piotr, ta ra ngoài kia đi.
Nói thế chứ chẳng có người cha nào yêu con như anh ấy - bá tước phu nhân
Maria bào chữa cho chồng, - nhưng chỉ khi nào chúng đã trên dưới một
năm.
- Anh Piotr thì lại chăm con mọn rất thạo - Natasa nói, anh ấy bảo, bàn tay ấy đặt vào mông trẻ con thật vừa khéo, xem kia kìa.
- Ấy nhưng không phải để làm việc ấy đâu. - Piotr bỗng cười xoà đoạn trao đứa bé cho người bảo mẫu.
hết: Chương - 10 -11 -, xem tiếp: Chương - 12 -13 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 EmptyWed Jan 05, 2011 10:28 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XVI

Chương - 12 -13 -


Cũng như trong mọi gia đình thực sự là gia đình, ở Lưxye Gorư có
nhiều thế giới hoàn toàn khác nhau cùng chung sống, thế giới nào cũng
giữ những đặc điểm riêng của nó, nhưng đồng thời lại nhân nhượng cho
nhau, do đó mà hợp lại thành một toàn thể hài hoà. Mỗi biến cố xảy ra
trong gia đình, đối với tất cả những thế giới này đều quan trọng như
nhau, đều vui vẻ hay buồn rầu như nhau.
Nhưng mỗi thế giới đều có những lý do của nó, hoàn toàn độc lập đối với
những thế giới khác, để vui mừng hay phiền muộn về một biến cố nào đấy.
Việc Piotr trở về là một biến cố quan trọng đáng mừng và mọi người đều cảm thấy như vậy.
Các gia nhân là những người xét đoán đúng đắn nhầt về chủ họ, bởi
vì họ không căn cứ vào những lời nói và những tình cảm chủ họ bộc lộ, mà
căn cứ vào những hành động và lối sống của chủ, đều sung sướng khi thấy
Piotr về, vì họ biết rằng bá tước Nikolai Ilyts sẽ không đi kiểm soát
điền trang ngày một nữa, ông ta sẽ vui vẻ hơn và hiền lành hơn, và cũng
vì nhân ngày lễ mọi người sẽ nhận được một món quà hậu hĩ.
Bọn trẻ con và các chị giữ trẻ vui mừng, khi thấy Bezukhov trở về
vì chẳng ai khéo biết cách đưa họ vào sinh hoạt cùng của gia đình bằng
Piotr. Chỉ có chàng mới biết chơi trên đàn dương cầm cái điệu Scotland,
(bài học duy nhất của chàng) có thể đệm theo tất cả các điệu nhảy trên
đời, như chàng thường nói, và chắc chắn thế nào chàng cũng đem quà về
cho mọi người.
- Cậu Nikolenka, năm nay mười lăm tuổi, một cậu bé thông minh, mà
gầy yếu, có bộ tóc quăn màu hung và đôi mắt rất đẹp, vui mừng bởi vì cậu
Piotr, như cậu thường gọi, là người được cậu say mê và tôn thờ. Không
ai cố tìm cách làm cho Nikolenka yêu mến Piotr một cách đặc biệt, và chỉ
thỉnh thoảng cậu mới gặp Piotr. Bá tước phu nhân Maria, người giáo dục
cậu, tìm đủ mọi cách để làm cho cậu yêu chồng mình như mình, và
Nikolenka cũng yêu chú cậu, nhưng tình yêu của cậu đối với Nikolai
thoáng có pha lẫn ý khinh thường kín đáo. Trái lại cậu tôn thờ Piotr.
Cậu không muốn trở thành một sĩ quan phiêu kỵ, cũng không muốn được
thưởng huân chương Georges như chú Nikolai, cậu muốn trở thành một người
học rộng thông minh và tốt bụng như cậu Piotr. Trước mặt Piotr, gương
mặt cậu bao giờ cũng sáng ngời, vì vui sướng, cậu đỏ mặt và nghẹn thở
mỗi khi Piotr nói với cậu. Cậu không hề bỏ qua một lời nào Piotr nói ra,
và sau đó hoặc cùng với Dexal hoặc một mình, cậu hồi tưởng lại từng lời
nói một và tìm cách hiểu ý nghĩa những lời ấy. Quãng đời mà Piotr đã
trải qua, những nỗi khổ của chàng trước năm 1812 (căn cứ vào những điều
nghe được, cậu đã tạo nên một hình ảnh mơ hồ và thi vị về những nỗi khổ
này) những hành động mạo hiểm của chàng ở Moskva, thời gian bị cầm tù.
Platon Karataiev (cậu có nghe Piotr kể lại), tình yêu của chàng đối với
Natasa (cậu bé cũng yêu nàng với một tình yêu đặc biệt) và nhất là tình
bạn giữa chàng và công tước Andrey, người cha mà Nikolenka không nhớ
được, tất cả những điều đó làm cho Piotr trở thành một vị anh hùng và
một bậc thần thánh đối với cậu bé.
Căn cứ vào những mẩu chuyện rời rạc về cha cậu và Natasa, nỗi xúc
động của Piotr khi nói đến người đã khuất, vẻ trìu mến, trân trọng, sùng
kính của Natasa khi nói đến cha mình, cậu bé hồi ấy mới bắt đầu hình
dung được tình yêu một cách mơ hồ đã tưởng tượng ra rằng cha cậu trước
kia yêu Natasa và khi lâm chung đã phó thác nàng cho bạn. Còn người cha
kia mà cậu bé không nhớ rõ, đối với cậu là một vị thần mà người ta không
thể nào hình dung ra được và hễ nghĩ đến cha Nikolenka bao giờ cũng
thấy lòng se lại và mắt cậu rơm rớm những giọt lệ buồn rầu và ngưỡng mộ.
Cho nên cậu bé cũng vui mừng khi thấy Piotr về.

Các tân khách cũng vui mừng khi Piotr về, bởi vì hễ có mặt Piotr
là bất cứ nhóm người nào cũng vui vẻ thân thiết với nhau hơn.
Những người lớn trong nhà, không kể đến vợ chàng, đều vui mừng được
gặp lại người bạn có khả năng làm cho cuộc sống của họ trở nên nhẹ
nhàng và êm thấm hơn.
Các bà già hài lòng về những món quà mà chàng mang về, và nhất là Natasa lại phấn chấn như cũ.
Piotr cảm biết tất cả những cách nhìn khác nhau của những thế giới
khác nhau kia đối với mình và sốt sắng đem lại cho mỗi người những điều
họ mong đợi.
Piotr, con người lơ đãng nhất, hay quên nhất đời, bây giờ đã mua
tất cả những thứ ghi trong bản danh sách mà vợ chàng trao cho, không
quên những điều mẹ chàng và vợ chàng dặn dò, kể cả việc mua áo làm quà
cho bà Belova và đồ chơi cho các cháu.
Trong thời gian đầu khi mới lấy vợ, chàng lấy làm lạ không hiểu
tại sao vợ chàng cứ một mực dặn chàng không được quên tất cả những thứ
cần phải mua, và kinh ngạc thấy nàng khổ sở thật sự chỉ vì trong chuyến
đi xa đầu tiên chàng đã quên hết. Nhưng về sau chàng đã quen với điều
đó. Biết rằng Natasa không dặn chàng mua gì cho nàng mà chỉ dặn mua cho
những người khác nếu chàng tình nguyện làm. Bây giờ chàng cảm thấy một
niềm thích thú không ngờ của trẻ con trong việc mua qua cho cả nhà, và
không bao giờ chàng quên gì hết. Chàng có bị Natasa trách chăng thì cũng
chỉ vì chàng mua quá nhiều và quá đắt. Thêm vào những khuyết điểm của
nàng (theo ý mọi người) hay những đức tính của nàng (theo ý chàng) là
tính cẩu thả và buông lơi, Natasa bây giờ lại đâm ra hà tiện nữa.
Từ khi Piotr bắt đầu sống với một gia đình đòi hỏi phải chi tiêu
nhiều chàng phải ngạc nhiên mà nhận thấy rằng mình tiêu chỉ bằng một nửa
hồi trước và những công việc của mình vừa đây đang gặp khó khăn (đặc
biệt là do những món nợ của người vợ trước) nay đã bắt đầu ổn dần.
Chàng tiêu ít hơn trước vì cuộc sống của chàng bây giờ đã ổn định:
lối sống xa hoa tốn kém nhất, tức là lối sống có thể thay đổi từng phút
một, bây giờ đã không còn, vả chăng chàng cũng không muốn sống như thế
nữa. Chàng cảm thấy lối sống của mình lần này đã được quy định vĩnh viễn
cho đến khi chết, chàng không tài nào thay đổi nó, cho nên lối sống của
chàng bây giờ rất ít tốn kém.
Piotr gương mặt tươi cười vui vẻ đang sắp xếp những vật đã mua được:
- Xem này, có đẹp không! - Chàng vừa nói vừa dăng một tấm vải ra
như một anh bán hàng. Natasa ngồi ttước mặt chàng, tay giữ đứa con gái
đầu lòng ngôi trên gối, đôi mắt sáng ngời hết nhìn chồng lại nhìn vật
chàng đang phô ra cho nàng xem.
- Đây là quà cho bà Belva có phải không? Tuyệt! - Nàng đưa tay mân mê tấm vải. - Cái này chắc phải đến một rúp một thước.
Piotr nói giá vải.
- Mua đắt đấy - Natasa nói - Thôi được, bọn trẻ con chắc bằng lòng
lắm và cả mẹ nữa, kể ra anh không nên mua cho em cái này: mới phải, -
nàng nói, nhưng không sao nén nổi một nụ cười klti ngắm một chiếc lược
vàng giát ngọc trai hồi bấy giờ mới bắt đầu thành một vật thời thượng.
- Đó là vì cô Adel cứ nài ép anh. Cô ta bảo cứ mua đi mua đi.
- Nhưng em sẽ cài lúc nào? - Natasa cài chiếc lược vào bím tóc - Thôi để
đến khi nào em dẫn Masenka vào môi trường giao tế, lúc bấy giờ có lẽ
người ta sẽ cài kiểu lược này. Thôi, ta đi nào.
Thế rồi họ mang các quà biếu trước hết vào phòng trẻ con rồi vào phòng lão bá tước phu nhân.
Phu nhân đang ngồi chơi bài với Belova như mọi ngày thì Piotr và Natasa, tay cắp mấy gói quà, bước vào phòng khách.
Lão bá tước phu nhân đã ngoài sáu mươi tuổi, tóc đã bạc phơ, phu
nhân đội một chiếc mũ chụp kết hình tổ ong trùm kín hai bên mặt. Mặt phu
nhân nhăn nheo, môi trên thụt vào và cặp mắt lờ đờ.
Từ khi con trai bà và chồng nối chân nhau qua đời trong một khoảng
thời ngắn như vậy, bá tước phu nhân cảm thấy mình bỗng dưng bị rơi lại
trên thế gian này, sống không chút mục đích, không chút ý nghĩa. Phu
nhân cũng vẫn ăn, uống, ngủ, thức, nhưng không phải là sống. Cuộc sống
không còn đem lại cho phu nhân một ấn tượng gì nữa. Phu nhân không đòi
hỏi gì ở cuộc sống ngoài sự yên tĩnh, mà sự yên tĩnh này thì chỉ có thể
tìm thấy trong cõi chết.
Nhưng chừng nào cái chết chưa đến, thì phu nhân vẫn còn phải sống,
tức còn phải sử dụng những sức sống của mình. Ở phu nhân có thể thấy
biểu hiện ở mức cao nhất cái hiện tượng mà người ta thường nhận thấy ở
những đứa trẻ rất bé và những người rất già.
Trong cuộc sống của phu nhân không thấy có một mục đích nào bên
ngoài, mà chỉ thấy một điều rõ rệt là nhu cầu vận dụng những xu hướng và
những năng lực tự nhiên của mình. Phu nhân cần ăn, ngủ, nghĩ, khóc,
nói, làm việc, giận dỗi v.v. chỉ vì phu nhân có dạ dày, bộ óc, bắp thịt,
giây thần kinh và gan. Phu nhân làm tất cả những điều đó mà không cần
một cái gì ở ngoại giới kích thích, không phải như những người đang thời
cường tráng, tức là những người không thấy ở phía sau cái mục đích họ
đang đeo đuổi còn có mục đích khác mà họ không để ý, là thoả mãn cái nhu
cầu tiêu dùng những sinh lực của họ. Phu nhân nói chỉ vì, về mặt sinh
lý, phu nhân phải để cho phổi và lưỡi của mình hoạt động. Phu nhân khóc
như một đứa trẻ chỉ vì phu nhân cần xì mũi v.v… cần cái gì đối với những
người cường tráng là mục đích thì đối với phu nhân rõ ràng là một duyên
cớ.
Chẳng hạn, mỗi buổi sáng phu nhân cảm thấy phải nổi giận, đặc
biệt nếu tối qua phu nhân ăn một món ăn béo, thì phu nhân chọn ngay một
duyên cớ dễ tìm nhất, đó là bệnh điếc của bà Belova.
Phu nhân đang ngồi mãi ở cuối phòng bắt đầu nói khẽ với bà ta một điều gì.
- Hôm nay hình như trời ẩm hơn mọi hôm bà à? - phu nhân nói thì thầm.
Thế rồi khi bà Belova đáp: "Phải, họ đã đến" thì phu nhân càu nhàu,
giọng cáu kỉnh.
- Điếc ơi là điếc ngốc ơi là ngốc!
Một duyên cớ khác là thuốc lá bột để hít. Phu nhân thấy nó khi thì
quá khô, khi thì quá ẩm, khi thì nghiền không nhỏ. Sau những cơn giận
dữ này, mặt phu nhân ngả sang màu vàng, và những cô gái hầu phòng của
phu nhân căn cứ vào những dấu hiệu chắc chắn có thể biết rõ khi nào bà
Belova sẽ lại điếu, thuốc lá sẽ lại ẩm, và khi nào mặt phu nhân lại sẽ
vàng. Cũng như phu nhân cần phải tiết bớt mật, đôi khi phu nhân cần phải
vận động những năng lực tư duy còn lại của mình vì muốn thố thi trò
chơi xếp bài là một duyên cớ. Khi phu nhân cần khóc thì duyên cớ lại là
kỷ niệm của cố bá tước. Khi phu nhân cần lo lắng thì duyên cớ là Nikolai
và sức khoẻ của chàng. Khi phu nhân cần nói những điều cay độc thì
duyên cớ là bá tước phu nhân Maria, khi thì phu nhân cần vận dụng các
khí quan phát âm - điều đó thường xảy ra nhất vào lúc bảy giờ sau khi
nghỉ ngơi cho tiêu cơm trong gian phòng tối mờ mờ - thì duyên cớ là kể
lại mãi những chuyện đã cũ rích, với những thính giả không thay đổi.
Mọi người trong nhà đều hiểu tình trạng này của lão bá tước phu
nhân, tuy không bao giờ họ nói ra, và ai nấy đều tìm đủ mọi cách làm phu
nhân thoả mãn. Chỉ đôi khi những nụ cười cửa miệng buồn bã và những cái
nhìn mà Nikolai, Piotr, Natasa và bá tước phu nhân Maria trao đổi với
nhau cho thấy họ đã cùng hiểu tình trạng của phu nhân.
Nhưng những cái nhìn ấy còn nói lên một điều khác nữa: Nó nói rằng phu
nhân đã làm xong nhiệm vụ của mình ở trên đời, rằng phu nhân trước kia
không phải bao giờ cũng như người ra thấy phu nhân hiện nay, rằng tất cả
chúng ta sẽ như phu nhân và chúng ta phải vui vẻ tự kiềm chế mình, tự
thắng mình để làm vừa lòng con người mà xưa kia mình yêu, xưa kia cũng
đầy sức sống như mình bây giờ, nhưng nay chỉ còn là một sinh vật thảm
hại. Memento mori(1) - những cái nhìn ấy như muốn nói thế.
Ở trong nhà chỉ có những kẻ hoàn toàn độc ác, ngu xuẩn, và lũ trẻ con, mới không hiểu điều đó và xa lánh phu nhân.

Chú thích:
(1) Hãy nhớ cái chết (tiếng La tinh)

13.
Khi hai vợ chồng Piotr bước vào phòng khách, bá tước phu nhân đang
ở trong tình trạng thường ngày mỗi khi phu nhân đang cần phải vận dụng
trí óc bằng cách xếp bài, cho nên thấy Piotr đến, phu nhân bực mình vì
phải xao nhãng mất sức chú ý đang tập trung vào mấy con bài. Tuy vậy,
theo thói quen, phu nhân vẫn nói những lời thường nói mỗi khi Piotr hay
con trai trở về: "Có thế chứ, mẹ mong con mãi. Thôi cũng đội ơn Chúa, và
trong khi nhận các quà tặng, phu nhân vẫn nói những câu quen thuộc
khác: "Cái quí không phải là quà cáp đâu con ạ, cái quí là con đã nghĩ
đến một bà già như mẹ". Phu nhân xếp bài xong mới chú ý đến các món quà.
Quà biếu gồm một cái bao đựng bài rất đẹp, một cái chén uống trà bằng
sứ Xevr, màu xanh xám có nắp đậy, có vẽ hình cô chăn cừu, và một chiếc
hộp đựng thuốc lá bằng vàng có chân dung của bá tước mà Piotr đã đặt một
người làm chân dung thu nhỏ ở Petersburg làm - Đã từ lâu bá tước phu
nhân muốn có một chiếc hộp đựng thuốc lá như thế.
Bấy giờ phu nhân chưa muốn khóc, vì vậy phu nhân nhìn bức chân
dung một cách lãnh đạm và đặc biệt chú ý đến cái túi đựng bài.
- Cảm ơn con, con đã làm mẹ vui lòng - phu nhân nói, nhắc lại những
câu thường ngày - Nhưng điều đáng mừng hơn cả là con đã về đây. Nếu
không thì chẳng còn ra làm sao nữa con phải mắng vợ con mới được. Rõ
thật buồn cười! Vắng con nó như điên dại. Nó không thấy gì cả, không nhớ
gì cả. Này bà Anna Timofeyevna - phu nhân nói thêm - Bà xem cái túi bài
con tôi nó mua cho tôi đẹp không này.
Bà Belova khen ngợi món quà và xuýt xoa trước tấm vải Piotr mua cho bà.
Piotr, Natasa, Nikolai, bá tước phu nhân Maria và Denixov thường cần
nói với nhau những điều không thể nói trước mặt phu nhân, không phải vì
họ giấu giếm gì phu nhân, nhưng vì phu nhân quá lạc hậu đối với tình
hình, cho nên mỗi khi bắt đầu một câu chuyện trước mặt phu nhân họ cứ
phải trả lời những câu không đâu của phu nhân và phải nhắc lại một lần
nữa những điều họ đã nói với phu nhân nhiều lần: nào là người này đã
chết, người kia đã lấy vợ, những điều mà phu nhân không tài nào nhớ
được. Nhưng theo thường lệ, lúc uống trà họ vẫn ngồi trước ấm lò ở phòng
khách và Piotr trả lời những câu hỏi của phu nhân, những câu hỏi chẳng
cần thiết gì đối với phu nhân mà cũng chẳng thú vị gì đối với những
người khác, cho phu nhân biết rằng công tước Vaxili đã già đi, bá tước
phu nhân Maria Alekxeyevna gửi lời thăm phu nhân và xin phu nhân đừng
quên bà ta v.v…
Cái lối trò chuyện chẳng thú vị gì cho ai nhưng cần thiết ấy vẫn
kéo dài suốt cả buổi dùng trà. Xung quanh cái bàn tròn đặt ấm lò, có
Sonya ngồi cạnh để rót nước, tất cả những người lớn trong gia đình đều
quây quần lại. Lũ trẻ con, các gia sư và các: chị giữ trẻ đã uống trà
xong, và có thể nghe tiếng họ nói chuyện trong gian phòng đi-văng ở bên
cạnh. Mỗi người đểu ngồi ở chỗ thường ngày của mình. Nikolai ngồi cạnh
lò sưởi trước cái bàn nhỏ trên đấy người ta dọn trà cho chàng. Milka,
con chó săn già, con của con Milka trước kia, đang nằm trên một chiếc
ghế bành đặt cạnh chàng; đầu nó trắng như bông, càng làm nổi bật cặp mắt
đen lánh. Denixov, mái tóc quăn cũng như bộ ria mép và bộ râu má đều đã
điểm bạc, mình mặc chiếc áo đuôi én của cấp tướng hở cổ đang ngồi cạnh
bá tước phu nhân Maria. Piotr ngồi giữa vợ và lão bá tước phu nhân.
Chàng kể lại những điều mà chàng biết là phu nhân có thể thích và hiểu
được. Chàng nói đến, những việc ở bên ngoài, trong giới xã giao, và nói
đến những người cùng lứa tuổi với phu nhân, ngày xưa vốn làm thành một
nhóm riêng biệt thực sự hoạt động, nhưng bấy giờ đều phân tán ở khắp nơi
và cũng như phu nhân, đang sống nốt trong những ngày còn lại bằng cách
hái những bông lúa cuối cùng mà họ đã gieo trong đời họ. Tuy vậy đối với
phu nhân chính những người này, những người cùng thời với phu nhân, lại
là cái thế giới duy nhất chân chính và đứng đắn. Thấy Piotr phấn chấn,
Natasa biết rằng cuộc hành trình của chàng rất thú vị rằng chàng có
nhiều điều muốn kể, nhưng không dám nói trước mặt phu nhân.
Denixov không phải là người nhà cho nên không hiểu tại sao Piotr
lại dè đặt, và vốn là một người bất mãn với thời cuộc, chàng rất quan
tâm đến những việc xảy ra ở Petersburg, nên cứ luôn luôn giục Piotr nói
đến chuyện vừa xảy ra trong trung đoàn Xemenovxki, hoặc nói về
Arakseyev, về Hội thánh Kinh(1). Đôi khi Piotr cũng bị lôi cuốn theo và
bắt đầu nói, nhưng Nikolai và Natasa mỗi lần như thế lại kéo chàng về
với sức khoẻ của bá tước Ivan hay của bá tước phu nhân Maria Antonova.
- Này anh xem tất cả cái trò điên rồ kia, tất cả bọn Goxner(2) và
Tatannova(3) - Denixov hỏi - Lẽ nào cứ tiếp tục được mãi như thế?
- Tiếp tục chứ - Piotr nói - còn tiếp tục mạnh hơn là khác: hội Thánh kinh bây giờ là tất cả chính phủ đấy!
- Con nói gì thế con? - bá tước phu nhân hỏi khi đã uống trà xong và
rõ ràng là đang muốn tìm một duyên cớ để nổi giận sau bữa ăn chiều -
Con nói gì chính phủ đấy, mẹ chẳng hiểu gì cả?.
- Thế này, mẹ ạ - Nikolai nói xen vào, chàng vốn biết cách diễn đạt
bất cứ ý gì bằng thứ ngôn ngữ của mẹ chàng - công tước Alekxander
Nikolaievich Golixyn có lập một hội, vì vậy người ta nói công tước rất
có thế lực.
- Arakseyev và Golixyn, - Piotr buột miệng nói - Hiện nay là tất cả
chính phủ. Chính phủ gì lại như thế! Ở đâu họ cũng thấy toàn là âm mưu,
cái gì họ cũng sợ.
- Nhưng công tước Aleckxander Nikolaievich thì có tội tình gì kia
chứ? - Phu nhân nói - Ông ta là một người đáng kính. Mẹ ngày trước
thường gặp ông ta ở nhà bà Maria Antonova - phu nhân nói, giọng cáu
kỉnh, và càng phát cáu khi thấy mọi người im lặng, phu nhân nói tiếp -
Một hội Phúc âm thì có gì là tai hại kia chứ? - phu nhân đứng dậy (mọi
người cùng đứng dậy theo) và vẻ mặt nghiêm khắc lững thững bước vào
phòng đi-văng ngồi bên bàn mình.
Giữa cái không khí im lặng buồn tẻ này, từ phòng bên vẳng ra những tiếng
cười nói của trẻ con. Rõ ràng là có một điều gì vui xảy ra giữa bọn
chúng.
- Xong rồi? Xong rồi? - tiếng cô bé Natasa reo lên vui vẻ át hết
những tiếng khác. Piotr đưa mắt nhìn bá tước phu nhân Maria và Nikolai
(chàng vẫn trông thấy Natasa) và nở một nụ cười sung sướng.
- Điệu nhạc ấy tuyệt trần! - Chàng nói.
Đó là chị Anna Makarovna đã đan xong đôi bít tất - bá tước phu nhân Maria nói.
- Ồ! Tôi phải sang xem mới được - Piotr nói đoạn đứng phắt dậy - Em
có biết - chàng nói thêm và dừng lại ở cửa lớn - Tại sao anh yêu thích
đặc biệt điệu nhạc này không? Nó là những dấu hiệu đầu tiên báo cho anh
biết rằng mọi việc đều tốt đẹp. Hôm nay trên đường về, càng về đến gần
nhà anh càng sợ. Khi vào phòng ngoài anh nghe thằng Andriusa cười vang,
anh biết như thế có nghĩa là mọi việc đều yên lành.
- Tôi cũng biết cái cảm xúc ấy - Nikolai xác nhận - Nhưng tôi không
thể đến xem được vì đôi bít tất ấy là một món quà bất ngờ họ dành cho
tôi đấy.
Piotr bước vào phòng các con và những tiếng cười reo càng to.
- Nào chị Anna Makrovna lại đây! - Piotr nói - đứng ở giữa phòng, và
nghe tôi hô: một, hai… và khi nào tôi nói: ba, con thì đứng đấy, còn
chú này thì ba bế nào. Đồng ý chứ: Một, hai… - Piotr nói. Một phút yên
lặng - ba! - và những tiếng reo vui sướng hân hoan của lũ trẻ vang dội
cả gian phòng.
- Hai chiếc, hai chiếc! - Bọn trẻ reo lên.
Đó là hai chiếc tất mà Anna Makarovna đã đan cùng một lúc theo một
bí quyết mà chỉ một mình cô ta biết được, và bao giơ cô ta cũng rút
chiếc này từ chiếc kia ra trước mặt bọn trẻ một cách trang trọng khi đã
đan xong.
Chú thích:
(1) Một tổ chức phản động do A.N. Golitxyn cầm đầu và được Alekxander đệ
nhất bảo trợ, gồm có những quan chức và cao cấp và giáo sĩ thành lập ở
Petersburg năm 1803. Chủ trương truyền bá Kinh Thánh
(2) Người Đức năm 1820 được bầu làm giám đốc hội Thánh kinh
(3) Người thành lập một giáo phái thần bí.
hết: Chương - 12 -13 -, xem tiếp: Chương - 14 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 EmptyWed Jan 05, 2011 10:28 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XVI

Chương - 14 -


Lát sau lũ trẻ vào chào để đi ngủ. Sau khi chúng hôn tất cả mọi
người, các gia sư và các chị giữ trẻ cúi chào rồi dẫn chúng đi. Riêng
Dexal và cậu học trò của ông ta ở lại. Người gia sư thì thầm bảo cậu học
trò đi xuống nhà.
- Không ông Dexal ạ, tôi xin phép cô tôi cho tôi ở lại, Nikolai Bonkonxki cũng thì thầm đáp.
- Cô ơi! Cô cho cháu ở lại, - Nikolenka đến gần cô nói. Khuôn mặt
của cậu lộ vẻ cầu khẩn, xúc động và hân hoan. Bá tước phu nhân Maria
nhìn cậu và quay về phía Piotr.
- Mỗi khi có cậu ở đây là nó không tài nào rứt ra được - nàng nói với chàng.
- Chốc nữa tôi sẽ đưa cháu lại cho ông. Ông Dexal ạ, chào ông! -
Piotr nói, bắt tay người gia sư Thuỵ sĩ và mỉm cười nói với Nikolenka -
Chúng ta đã lâu chưa được gặp nhau nhỉ, này chị Maria, độ này cháu nó
bắt đầu giống anh ấy quá - Chàng nói thêm với bá tước phu nhân Maria.
Giống ba cháu à? - Cậu bé hỏi, mặt bỗng đỏ bừng, và ngước đôi mắt sùng
mộ sáng long lanh lên nhìn Piotr. Piotr gật đáp lại, đoạn tiếp tục câu
chuyện bị lũ trẻ làm gián đoạn. Bá tước phu phân Maria đang ngồi thêu
trên khung. Natasa nhìn chồng không rời mắt. Nikolai và Denixov sai lấy
tẩu thuốc, vừa hỏi chuyện Piotr vừa hút thuốc và đón lấy những chén trà ở
tay Sonya mệt mỏi nhưng kiên nhẫn ngồi cạnh ấm lò. Cậu bé ốm yếu, tóc
quăn, mắt sáng, ngồi trong một góc phòng không ai để ý đến. Trên cái cổ
mảnh khảnh nhô ra ngoài chiếc áo cổ bẻ mái đầu tóc quăn của cậu quay về
phía Piotr. Chốc chốc cậu lại nhổm lên nói lẩm bẩm điều gì một mình, hẳn
là đang có một cảm xúc mới mẻ và mãnh liệt.

Câu chuyện xoay quanh những tin kháo vặt truyền đi từ những
giới cao cấp trong chính phủ, mà phần đông thường coi như những vấn đề
quan trọng về nội chính. Denixov vốn bất mãn với chính phủ vì lận đận
trên bước đường công danh, khoái trá lắng nghe tất cả những chuyện ngu
xuẩn mà chàng cho là hiện nay người ta đang làm ở Petersburg và bình
luận những câu chuyện của Piotr với những lời nhận xét táo bạo và gay
gắt.
- Ngày trước thì phải là người Đức mới được, còn bây giờ thì phải
khiêu vũ với bà Tatannova và bà Kruydner(1) phải đọc Ekartxthauzen(2) và
đồng bọn. Quả thật tôi muốn thả anh chàng hảo hán Bonaparte của chúng
ta ra một lần nữa, hắn sẽ biết cách trừ khở hết những trò ngu xuẩn kia.
Tôi muốn hỏi, giao trung đoàn Xemonovxki cho cái tên lính Svartx(3) chỉ
huy thì còn ra cái thể thống gì nữa, chàng quát lên, Nikolai tuy không
muốn cho rằng mọi việc đều xấu xa như Denixov nghĩ, nhưng vẫn cho rằng
việc phê bình chính phủ là một việc rất hệ trọng và đáng làm. Chàng cho
rằng việc A được bổ nhiệm làm tổng trưởng bộ nào đó, còn B được bổ làm
tổng đốc tỉnh nào đó, việc nhà vua nói thế này, còn ông tổng trưởng nói
thế kia là những việc rất quan trọng. Chàng cho rằng mình cần phải để ý
đến những việc ấy, bèn hỏi Piotr. Câu chuyện nở ra quanh những câu hỏi
của hai người không vượt ra ngoài phạm vi tính chất thông thường của
những câu chuyện kháo vặt của giới cao cấp trong chính phủ.

Nhưng Natasa vốn biết tất cả những thái độ và những ý nghĩ của
chồng, thấy rằng Piotr đã từ lâu muốn kéo câu chuyện sang một hướng khác
và nói rõ cái ý nghĩ thầm kín mà chàng đã đi Petersburg để bàn bạc với
người bạn mới là công tước Feodor nhưng chàng vẫn chưa thực hiện được ý
muốn đó, nên nàng bèn viện trợ chàng bằng cách hỏi xem câu chuyện của
chàng với công tước Feodor(2) đã đến đâu rồi.
- Việc gì thế? - Nikolai hỏi.
- Thì chung quy cũng vẫn một việc ấy - Piotr nói, mắt nhìn quanh - Mọi
người đều thấy rằng tình thế đã hỏng bét, đến nỗi không thể nào để yên
như thế này được nữa, và nhiệm vụ của tất cả những người chính trực là
phải ra sức chống lại.
- Những người chính trực có thể làm gì nào? - Nikolai nói, mày hơi cau lại - Người ta có thể làm những gì nào?
- Đây này.
- Chúng ta vào thư phòng đi - Nikolai nói.
Natasa, từ lâu đã đoán biết rằng người ta sắp đến tìm nàng vào cho
con bú, nghe tiếng gọi của u già liền đi về phòng các con. Bá tước phu
nhân Maria cũng đi theo. Nhóm đàn ông vào thư phòng, Nikolenka Bolkonxki
cũng lẻn vào theo mà Piotr không biết và, ngồi trong bóng tối, cạnh cửa
sổ, bên bàn làm việc.
- Thế cậu tính làm gì? - Denixov hỏi.
- Lúc nào cũng toàn những ảo tưởng - Nikolai nói.
- Đây này - Piotr bắt đầu nói, không ngồi xuống ghế, mà khi thì đi đi
lại lại trong phòng, khi thì đứng lại, nói lúng búng và giơ tay khua lia
lịa - Đây, tình hình ở Peterburg là như sau: hoàng đế không thiết gì
đến chính sự. Ngài hoàn toàn chìm đắm vào cái chủ nghĩa thần bí kia
(ngày nay Piotr không thể dung thứ cho người nào theo chủ nghĩa thần
bí). Ngài chỉ lo tìm sự yên tĩnh, và chỉ có những bọn không có đức tin
mà cũng không có pháp luật mới đưa lại cho ngài được sự yên tĩnh ấy, bọn
này chặn đứng và bóp chết tất cả: bọn Marnitxki, Arakseyev và cả lũ
chúng nó! - Chàng quay sang nói với Nikolai - Anh cũng phải đồng ý rằng
nếu anh không tự lấy công việc điền trang mà chỉ muốn được yên thân, thì
tên quản lý của anh càng tàn nhẫn bao nhiêu thì anh sẽ càng mau đạt mục
đích bấy nhiêu.
- Nhưng cậu nói thế để đi đến đâu mới được chứ? - Nikolai hỏi.
- Ấy thế rồi tất cả sẽ sụp đổ. Ở các toà án thì trộm cắp, trong quân đội
thì chỉ có roi vọt, nào luyện tập ắc ê, nào di trú quân sự - người ta
làm khổ dân, người ta bóp nghẹt giáo dục. Tất cả những cái gì trẻ trung,
chính trực đều bị tiêu diệt! Mọi người đều thấy rằng không thể cứ để
yên thế này được. Sợi dây đã quá căng và thế nào cũng đứt - Piotr nói
(như xưa nay người ta vẫn nói khi nhìn vào hành động của bất kỳ chính
phủ nào, từ khi có chính phủ cho đến nay). Ở Petersburg, tôi chỉ nói với
họ một điều.
- Nói với ai? - Denixov hỏi.
- Anh biết là nói với ai rồi - Piotr, mắt nhìn gườm gườm một cách đầy ý
nghĩa - nói với công tước Feodor và tất cả những người khác. Khuyến
khích việc truyền bá giáo dục và các tổ chức từ thiện, dĩ nhiên là rất
tốt. Đó là một mục đích rất hay. Nhưng trong tình hình hiện nay việc cần
làm những việc khác nữa.
Ngay lúc đó, Nikolai nhận thấy thằng cháu trai của chàng có mặt trong phòng. Gương mặt chàng sa sầm lại, chàng đến cạnh nó
- Mày ngồi làm gì ở đây?
- Sao thế? Cứ để mặc nó - Piotr nắm lấy tay cánh tay Nikolai nói tiếp -
Tôi bảo họ: làm như thế còn quá ít, bây giờ cần làm những việc khác nữa.
Trong khi người ta đứng chờ cho sợi dây quá căng thẳng ấy đứt, trong
khi mọi người cứ đợi cuộc chính biến tất yếu ấy xảy ra, chúng ta cần
phải nắm tay nhau thật chặt, càng đông càng tốt, để chống lại mối tai
hoạ chung. Tất cả những cái gì trẻ trung và khoẻ mạnh đều bị lôi cuốn
vào đấy và bị hủ hoá. Người thì bị đàn bà làm hư hỏng, người thì bị vinh
hoa hay tiền bạc cám dỗ và chuyển sang phe bên kia. Những con người độc
lập, tự do như tôi và anh bây giờ chẳng còn ai. Tôi nói: hãy mở rộng
phạm vi của hội, khẩu hiệu của anh sẽ không phải là chỉ đạo đức mà còn
là ý chí độc lập và hành động.
Nikolai rời đứa cháu trai, giận dữ đẩy chiếc ghế bành lại, ngồi
vào ghế và trong khi nghe Piotr nói chàng bất giác ho húng hắng, mặt mỗi
lúc một sa sầm xuống.
- Được nhưng hành động nhằm mục đích gì kia chứ? - Chàng quát lên - Còn thái độ của anh đối với chính phủ như thế nào?
- Thì đây! Thái độ của những người cộng tác. Hội này có thể không
phải là hội kín nếu như chính phủ cho phép. Không những nó không chống
đối chính phủ, mà còn là hội của những người bảo thủ chân chính. Đó là
hội của những người chính nhân quân tử theo ý nghĩa toàn vẹn của danh từ
này. Chúng tôi chỉ muốn làm sao cho Pugatsov(5) đừng đến giết con tôi
và con anh, và Arakseyev đừng đưa tôi đến một nơi di trú quân sự. Chỉ vì
vậy mà chúng tôi nắm tay nhau với mục đích duy nhất là hạnh phúc và an
ninh chung.
- Được nhưng đó là một hội kín, tức là một đoàn thể thù địch và tai hại, chỉ có thể gây những cái ác.
- Tại sao lại thế? Hội Tughenbund(6), cái hội đã cứu châu Âu (lúc
bấy giờ người ta vẫn nghĩ rằng chính nước Nga đã cứu châu Âu) có gây nên
điều gì có hại đâu? Hội Tughenbund là một hội đạo đức: nó chủ trương
bác ái, tương trợ, đó là những điều Jesus đã từng thuyết giáo trên cây
thánh giá.

Giữa câu chuyện, Natasa bước vào phòng, ngắm chồng vui sướng. Nàng
vui sướng không phải vì những điều chàng đang nói. Thậm chí nàng cũng
không quan tâm đến nữa vì nàng cho rằng tất cả nhứng điều đó đều hết sức
đơn giản và nàng đã biết từ lâu (nàng có cảm giác như vậy vì nàng đã
biết rõ hết cái cội nguồn của nó, tức là tâm hồn Piotr), nhưng nàng vui
sướng khi thấy vẻ phấn chấn, say sưa của chàng.
Cậu bé có cái cổ mảnh khảnh lộ ra ngoài chiếc cổ bẻ, bị mọi người
quên khuấy đi, còn nhìn Piotr một cách hân hoan sung sướng hơn nữa. Mỗi
lời nói của Piotr đều làm cậu bừng cháy, và trong khi xúc động, ngón
tay của cậu bất giác bẻ vụn những thỏi xi và những cây bút lông ngỗng
đặt trên bàn làm việc của chú Nikolai vừa đúng tầm tay cậu.
- Hoàn toàn không phải như cậu tưởng đâu, còn cái Tughenbund của Đức ngày trước và cái hội của tôi đề nghị thì như thế này.
- Thôi đi anh - Denixov nói oang oang, giọng dứt khoát - cái Tughenbund
chỉ tốt cho bọn ngốn xúc xích (ý nói người Đức) mà thôi, tôi chẳng hiểu
gì cái trò ấy hết, thậm chí tôi không phát âm được cái chữ đó nữa. - Mọi
việc đều hỏng bét, mọi việc đều tệ lậu - cái đó thì tôi đồng ý, nhưng
cái Tughenbund thì tôi không hiểu được, và nếu không bằng lòng thì
bun(7) một trận, thế mới xong? Được như thế tôi sẵn sàng theo cậu.
Piotr mỉm cười, Natasa cũng cười theo, nhưng Nikolai thì lại càng
cau mày và bắt đầu chứng minh cho Piotr thấy rằng sẽ không có chính biến
gì hết và tất cả các nguy cơ mà chàng nói đều chỉ có ở trong tưởng
tượng của chàng mà thôi. Piotr chứng minh ngược lại, và vì chàng thông
minh hơn và tế nhị hơn nên Nikolai lại cảm thấy mình lâm vào thế bí.
Điều đó càng làm cho chàng phát cáu vì trong thâm tâm không phải lý luận
mà do một cái gì còn mạnh hơn lý luận, chàng biết rằng những ý kiến của
mình nhất định là đúng.
- Tôi nói với cậu thế này nhé - chàng đứng dậy nói, tay bứt rứt cố
đặt cái tẩu vào một góc nhưng không được, cuối cùng phải vứt nó đi - Tôi
không đủ sức chứng minh cho cậu thấy được. Cậu nói rằng ở nước ta mọi
việc đều xấu xa và sẽ có chính biến, còn tôi thì tôi không thấy thế,
nhưng cậu có nói lời thề là một trò ước định, tôi xin nói với cậu về
việc đó: cậu là người bạn tốt nhất của tôi, cậu cũng biết đấy, nhưng nếu
cậu lập một hội kín và bắt đầu chống lại chính phủ thì, dù đó là chính
phủ nào đi nữa, tôi biết rằng bổn phận của tôi cũng vẫn là phục tùng
chính phủ. Và nếu bây giờ Arakseyev ra lệnh cho tôi mang một kỵ đội đến
chém xả vào các cậu thì tôi sẽ đi ngay không đắn đo một phút nào. Cậu
muốn cho tôi là người như thế nào, cái đó tuỳ cậu.
Sau mấy câu ấy, một phút im lặng nặng nề trôi qua. Natasa là người đầu tiên lên tiếng, nàng bênh vực chồng và công kích anh.
Cách bênh vực của nàng yếu ớt và vụng về nhưng nàng đã đạt được mục
đích. Câu chuyện lại tiếp tục và bây giờ không còn cái giọng thù địch
khó chịu như những lời nói vừa rồi của Nikolai nữa.
Khi mọi người đứng dậy đi ăn tối, cậu bé Nikolenka Bolkonxki tiến đến gần Piotr, mặt tái mét, mắt sáng long lanh.
- Cậu Piotr… cậu à… không… nếu ba còn sống ba có đồng ý với cậu không? - cậu bé hỏi.
Piotr hiểu rằng trong đứa bé chắc phải diễn ra một sự giằng co đặc
biệt, độc lập, phức tạp và khó nhọc về tư tưởng và tình cảm trong khi
nghe họ nói chuyện. Chàng sực nhớ đến tất cả những điều chàng nói và hối
tiếc rằng thằng bé đã nghe. Nhưng bây giờ chàng phải trả lời nó.
- Cậu nghĩ rằng có - Chàng miễn cưỡng đáp và bước ra khỏi thư phòng.
Cậu bé cúi đầu và mãi đến bây giờ cậu mới nhìn thấy lần đầu những
kết quả của công việc phá hoại mà cậu đã gây ở trên bàn. Cậu đỏ mặt và
lại gần Nikolai.
- Thưa chú, chú tha lỗi cho cháu, cháu đã trót làm như thế này -
cậu vừa nói vừa chỉ những cây bút lông ngỗng và những mảnh xi bị bẻ gãy.
Nikolai giật mình giận dữ.
- Thôi được thôi được…!
Chàng nói đoạn vứt những mảnh xi và những và những chiếc bút lông
ngỗng xuống gầm bàn. Và chàng quay mặt đi, hẳn là phải cố gắng lắm mới
nén được cơn giận đang trào lên.
- Đáng lẽ mày không nên ở đây một chút nào hết.

Chú thích:
(1) Bà thầy bói đã có thời rất ảnh hưởng với Alekxander đệ nhất.
(2) Nhà văn thần bí người Đức (1752 - 1803)
(3) Một người tay chân của Arakseyev đã đưa vào quân đội một chế độ kỷ
luật roi vọt hà khắc gây nên những phản ứng dữ dội trong trung đoàn
Xemonovxki
(4) Một người cầm đầu phái quý tộc tiến bộ sau này sẽ làm chủ cuộc khởi
nghĩa Tháng chạp. (Ý định ban dầu của Lev Tolstoy là kể lại quá trình
hình thành tư tưởng của một người Tháng chạp - Piotr Bezukhov)
(5) Một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa chống lại Sa hoàng và giai cấp quý tộc (1726-1775)
(6) Tughenbund Tegenbunđ (Đạo đức đồng minh). Hội của Đức thành lập vào
năm 1808 bị Napoléon giải tán năm 1810, đã được lập lại khi Napoléon bị
truất ngôi
(7) Bund tiếng Đức là liên minh, còn bunt tiếng Nga là nổi loạn, khởi nghĩa (hai chữ đều phát âm là "buot")
hết: Chương - 14 -, xem tiếp: Chương - 15 -16 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 EmptyWed Jan 05, 2011 10:28 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XVI

Chương - 15 -16 -


Trong bữa ăn tối, họ không bàn về chính trị và về những hội kín
nữa, trái lại câu chuyện chuyển sang cái đề tài mà Nikolai thích thú
nhất, tức là những kỷ niệm về năm 1812 mà Denixov đã lên tiếng nhắc nhở.
Trong khi nói chuyện Piotr đặc biệt dễ thương và vui nhộn. Rồi mọi
người giải tán với một thái độ hết sức thân mật.
Sau bữa ăn tối, Nikolai vào thư phòng, cởi áo ngoài và sau khi đã
căn dặn người quản lý vẫn đứng đợi từ nãy, chàng mặc nội tẩm vào buồng
ngủ. Chàng thấy vợ đang ngồi bên bàn viết hí hoáy cái gì không rõ.
- Em viết gì thế, Maria? - Nikolai hỏi. Bá tước phu nhân Maria đỏ
mặt, nàng sợ những điều nàng viết không được chồng hiểu và tán thành.
Nàng có vẻ giấu không cho chồng biết mình đang viết gì, nhưng cũng
lấy làm mừng rằng đã bị chồng bắt gặp và mình ở vào cái thế buộc lòng
phải nói rõ với chồng.
- Em viết nhật ký anh Nikolai ạ! - Nàng nói, và đưa cho chàng quyển
vở bìa lam viết đầy những nét chữ to và rắn rỏi của nàng.
- Nhật kí à? - Nikolai nói, giọng có pha chút châm biếm, đoạn cầm lấy quyển vở. Trong vở thấy viết bằng tiếng Pháp.

"Ngày 4 tháng 12. Hôm nay Andriusa (đứa con đầu lòng của nàng) thức
dậy, nó không chịu mặc áo nên cô Louise cho gọi tôi đến. Nó đang lúc
quấy, không sao bảo được. Tôi thử doạ nó, nhưng nó lại càng dỗi già. Tôi
bèn quyết định bỏ mặc nó đấy và cùng u già săn sóc những đứa khác. Tôi
bảo nó tôi không yêu nó nữa. Nó im lặng một hồi lâu như thể ngạc nhiên,
rồi mình mặc mỗi chiếc áo sơ mi nó nhảy đến ôm lấy tôi, mà khóc nức nở,
đến nôi tôi phải dỗ mãi nó mới nín. Có thể thấy rõ rằng nó đau khổ nhất
là đã làm tôi buồn phiền; rồi đến tối tôi đưa phiếu hạnh kiểm cho nó thì
nó lại khóc thảm thiết và hôn tôi. Nên dùng tình cảm dịu dàng đối xở
với nó thì dạy gì cũng được".

- Phiếu hạnh kiểm là cái gì? - Nikolai hỏi.
- Tối nào em cũng cho hai đứa lớn những tấm phiếu nhận xét về hạnh kiểm của chúng.
Nikolai nhìn vào đôi mắt trong sáng đang đăm đăm nhìn chàng, đoạn
giở quyển vở đọc tiếp. Trong nhật ký có ghi tất cả những gì Maria cho là
đáng chú ý trong sinh hoạt của các con vì biểu hiện rõ tính cách của
chúng hay gợi ra những ý nghĩa khái quát về phương pháp giáo dục. Phần
lớn đó là những chuyện vụn vặt, không đáng kể, nhưng lại có vẻ quan
trọng đối với người mẹ, cũng như người cha, lần đầu được đọc quyển nhật
ký nói về các con.
Ngày mồng năm tháng mười hai trong nhật ký viết:

"Michia nghịch trong lúc đang ngồi ăn. Ba ra lệnh không cho nó ăn
bánh ngọt. Nó không được ăn. Nó nhìn những người khác ăn, có vẻ tủi thân
và thèm thuồng. Tôi nghĩ rằng phạt bằng cách không cho ăn tráng miệng
chỉ làm phát triển tính tham ăn. Cần nói với Nikolai".

Nikolai đặt quyển vở xuống bàn và nhìn vợ. Đôi mắt trong sáng nhìn
chàng có ý dò hỏi (chàng tán thành hay không tán thành quyển nhật ký?).
Không thể nào nghi ngờ nữa. Không những Nikolai tán thành mà còn say sưa
thán phục vợ.
"Có lẽ không cần phải làm cầu kỳ như vậy, có lẽ hoàn toàn không
cấn thiết nữa là khác" - Nikolai thầm nghĩ, nhưng sức căng thẳng tinh
thần dai dẳng, không biết mệt mỏi, tập trung vào một mục đích duy nhất
là việc trau dồi đạo đức của con cái khiến chàng phải khâm phục. Nếu
Nikolai có thể nhận thức được tình cảm của mình thì chàng sẽ thấy rằng
cơ sở chính của cái tình yêu bền chặt, thắm thiết và đầy tự hào của
chàng đối với vợ chính là nỗi ngạc nhiên trước sức sống tâm hồn của
nàng, trước cái thế giới tinh thần cao cả mà chàng hầu như không thể nào
đạt được, trong đó vợ chàng vẫn sống xưa nay.
Chàng tự hào về trí thông minh của nàng và nhận thức rõ ràng sự
kém cỏi của mình so với nàng về tinh thần, chàng càng sung sướng khi
nghĩ rằng nàng với tâm hồn của nàng không những thuộc về chàng mà còn là
một bộ phận của bản thân chàng nữa.
- Anh rất tán thành, hoàn toàn tán thành, em ạ, - chàng nói, vẻ trang
trọng. Đoạn chàng im lặng một lát và nói tiếp - Hôm nay anh hỏng quá.
Lúc ấy em không ở trong phòng, anh với Piotr cãi nhau, và anh nổi nóng.
Nhưng không thể nào khác được. Cậu ta dại dột ngây thơ quá. Anh không
biết cậu ta sẽ ra sao nếu Natasa không cầm chắc dây cương. Em có thể
tưởng tượng tại sao cậu ta đi Petersburg không? Ở đấy họ đã lập…
- Vâng em biết - bá tước phu nhân Maria nói - Natasa đã kể cho em nghe.
- Đấy em biết đấy - Nikolai nói tiếp, chỉ cần nhớ đến cuộc tranh cãi
chàng đã phát cáu lên rồi - Cậu ta muốn thuyết phục anh rằng nhiệm vụ
của mọi người chính trực là phải chống lại chính phủ, còn lời thề và
nghĩa vụ thì… Anh tiếc rằng em không ở đấy. Và thế là mọi người xúm nhau
vào tấn công anh, cả Denixov, cả Natasa. Natasa thật rõ buồn cười. Cô
ta xỏ mũi cậu ấy thực đấy nhưng hễ động có tranh luận một cái gì là cô
ta không nói được câu gì của mình, cô ta chỉ lặp lại những điều cậu ấy
nói, - Nikolai nói thêm, bị lôi cuốn theo cái xu hướng không sao khắc
phục nổi, nó thúc đẩy chàng phê phán những người thân yêu gần gũi nhất.
Nikolai đã quên rằng những điều chàng nói về Natasa cũng đều có thể dùng
để nói về những quan hệ giữa chàng và vợ chàng không sai một chút.
- Phải, em cũng nhận thấy thế - bá tước phu nhân Maria nói.
- Khi anh nói với cậu ấy rằng lời thề và bổn phận là quan trọng
hơn hết; thì cậu ấy bắt đầu chứng minh một thôi một hồi. Rất tiếc là
không có em ở đấy, giả sử có em thì em sẽ nói gì?
- Theo ý em, anh hoàn toàn có lý. Em cũng nói như vậy với Natasa.
Piotr nói rằng mọi người đang khổ sở, đau đớn, hư hỏng, và nhiệm vụ của
chúng ta là phải giúp đỡ đồng loại. Đã đành cậu ấy có lý - bá tước phu
nhân Maria nói - nhưng cậu ấy quên rằng ta có nhiệm vụ khác gần ta hơn
là chính Thượng đế đã truyền bảo, và chúng ta có thể hy sinh bản thân
nhưng không thể hy sinh con cái ta được.
- Ấy đấy đúng thế, anh cũng nói với cậu ấy như vậy - Nikolai nói xen,
quả nhiên tưởng rằng mình đã nói như vậy thật - Nhưng họ có ý kiến của
họ, đó là tình yêu đồng loại và chủ nghĩa cơ đốc mà họ lại nói tất cả
những thứ đó trước mặt thằng Nikolenka nữa chứ, lúc ấy thằng bé đã lẻn
vào thư phòng phá phách lung tung ra cả.
- Anh Nikolai ạ, anh có biết không, thằng Nikolenka cứ làm em lo lắng
luôn - bá tước phu nhân Maria nói - Nó là một đứa trẻ khác thường. Nó sợ
rằng em bỏ rơi nó mà chỉ săn sóc đến các con. Chúng ta có con cái, có
gia đình, còn cháu nó chẳng có ai hết. Nó bao giờ cũng cô độc một mình
với những ý nghĩ của nó.
- Nhưng anh thấy đối với nó em chẳng có gì phải tự trách mình cả. Tất cả
những điều mà người mẹ âu yếm nhất có thể làm cho con mình thì em đã
làm và đang làm cho nó. Nó là một đứa trẻ rất ngoan, rất ngoan. Hôm nay
nó nghe Piotr mà ngây cả người ra. Em có thể tưởng tượng thế này không:
khi bọn anh đứng dậy đi ăn tối thì anh thấy nó đã bẻ gãy hết những đồ
đạc để trên bàn làm việc của anh, và ngay lúc đó nó xin lỗi. Không bao
giờ anh thấy nó nói dối. Thật là một đứa trẻ tốt - Nikolai nhắc lại, tuy
trong thâm tâm chàng không thích Nikolenka, nhưng bao giờ cũng muốn
thừa nhận nó là một đứa bé rất tốt.
- Nhưng cũng vẫn không bằng có một người mẹ - bá tước phu nhân Maria
nói, - Em cảm thấy thế nên rất khổ tâm. Thằng bé thật tuyệt diệu, nhưng
em sợ cho nó lắm. Đời sống giữa bạn bè sẽ có ích cho nó.
- Cái đó thì chẳng phải lâu la gì, mùa hạ năm nay anh sẽ đem nó đến
Petersburg, - Nikolai nói. - Phải, xưa nay Piotr vẫn là một anh chàng mơ
mộng và sau này rồi cũng vẫn thế - chàng nói tiếp, quay trở về câu
chuyện ở thư phòng, hẳn là câu chuyện này vẫn làm chàng xúc động. - Đấy,
những việc như Arakseyev là một người tồi… thì có quan hệ gì đến ta kia
chứ" Quan hệ gì đến anh, khi anh lấy vợ, nợ lút đầu lút cổ đến nỗi suýt
bị bỏ tù, còn mẹ thì chẳng thấy gì, chẳng hiểu gì cả! Rồi sau đó lại có
em, có các con, có công việc. Có phải vì sở thích mà anh làm việc từ
sáng đến tối ở ngoài đồng hay ở trong phòng giấy đâu? Không, nhưng anh
biết anh phải làm việc để cho mẹ anh sống an nhàn, để đến đáp lại cho em
và đừng để cho các con nghèo đói như anh ngày xưa.
Bá tước phu nhân Maria muốn nói với chồng rằng con người không
phải chỉ sống bằng bánh mì và có lẽ chàng gán cho những công việc này
một tầm quan trọng quá đáng, nhưng nàng nhận thấy nói thế không cần
thiết và chẳng có ích gì. Nàng chỉ nắm tay chồng mà hôn. Chàng xem cử
chỉ ấy như một lời tán thành và xác nhận những ý nghĩ của mình, rồi sau
khi im lặng suy nghĩ một lát, chàng tiếp tục nói to những ý nghĩ của
mình lên.
- Này Maria ạ, - chàng nói - Hôm nay Ilya Mitrofanyts (tên người
quản lý) ở làng Tanov đến nói rằng người ta đã mặc cả khu rừng tới tám
mươi vạn rúp - Rồi vẻ mặt phấn chấn, Nikolai bắt đầu kể rằng chỉ ít lâu
nữa chàng sẽ có thể chuộc lại điền trang Otradnoye - chỉ mười năm nữa là
cơ nghiệp anh để lại cho các con sẽ hoàn toàn đâu vào đấy.
Bá tước phu nhân Maria lắng nghe và hiểu hết những điều chồng nói với
mình. Nàng biết rằng những khi chàng nói to những điều đang nghĩ lên như
vậy, đôi lúc chàng lại hỏi nàng xem chàng đã nói gì, và nổi giận khi
thấy nàng đang nghĩ đến việc khác.
Nhưng bá tước phu nhân Maria phải cố gắng lắm mới có thể nghe
chồng vì nàng không mảy may quan tâm đến những điều chàng nói.
Nàng nhìn chồng, và tuy nàng không nghĩ đến việc khác, tình cảm
của nàng cũng ở chỗ khác. Nàng cảm thấy một tình yêu đằm thắm và phục
tùng con người này, con người không bao giờ hiểu hết những điều nàng
hiểu và hình như điều đó lại cũng khiến nàng yêu chàng mãnh liệt hơn,
với một mối tình được màu trắc ẩn tha thiết.
Ngoài cái tình cảm ấy đã thu hút tâm trí nàng và ngăn cản không
cho nàng đi sâu vào từng chi tiết trong các kế hoạch của chồng, trong óc
nàng lại thoáng hiện ra những ý nghĩ khác không liên quan gì đến những
điều chàng đang nói cả. Nàng nghĩ đến đứa cháu trai (câu chuyện chồng
nàng kể lại về nỗi xúc động của Nikolenka khi nghe Piotr đã gây nên
trong lòng nàng một ấn tượng rất mạnh). Thế rồi, những nét này nét khác
trong cái tính cách dịu dàng, dễ cảm của nó lại hiện lên trong tâm trí
nàng, và trong khi nghĩ đến cháu, nàng lại nghĩ đến các con. Nàng không
so sánh cháu với các con, nhưng nàng so sánh tình cảm của mình đối với
chúng và buồn rầu nhận thấy tình cảm của nàng đối với Nikolenka vẫn
thiếu một cái gì.
Đôi khi nàng nghĩ rằng sở dĩ có sự khác nhau như vậy là vì lứa
tuổi của chúng, nhưng nàng vẫn cảm thấy mình có lỗi với nó và trong thâm
tâm nàng tự hứa với mình là sẽ chữa và làm cái điều làm được - tức là
yêu chồng, cả con, cả Nikolenka và tất cả đồng loại trong cuộc sống này,
cũng như chúa Cơ-đốc đã yêu nhân loại.
Tâm hồn bá tước phu nhân Maria bao giờ cũng vươn tới cái vô
cùng, cái vĩnh viễn và cái chí thiện, cho nên nó không lúc nào có thể
yên tĩnh, gương mặt nàng trở nên nghiêm nghị, để lộ một niềm đau khổ cao
cả, thầm kín của một linh hồn bị xác thịt trói buộc.
Nikolai nhìn nàng.
"Trời ơi! Nếu nàng chết đi thì chúng ta sẽ ra sao? Mỗi khi gương mặt nàng lại như vậy, ta không khỏi nghĩ đến điều đó".
Chàng nghĩ thầm. Và đứng trườc tượng thánh, chàng bắt đầu đọc kinh buổi tối.

16.
Natasa, khi đã ngồi lại một mình với chồng, cũng nói chuyện như
người ta chỉ có thể nói giữa hai vợ chồng với nhau, tức là hiểu ý nhau
rõ ràng, nhanh chóng lạ lùng, theo một con đường đối lập với mọi qui tắc
luận lý, không dùng đến phán đoán, suy luận và kết, luận, mà theo một
phương thức hoàn toàn đặc biệt. Natasa đã quen nói chuyện với chồng theo
cách đó đến nỗi dấu hiệu chắc chắn nhất cho nàng biết rằng giữa hai vợ
chồng có một cái gì không ăn ý là tính chất luận lý trong dòng tư tưởng
của Piotr. Khi chàng bắt đầu chứng minh, nói năng có lý và điềm tĩnh, và
khi bị lôi cuốn theo gương của chàng, nàng cũng bắt đầu làm như vậy,
thì nàng biết ngay rằng thế nào hai người cũng đi đến chỗ cãi nhau.
Ngay từ lúc chỉ còn hai người với nhau, và Natasa, đôi mắt mở to
vì hạnh phúc, nhẹ nhàng bước đến gần và đột nhiên ôm chầm lấy chồng ghì
vào ngực nói: "Bây giờ anh hoàn toàn là của em rồi. Anh không thoát đi
đâu được!". Ngay từ lúc ấy đã bắt đầu cuộc chuyện trò trao đổi trái
ngược với tất cả các quy tắc luận lý, trái ngược ngay ở chỗ cùng trong
một lúc họ nói đến những vấn đề hoàn toàn khác nhau. Cái lối nói nhiều
chuyện cùng một lúc như vậy không những không cản trở họ hiểu nhau mà
trái lại, đó là dấu hiệu chắc chắn cho thấy rằng hai người hoàn toàn
hiểu nhau.
Nếu trong những giấc mơ, tất cả thường phi lý, vô nghĩa và ngược
đời ngoài cái tình cảm làm chủ giấc chiêm bao, thì trong cuộc trao đổi
này cũng vậy, trái với mọi quy luật của lý trí, cái liên tục và rõ ràng
không phải là những lời nói mà chỉ là cái tình cảm chi phối những lời
nói ấy.
Natasa kể cho Piotr nghe nào là sinh hoạt của anh nàng, nào là
vắng chàng nàng khổ sở sống không ra sống nữa, nào là nàng càng ngày
càng yêu Maria, nào là Maria hơn nàng về đủ mọi mặt.
Trong khi nói như vậy, Natasa thành thực nhận rằng Maria hơn
mình, nhưng đồng thời cũng yêu cầu Piotr cứ vẫn phải yêu nàng hơn Maria
cũng như hơn bất cứ người đàn bà nào khác, và bây giờ chàng phải nhắc
lại điều đó với nàng một lần nữa, đặc biệt sau khi đã gặp nhiều người
đàn bà ở Petersburg.
Piotr trả lời Natasa, kể cho nàng nghe rằng chàng không sao chịu
nổi cảnh sống ở Petersburg, những tối tiếp tân và những bữa tiệc với
những người đàn bà của giới xã giao.
- Anh đã mất hẳn thói quen nói chuyện với các tiểu thư và các phu nhân, - chàng nói, - Chán thật. Nhất là anh lại bận.
Natasa nhìn chàng đăm đăm và nói tiếp:
- Chị Maria tuyệt thật? Chị ấy có tài hiểu được các con. Chị ấy
dường như nhìn thấy được tâm hồn của chúng. Chẳng hạn hôm qua thằng bé
Michia quấy.
- Chà nó giống bố nó thật - Piotr ngắt lời. Natasa hiểu tại sao
chàng lại đưa ra nhận xét này về sự giống nhau giữa thằng Michia và
Nikolai, chàng bực mình khi nhớ lại cuộc tranh cãi với anh vợ và muốn
hỏi ý kiến của Natasa về vấn đề này.
- Anh Nikolai có một nhược điểm là cái gì chưa được mọi người tán
thành thì anh ấy nhất định không chịu chấp nhận. Nhưng em thì em biết,
anh đang nâng niu hoài bão mở một sự nghiệp - nàng nói, nhắc lại những
lời mà Piotr đã có lần nói.
- Không, - Piotr nói - Cái chính là Nikolai cho rằng tư tưởng và
luận lý chỉ là một trò chơi, gần như một trò tiêu khiển cho qua thì giờ.
Anh ấy xây dựng một tủ sách và tự đặt cho mình một nguyên tắc là chỉ
mua một cuốn sách khi đã đọc xong cuốn trước - anh ấy đọc Simondi,
Russeau, Mongteskiơ, - Piotr mỉm cười nói thêm. Em hiểu rằng anh. -
chàng đang tìm cách làm cho những lời phê bình của mình nhẹ bớt, nhưng
Natasa đã ngắt lời chàng, khiến chàng cảm thấy không cần phải làm thế.
- Thế anh bảo đối với anh ấy, tư tưởng là trò chơi à?
- Phải, còn đối với anh thì tất cả những cái khác lại chỉ là trò
chơi. Trong suốt thời gian ở Petersburg anh nhìn thấy mọi người như thể
trong giấc chiêm bao. Khi nào có một tư tưởng gì bắt anh bận tâm suy
nghĩ thì tất cả những cái còn lại chỉ là trò chơi.
- Chà rõ tiếc em không được thấy các con đón anh như thế nào - Natasa nói - Đứa nào mừng nhất! Chắc là Liza?
- Đúng - Piotr đáp, rồi lại tiếp tục nói đến những điều đang khiến
chàng bận tâm. - Nikolai bảo là chúng ta không nên suy nghĩ. Nhưng anh
thì chịu. Đấy là chưa kể thời gian ở Petersburg, anh cảm thấy (anh có
thể nói cho em biết điều đó) nếu không có anh thì tất cả sẽ tan rã, ai
cũng theo ý của riêng mình. Nhưng anh đã tập hợp được mọi người, bởi vì
tư tưởng của anh rất đơn giản và rõ ràng. Anh không nói chúng ta phải
chống lại người này người nọ.
Chúng ta có thể sai lầm. Anh nói như thế này: những người yêu cái
thiện hãy nắm lấy tay nhau và lá cờ duy nhất sẽ là đạo đức tích cực.
Công tước Sergey là một người rất tốt và thông minh.
Natasa không hoài nghi gì về chỗ tư tưởng của Piotr là một tư tưởng vĩ
đại, nhưng có điều làm nàng băn khoăn. Đó là ý nghĩ rằng chàng là chồng
nàng. "Có thể nào một con người quan trọng, cần thiết cho xã hội như thế
lại đồng thời là chồng mình? Làm sao có thể như thế được?". Nàng muốn
thổ lộ nỗi ngờ vực này của mình với chồng. Nhưng ai là người có thể
quyết định rằng chàng thông minh hơn hẳn những người khác? - nàng tự hỏi
và trong tưởng tượng nàng điểm qua một lượt những con người mà Piotr
rất kính trọng. Căn cứ vào những câu chuyện chàng đã kể thì trong số
những người này chàng không kính trọng ai bằng Platon Karataiev
- Anh biết bây giờ em nghĩ gì không? - nàng nói - Em đang nghĩ đến
Platon Karataiev - Bác ta sẽ nói gì? Liệu bây giờ bác ấy có tán thành
anh không?
- Bác Platon Karataiev à? - Chàng nói đoạn trầm ngâm suy nghĩ một
lát. Hẳn là chàng đang cố gắng thành thực nghĩ đến ý kiến của Karataiev
về vấn đề này. - Có lẽ bác ta không hiểu, nhưng cũng có thể bác ta hiểu.
- Em yêu anh ghê lắm! - Natasa đột nhiên nói - ghê lắm, ghê lắm.
- Không, bác ấy sẽ không tán thành anh. - Piotr nói sau khi nghĩ
ngợi. - Điều bác ấy sẽ tán thành là cuộc sống gia đình của chúng ta. Bác
ấy muốn ở đâu cũng thấy sự êm đẹp, hạnh phúc, bình yên, và anh sẽ hãnh
diện nếu được giới thiệu gia đình ta với bác ấy. Em vừa nói đến sự xa
cách. Nhưng chắc em không ngờ sau khi xa cách, anh có những tình cảm đặc
biệt gì đối với em.
- Lại thế này nữa anh ạ. - Natasa toan mở đầu.
- Không, không phải thế. Anh không bao giờ không yêu em. Và không thể
nào yêu hơn thế nữa, nhưng đây là một cái gì khác hẳn, phải - Chàng
không nói hết câu vì mắt họ đã gặp nhau và đã nói nốt phần còn lại.
- Thật vớ vẩn - Natasa bỗng nói - Tuần trăng mật và lúc mới lấy nhau mà
lại là lúc hạnh phúc nhất! Trái lại, bây giờ là thích hơn cả. Miễn là
anh đừng đi. Anh có nhớ chúng ta cãi nhau như thế nào không? Cũng chỉ
tại em thôi. Bao giờ cũng tại em. Nhưng tại sao chúng ta cãi nhau thì em
chẳng còn nhớ nữa.
- Thì vẫn chỉ có một - Piotr mỉm cười nói - Ghen.
- Đừng nói nữa, em ghét lắm. - Natasa nói to - và mắt nàng ánh lên một
tia sáng lạ lùng và độc ác. - Anh có gặp cô ta… - Nàng nói tiếp sau một
phút im lặng.
- Không, mà dù có gặp anh cũng không nhận ra - Hai người im lặng.
- Này, anh có biết không? Trong khi anh nói ở trong thư phòng ấy mà, em
nhìn anh - Natasa nói tiếp, hẳn nàng đang tìm cách xua đuổi đám mây đen
kéo đến - Anh giống thằng bé như đúc (nàng gọi đứa con trai mình vậy)
bây giờ đã đến lúc vào với nó. Đến rồi, phải đi thật rõ tiếc.
Hai người im lặng vài giây. Thế rồi cả hai bỗng quay người lại với nhau
cùng một lúc và bắt đầu nói. Piotr bắt đầu nói một cách tự mãn và say
sưa, Natasa với nụ cười dịu dàng, sung sướng. Hai người nói vấp phải
nhau, dừng lại nhường lời cho nhau:
- Em muốn nói gì thế? Nói đi, nói đi em!
- Không, anh nói đi, chứ em thì chỉ nói vớ vẩn - Natasa đáp.
Piotr nói tiếp câu chuyện đã bắt đầu. Chàng hăm hở kể tiếp những thành
công của mình ở Petersburg. Lúc bấy giờ chàng có cảm tưởng mình có nhiệm
vụ đưa ra một con đường mới cho tất cả xã hội Nga và cho thế giới.
- Anh chỉ muốn nói rằng tất cả những tư tưởng có hậu quả to lớn
bao giờ cũng đơn giản. Tất cả ý nghĩ của anh tóm lại là nếu những kẻ xấu
xa liên kết nhau làm thành một lực lượng thì những người trung thực
cũng phải làm như vậy. Thật là đơn giản.
- Phải.
- Còn em, em muốn nói gì?
- Không, chuyện vớ vẩn thôi.
- Em cứ nói đi.
- Không có gì đâu, toàn chuyện nhảm nhí cả - Natasa nới với nụ cười
rạng rỡ hơn trước - Em chỉ muốn nói về Petya. Hôm nay con nó đang ngồi
trong lòng em thì u già đến để bế nó đi: thế là nó mỉm cười, nhắm mắt,
nép vào người em - Chắc nó nghĩ rằng nó đang trốn kín lắm. Dễ thương
quá! Ơ kìa nó đang khóc đấy! Thôi, anh ngủ ngon nhé - Rồi nàng ra khỏi
phòng.
Cũng trong lúc ấy, ở tầng dưới, trong phòng ngủ của Nikolenka
Bolkolxk, ngọn đèn chong vẫn thắp như mọi hôm, (đứa bé sợ bóng tối và
người ta không tài nào chữa được cho nó cái tật ấy). Dexal đang nằm ngủ,
đầu kê cao trên bốn chiếc gối và cái mũi La Mã của ông ta buông ra
những tiếng ngáy đều đều. Nikolenka vừa mới thức dậy, mình ướt đẫm mồ
hôi lạnh. Cậu ngồi trên gường, mắt mở to nhìn thẳng về phía trước. Một
cơn ác mộng vừa làm cho cậu choàng dậy. Cậu vừa thấy cậu Piotr của cậu
cùng với cậu, đầu đội mũ trụ, thứ mũ thường thấy vẽ trong quyển sách của
Plutark. Hai người đang đi đầu một đạo quân rất lớn. Đạo quân này gồm
những đường nhỏ xiên xiên màu trắng chăng trên khuôn như những sợi dây
tơ nhện mùa thu mà Dexal gọi là chỉ của đức mẹ đồng trinh. Trước mặt là
vinh quang, cũng làm bằng những sợi dây tơ như vậy nhưng dày hơn một
chút. Cả hai, cậu Piotr và cậu, đang nhẹ nhàng và vui vẻ tiến lên, mỗi
lúc một gần đến đích. Bỗng những sợi dây tơ kéo họ về phía trước bắt đầu
giãn ra, rối lại, tình hình trở nên nguy cấp.
Rồi chú Nikolai Ilits hiện ra trước mặt họ với dáng điệu nghiêm nghị và hung dữ.
"Các người làm thế phải không? - Cậu ta vừa nói vừa chỉ những mảnh
lông chim và những mảnh xi gắn thư - ta yêu quý các người, nhưng
Arakseyev ra lệnh cho ta, nên hễ đứa nào bước tới là ta sẽ giết".
Nikolenka quay lại nhìn Piotr đã không ở đấy nữa. Piotr đã biến
thành cha cậu, công tước Andrey, không có đường nét và hình dáng nhưng
vẫn chính là cha cậu. Nhìn thấy cha, Nikolenka cảm thấy tình yêu thương
làm mình yếu đuối, cậu cảm thấy mình bủn rủn, không có xương sống và
hình như tan ra nước. Cha cậu vuốt ve và an ủi cậu Nhưng chú Nikolai mỗi
lúc một tiến đến gần. Cậu bé sợ hãi hoảng hốt tỉnh dậy. Cậu nghĩ thầm:
đó là cha ta. (Mặc dầu trong nhà có hai bức chân dung của cha cậu rất
giống thực, Nikolenka không bao giờ hình dung công tước Andrey dưới hình
dáng một con người), cha ta đứng cạnh ta và vuốt ve ta. Người tán thành
ta, người tán thành cậu Piotr. Người bảo bất cứ điều gì ta cũng làm,
Muxius Xevola(1) đã tự đốt tay mình. Tại sao trong đời ta không làm được
như vậy? Ta biết rằng họ muốn ta học tập. Thì ta sẽ học tập. Nhưng một
ngày kia ta sẽ học xong và bấy giờ ta sẽ làm. Ta chỉ cầu xin Thường đế
cho ta gặp những điều như những con người của Plutark đã gặp và ta cũng
sẽ làm như họ. Ta sẽ làm hơn họ kia. Mọi người sẽ biết, mọi người sẽ yêu
ta, sẽ thân phục ta. Rồi Nikolenka bỗng thấy lồng ngực nghẹn ngào. Cậu
khóc.
- Cậu mệt hay sao? - Tiếng ông Dexal hỏi.
- Không ạ! - Nikolenka đáp, đoạn nằm lên gối. Cậu nghĩ đến Dexal - ông
ấy tốt bụng và hiền lành, ta mến ông ấy lắm - Còn cậu Piotr thật là một
người tuyệt diệu! Còn cha ta! Cha! Cha ơi! Phải, ta phải làm những việc
mà ngay cả người cũng lấy làm hài lòng.

Chú thích:

(1) Mixius người La Mã tự đốt tay mình trước mặt quân thù để biểu lộ tinh thần bất khuất.
hết: Chương - 15 -16 -, xem tiếp: Phần XVII-Chương -1-
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 EmptyWed Jan 05, 2011 10:29 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Dịch giả: Cao Xuân Hạo, Nhữ Thanh, Hoàng Thiếu Sơn, Thường Xuyên

Phần XVII-Chương -1-


Đối tượng của sử học là đời sống của các dân tộc và của nhân loại.
Trực tiếp nắm vững và bao quát bằng ngôn ngữ, tức miêu tả cuộc sống
không những của nhân loại mà của một dân tộc duy nhất cũng thế là điều
không thể làm được.
Các sử gia trước kia thường sử dụng một biện pháp đơn giản để miêu
tả và cắt nghĩa cái hiện tượng dường như không thể nắm được là đời sống
của nhân dân. Họ miêu tả hoạt động của những con người cá biết lãnh đạo
dân tộc, và họ cho rằng hoạt động này biểu hiện hoạt động của toàn dân.
Khi gặp những câu hỏi: làm thế nào những con người cá biết kia lại
có thể bắt các dân tộc hành động theo ý muốn của mình, và ý muốn đó chịu
sự chi phối của cái gì, các sử gia trả lời câu hỏi thứ nhất bằng cách
nói rằng thần linh muốn dân tộc phục tùng ý muốn của một người, và trả
lời câu hỏi thứ hai bằng cách thừa nhận rằng cũng chính vị thần linh ấy
lãnh đạo ý muốn của con người được lựa chọn, đưa nó đến mục đích đã định
trước.
Như vậy những vấn đề này được giải quyết bằng lòng tin ở sự can
thiệp trực tiếp của thần linh vào những công việc của nhân loại.
Khoa học lịch sử hiện đại, về mặt lý luận đã bác bỏ cả hai lập luận
trên. Có thể tưởng chừng như sau khi bác bỏ tín điều của người cổ đại
cho rằng con người phụ thuộc vào thần linh và có một mục đích đã định
trước, mục đích mà các dân tộc đều bị dẫn đến, khoa học hiện đại lẽ ra
không cần phải nghiên cứu những biểu hiện của quyền lực, mà phải nghiên
cứu những nguyên nhân gì đã sinh ra nó.
Nhưng nó không làm như vậy. Sau khi bác bỏ quan điểm của các sử gia
cổ đại về mặt lý luận, nó lại theo những quan điểm ấy trong thực tiễn,
rhay cho nhtrng con người được thần linh ban quyền lực và bị ý muốn của
thần linh trực tiếp lãnh đạo, sử học hiện đại đưa ra ẩhững vị anh hùng
có những năng lực phi thường, siêu nhân, hoặc chỉ là những người có phẩm
chất hết sức khác nhau, từ các bậc đế vương đến những người ký giả, có
vài trò lãnh đạo quần chúng. Thay cho những mục đích do thần linh định
trước cho một vài dân tộc như người Do Thái, người Hi Lạp, người La Mã
để lãnh đạo nhân loại, sử học hiện đại đã đưa ra những mục đích khác:
quyền lợi của người Pháp, của người Đức, của người Anh và cứ thế nó đi
đến sự trừu tượng hoá cao nhất là quyền lợi của nền văn minh toàn thể
nhân loại, ý muốn nói đến những dân tộc sống ở cái góc nhỏ bé phía Tây
của đại lục.
Khoa học lịch sử hiện đại đã gạt bỏ những tín điều ngày xưa nhưng
không thay thế những tín điều đó bằng những quan điểm mới của mình, và
cái lo-gich của luận điểm đã bắt buộc các sở gia sau khi bác bỏ thuyết
thần quyền của vua chúa và thuyết sở mệnh của người cổ đại, lại quay lại
hai thuyết đó bằng một con đường khác.
Họ đi đến chỗ thừa nhận rằng:
1. Các dân tộc bị những cá nhân lãnh đạo.
2. Có một mục đích nhất định chi phối sự vận động của các dân tộc cũng như của nhân loại.
Trong tất cả những tác phẩm của các sử gia gần chúng ta nhất, từ
Giphơ(1) đến Buckle, mặc dầu bề ngoài có vẻ bất đồng ý kiến với nhau, và
quan điểm có vẻ mới, nhưng về căn bản vẫn xây dựng trên hai luận điểm
cũ kỹ và tất yếu này.
Thứ nhất, nhà sở học miêu tả hoạt động của một vài nhân vật cá
biết mà họ coi là những người lãnh đạo nhân loại. Có người cho rằng chỉ
có các vua chúa tướng lĩnh, các bộ trưởng mới là những người như thế. Có
người thì ngoài vua chúa lại kể thêm các nhà hùng biện, các nhà bác
học, các nhà cải cách, các nhà triết học và các nhà thơ.
Thứ hai, nhà sử học tưởng biết được những mục đích mà nhân loại
nhằm tiến tới: đối với người này thì đó là sự vĩ đại của nhà nước La Mã,
Tây Ban Nha, Pháp, đối với người kia thì đó là tự do, bình đẳng và một
kiểu văn minh nào đó trên một góc nhỏ của thế giới gọi là châu Âu.
Năm 1789, ở Paris xảy ra một cuộc biến động, cuộc biến động này
lớn lên, lan rộng và được biểu hiện ra thành cuộc di chuyển của các dân
tộc từ Tây sang Đông. Đã mấy lần, cuộc di chuyển này tiến về hướng đông,
vấp phải một cuộc di chuyển khác ngược lại từ Đông sang Tây, và đến
1812, nó đã đến giới hạn cuối cùng của nó là Moskva. Thế rồi với một sự
cân đối kỳ lạ, lại xuất hiện một cuộc di chuyển ngược chiều từ Đông sang
Tây, cuộc di chuyển này cũng như cuộc di chuyển thứ nhất, đã lôi cuốn
các dân tộc Trung Âu theo nó. Cuộc di chuyển ngược chiều này đã đến tận
điểm xuất phát của cuộc di chuyển trước, tức là Paris, rồi dừng lại.
Trong thời gian hai mươi năm ấy, vô số ruộng đất không được cày cấy
vô số nhà cửa bị đốt phá, nếu thương mại chuyển phương hướng, hàng
triệu người nghèo đi, giàu lên, và hàng triệu người Cơ đốc là những
người vẫn tuyên truyền tình yêu đối với đồng loại đã chém giết lẫn nhau.
Tất cả những sự việc đó có ý nghĩa gì? Nguyên nhân của nó là ở
đâu? Cái gì đã bắt buộc những con người này đốt nhà và tàn sát đồng
loại? Cái gì là nguyên nhân của những biến cố này? Sức mạnh nào đã bắt
buộc con người hành động như vậy? Đó là những câu hỏi tự nhiên, giản dị,
nhưng chính đáng nhất mà con người tự đặt ra cho mình khi đứng trước
những di tích và những kỷ niệm của cái thời kỳ di chuyển đã qua này.
Muốn giải quyết các vấn đề này, ta phải nhờ đến khoa học lịch sử là
khoa học có mục đích day cho các dân tộc và nhân loại nhận thức được
mình.
Giả sử sử học vẫn duy trì những quan diểm cũ thì nó sẽ nói: thần
linh, để thưởng hay để phạt nhân dân của mình, đã trao quyền lực cho
Napoléon, đã lãnh đạo ý chí của ông ta để đạt đến những mục đích thần
thánh của mình. Và câu trả lời sẽ đầy đủ và rõ ràng.
Người ta có thể tin hay không tin vào sự thụ mệnh, thần thánh của
Napoléon, nhưng đối với người nào đã tin điều đó thì toàn bộ lịch sử
thời đại này không thể nào có một điều gì mâu thuẫn.
Nhưng khoa học lịch sử hiện đại không thể nào trả lời được như vậy. Khoa
học không thừa nhận quan điểm của người cổ đại về sự can thiệp trực
tiếp của thần linh vào công việc con người, cho nên nó phải đưa ra nhJng
câu trả lời khác.

Khoa học lịch sử hiện đại, trong khi trả lời những câu hỏi này,
nói: Anh muốn biết cuộc di chuyển này có ý nghĩa gì, vì sao nó lại xảy
ra và động lực gì gây ra những biến cố ấy phải không? Anh hãy nghe đây:
Louis XIV là một người rất kiêu ngạo và tự thị: ông ta có những cô nhân
tình này nọ và những ông bộ trưởng nọ kia, ông ta cai trị nước Pháp rất
kém. Những người thừa kế ông ta là những người nhu nhược, và họ cũng cai
trị những nước Pháp rất kém. Họ cũng có những cô tình nhân và những
sủng thần như Louis XIV. Ngoài ra, bấy giờ lại có một vài người viết
sách. Vào cuối thế kỷ XVIII, ở Paris có hai chục người tập hợp lại, họ
bắt đầu lên tiếng, nói rằng: mọi người đều bình đẳng và tự do. Kết quả
là trên toàn cõi nước Pháp người ta bắt đầu chém giết lẫn nhau và dìm
nhau chết đuối.

Họ giết nhà vua và nhiều người khác nữa. Lúc bấy giờ ở Pháp có một
con người thiên tài, Napoléon. Ông ta đánh đâu thắng đấy, nghĩa là ông
ta giết được rất nhiều người, bởi vì ông ta là bậc thiên tài. Rồi ông ta
đi giết người Phi châu, để làm gì không rõ, ông ta giết họ giỏi quá,
ông ta lạ, mưu lược và thông minh quá đến nỗi khi trở về Pháp ông liền
ra lệnh cho mọi người phải phục tùng ông ta.
Và thế là mọi người phục tùng ông ta. Khi đã lên ngôi hoàng đế,
ông ta lại đi giết người ở Ý, ở Áo và ở Phổ. Ở đây ông ta cũng giết được
rất nhiều người. Nhưng ở Nga lại có hoàng đế Alekxandr là người kiên
quyết lo phục hồi lại trật tự ở châu Âu, cho nên ông ta bèn đánh nhau
với Napoléon. Nhưng năm 1807, đột nhiên ông ta kết bạn với Napoléon, rồi
đến 1811 hai người lại bất hoà và lại thi nhau giết cho thật nhiều
người. Thế rồi Napoléon mang sáu mươi vạn quân vào nước Nga và chiếm lấy
Moskva, nhưng rồi ông ta lại bỏ Moskva mà chạy, và bấy giờ hoàng đế
Alekxandr theo những lời khuyên nhủ của Stael và những người khác đã
liên kết toàn thể châu Âu vũ trang chống lại kẻ phá hoại sự yên tĩnh của
nó. Tất cả các bạn đồng minh của Napoléon đột nhiêu trở thành kẻ thù
của ông ta, và khối liên minh vũ trang này tấn công những lực lượng mới
tập hợp của Napoléon. Khối liên minh đánh bại Napoléon tiến quân vào
Paris, buộc Napoléon phải thoái vị và đưa ông ta đến đảo Enbơ nhưng
không tước mất tôn hiệu hoàng đế của ông ta và vẫn tỏ ra hết sức kính
trọng ông ta, mặc dầu năm năm trước và một năm sau mọi người đều xem ông
ta như một tên cường đạo ngoài vòng pháp luật. Và Louis 18, người mà từ
trước đến nay nước Pháp cũng như các nước đồng minh đều chế nhạo, lại
lên trị vì. Còn Napoléon thì nhỏ mấy giọt nước mắt trước đội cận vệ lão
thành của mình rồi thoái vị và lên đường đi đày. Thế rồi những chính
khách và những nhà ngoại giao khôn khéo (nhất là Taleyrăng(2), con người
đã nhanh nhẹn ngồi vào một chiếc ghế bành nào đó trước những người khác
và nhờ thế mà mở rộng được biên giới của những Pháp), gặp nhau ở Viên
để chuyện trò, và do cuộc trò chuyện này, họ làm cho các dân tộc sung
sướng hay cực khổ. Đột nhiên các nhà ngoại giao và các bậc vương giả
suýt bất hoà, họ đã sẵn sàng ra lệnh cho quân đội họ giết nhau lần nữa,
nhưng ngay lúc đó, Napoléon đổ bộ lên đất Pháp với một tiểu đoàn, và
người Pháp trước đây vẫn căm ghét ông ta bỗng phục tùng ông ta ngay.
Nhưng vua các nước đồng minh bèn nổi giận, và một lần nữa lại cất quân
đánh người Pháp. Thế rồi họ đánh bại Napoléon thiên tài và đưa ông ta ra
hòn đảo Saint-Helen, ông ta đột nhiên bị coi là một tên cường đạo. Và ở
đấy con người bị đày cách xa những người thân thích và những Pháp thân
yêu của mình, chết dần trên một mỏm đá và để lại cho hậu thế những hành
động vĩ đại của mình. Còn ở châu Âu thì diễn ra một thời kỳ phản động và
tất cả các quốc vương lại bắt đầu đàn áp nhân dân mình.
Chớ nên nghĩ rằng trình bày như vậy là nhạo báng, là biếm hoạ sử
học. Trái lại, đó là cách diễn đạt mềm mỏng nhất những lời giải đáp đầy
mâu thuẫn, và thật ra không hề giải đáp vấn đề, mà toàn bộ nền sử học đã
đưa ra, kể từ các tác gia viết hồi lý và viết sách nói về lịch sử của
từng nước, cho đến các tác gia viết sách lịch sử thế giới và sách văn
hoá sử là loại sử mới của thời kỳ bấy giờ.
Sở dĩ những lời giải đáp này kỳ quặc và khôi hài như vậy là vì sở
học hiện đại giống như một người điếc trả lời những câu hỏi mà chẳng ai
hỏi mình.
Nếu mục đích của sử học là miêu tả những cuộc vận chuyển của nhân
loại và các dân tộc thì câu hỏi đầu tiên đặt ra mà nếu không giải đáp
được thì tất cả những vấn đề còn lai sẽ không thể nào hiểù được nổi là
như sau: Động lực gì thúc đẩy các dân tộc di chuyển? Để trả lời vấn đề
này, lịch sử hiện đại kể lại một cách cẩn thận rằng Napoléon rất lỗi
lạc, hoặc Louis XIV rất kiêu ngạo, hoặc lại kể rằng những tác gia nào đó
đã viết ra những quyển sách nào đó.
Tất cả những cái đó có thể có, và nhân loại đều sẵn sàng chấp
nhận, nhưng nhân loại không hỏi điều đó. Tất cả những cái đó có thể thú
vị, nếu chúng ta thừa nhận có một quyền lực thần thánh tự tại bất biến
đã lãnh đạo các dân tộc thông qua những Napoléon, những Louis và những
tác gia nào đấy, cần phải nêu rõ mối liên hệ giữa những người này với
các cuộc vận chuyển của các dân tộc.
Nếu có một sức mạnh khác đã thay thế cái quyền lực thần thánh kia thì
cần phải cắt nghĩa cái sức mạnh mới này là cái gì, bởi vì đối tượng của
sở học chính là ở đấy.

Sử học dường như giả thiết rằng sức mạnh này là một cái gì dĩ nhiên
và ai cũng biết. Nhưng mặc dầu mọi người đều muốn thừa nhận cái sức mạnh
mới này là đã biết, ai đã từng đọc nhiều công trình sử học cũng bất
giác đâm ra hoài nghi không biết cái sức mạnh mới này mà mỗi sử gia hiểu
một cách khác có thật là được mọi người biết rõ hay không.
Chú thích:
(1) Gibpon (1737-1794). Sử gia tư sản Anh, tác giả bộ "Sự suy đồi và sụp đổ của đế chế La Mã"
(2) Ý nói đến những hành động khôn khéo của Teleyrăng ở hội nghị Viên năm 1814,
hết: Phần XVII-Chương -1-, xem tiếp: Chương - 2 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 EmptyWed Jan 05, 2011 10:29 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XVII

Chương - 2 -


Động lực thúc đẩy dân tộc vận động?
Các tác giả viết lịch sử cá nhân và các sử gia viết về từng dân tộc
quan niệm sức mạnh này là quyền lực cố hữu của các vị anh hùng và vua
chúa. Theo miêu tả của họ, các biến cố diễn ra hoàn toàn do ý muốn của
Napoléon, của những Alekxandr, hay nói chung, của những nhân vật mà các
tác giả viết lịch sử cá nhân đã miêu tả cuộc sống. Những trả lời mà các
sử gia thuộc loại này đưa ra vấn đề sức mạnh thúc đẩy các biến cố đều
thoả đáng, nếu mỗi biến cố chỉ có một sử gia miêu tả. Nhưng hễ có nhiều
sở gia thuộc những dân tộc khác nhau và có những quan điểm khác nhau bắt
đầu cùng miêu tả một sự kiện như nhau thì những câu trả lời mà họ đưa
ra liền mất hết ý nghĩa, bởi vì mỗi người trong bọn họ quan niệm sức
mạnh này một cách, và quan niệm của họ không những khác nhau mà thường
còn hoàn toàn đối lập nhau nữa. Sử gia này khẳng định rằng biến cố đã
xảy ra là do là do quyền lực của Napoléon, sử gia kia lại khẳng định
rằng nó xảy ra do quyền lực của Alekxandr, sở gia nọ lại khẳng định rằng
đó là quyền lực của một sự vật thứ ba nào đó. Ngoài ra các sử gia thuộc
loại này mâu thuẫn với nhau ngay cả trong cách giải thích cái sức mạnh
làm cơ sở cho quyền lực của một nhân vật. Chie thuộc phái Bonaparte nói
rằng quyền lực của Napoléon xây dựng trên đạo đức và thiên tài của ông
ta. Lanfrey(1) là người thuộc phái cộng hoà nói rằng nó xây dựng trên sự
gian trá và mị dân của ông ta. Thành thử các sử gia thuộc loại này thủ
tiêu lập luận của nhau, và do đó, họ thủ tiêu ngay cả cái khái niệm về
sức mạnh sinh ra các biến cố, và không đưa ra được một lời giải đáp nào
cho vấn đề chủ yếu của sử học.

Các sử gia viết lịch sử thế giới, là những người phải nghiên cứu
tất cả các dân tộc, dường như cho rằng quan điểm của các sử gia nghiên
cứu chuyên sử về sức mạnh sinh ra các biến cố là không đúng. Họ không
thừa nhận sức mạnh này là một quyền lực cố hữu của các vị anh hùng và
các vua chúa, mà cho đó là hợp lực của nhiều phân lực hướng về nhiều
phía khác nhau. Trong khi miêu tả một cuộc chiến tranh hay quá trình
chinh phục một dân tộc, các sở gia này tìm nguyên nhân của biến cố không
phải trong quyền lực của một nhân vật duy nhất, mà lại là trong ảnh
hưởng qua lại của nhiều nhân vật có liên hệ với biến cố.

Lẽ ra theo quan điểm này, quyền lực của các nhân vật lịch sử, được
xem như là sản phẩm của nhiều sức mạnh, không còn có thể coi là một sức
mạnh tự nó sinh ra các biến cố nữa. Tuy nhiên, các tác giả viết sử thế
giới thường thường vẫn phải dùng đến khái niệm quyền lực với tính cách
là mồt sức mạnh tự bản thân nó sinh ra các biến cố và là nguyên nhân của
các biến cố. Theo cách trình bày của các sử gia này thì khi thì nhân
vật lịch sử là sản phẩm của những sức mạnh khác nhau, khi thì quyền lực
của họ lại chính là sức mạnh sinh ra các biến cố. Gervinus, Schlosso(3)
chẳng hạn, và một số khác, khi thì chứng minh rằng Napoléon là sản phẩm
của cách mạng, của những tư tưởng năm 1789 v.v… khi thì tuyên bố rằng
chiến dịch năm 1812 cũng như những biến cố khác không làm cho họ vừa
lòng chỉ là kết quả của ý muốn sai lầm của Napoléon và ngay cả những tư
tưởng của năm 1789 cũng bị ngăn chặn, không phát triển được do thái độ
độc đoán của Napoléon. Còn quyền lực của Napoléon thì đã trấn áp những
tư tưởng cách mạng và ý hướng chung của thời đại.

Không những nó xuất hiện nhan nhản trong các sách lịch sử thế giới,
mà thậm chí toàn bộ nội dung miêu tả của các sách này chẳng qua là một
chuỗi liên tục những chuyện mâu thuẫn như vậy kế tiếp nhau. Sở dĩ có
tình trạng mâu thuẫn này là vì các tác giả viết lịch sử thế giới, sau
khi bước vào con đường phân tích, đã dừng lại ở giữa đường.
Muốn cho các phân lực tạo ra một hợp lực hay lực hợp thành, thì
nhất định tổng thể số các phân lực phải bằng hợp lực đó. Đó chính là
điều kiện mà các tác giả viết lịch sử thế giới không bao giờ tuân theo,
và do đó, để cắt nghĩa hợp lực, ngoài những phân lực không đầy đủ của
nó, họ nhất thiết phải thừa nhận một lực khác chưa được xác định đã tác
động đến hợp lực.
Một sử gia khi miêu tả chiến dịch năm 1813 hay thời kỳ hồi dòng
Bourbon nói thẳng ra rằng những biến cố này đều xảy ra do ý muốn của
Alekxandr. Nhưng Gervinus, một tác giả viết sử thế giới, trong khi bác
bỏ luận đề này, đã tìm cách chứng minh rằng chiến dịch năm 1813 hay việc
phục hồi dòng Bourbon, ngoài ý muốn của Alekxandr ra, còn có nhiều
nguyên nhân khác, đó là hoạt động của Stande, của Meterric, của bà De
Stael, của Telayrăng, của Fict, của Satobrien và của nhiều người khác.
Rõ ràng là các sử gia này đã chia quyền lực của Alekxandr ra thành những
thảnh phần cấu tạo nên nó: Telayrăng, Satobrien, của bà De Stael và của
những người khác, dĩ nhiên là không ngang bằng với tất cả hợp lực nghĩa
là hiện tượng hàng triệu người Pháp phục tùng họ Bourbon.
Như vậy, để giải đáp vấn đề làm sao những phân lực này lại có thể
đưa đến sự phục tùng của hàng triệu người, tức làm sao những phân lực
bằng một A lại có thể tạo nên một hợp lực bằng một nghìn A, nhà sử học
đành phải thừa nhận cái sức mạnh của quyền lực mà ông ta đã phủ nhận,
bằng cách cho nó là hợp lực của nhiều lực khác, nghĩa là ông ta phải
thừa nhận một sức mạnh chưa được lý giải đã tác động đến hợp lực. Và
chính các tác giả viết sử thế giới đã làm như vậy. Chính vì thế cho nên
không những họ mâu thuẫn với các tác giả chuyên sử mà còn mâu thuân với
chính họ nữa.
Những người dân ở nông thôn vốn không có một khái niệm rõ ràng về
nguyên nhân của mưa, tuy khi họ muốn có mưa hay muốn trời nắng, sẽ nói:
gió đã đuổi mây đi, hay gió dã mang mây đến.
Các tác giả viết sử thế giới cũng làm hệt như vậy: khi nào biến cố phù
hợp với lý thuyết của họ thì họ nói rằng quyền lực là kết quả của các
biến cố, trái lại khi nào cần phải chứng minh một cái gì khác thì họ nói
rằng quyền lực tạo ra các biến cố.
Hạng sử gia thứ ba mà người ta gọi là những nhà văn hoá sử, bước
theo con đường của các sử gia viết sử thế giới, đôi khi xem các nhà vãn
và các nhân vật phụ nữ là những lực lượng đã gây nên các biến cố, nhưng
lại quan niệm lực lượng này một cách khác hẳn.
Họ nhìn thấy nó trong cái mà người ta gọi là văn hoá, trong hoạt động trí tuệ.
Các nhà văn hoá sử hoàn toàn nhất trí với những người đã mở đường
cho họ là các tác giả viết sử thế giới bởi vì nếu đã có thể cắt nghĩa
các biến cố lịch sử bằng cách nói rằng những nhân vật nhất định đã có
những quan hệ nhất định với nhau, thì tại sao lại không thể cắt nghĩa
các biến cố bằng cách nói rằng những người nào đó đã viết những quyển
sách nào đó? Trong vô số những biểu hiện kèm theo một hiện tượng trọng
yếu, các sử gia này chọn lấy biểu hiện của hoạt động trí tuệ và nói rằng
đó chính là nguyên nhân. Nhưng mặc dầu họ ra sức chứng minh rằng nguyên
nhân của biến cố là nằm trong hoạt động trí tuệ, cũng phải dễ tính lắm
mới có thể thừa nhận rằng có một cái gì chung ở giữa hoạt động trí tuệ
và sự vận động của các dân tộc. Nhưng dù sao chăng nữa, người ta cũng
không thể nào thừa nhận hoạt động trí tuệ lãnh đạo hành động của con
người, bởi vì những hiện tượng như những vụ tàn sát khốc liệt của Cách
mạng Pháp mà lại là hậu quả của việc tuyên truyền quyền bình đẳng của
con người, những cuộc chiến tranh và những cuộc hành trình tàn khốc mà
lại là hậu quả của việc tuyên truyền bá tình thương, những hiện tượng
thếđều mâu thuẫn với thuyết này.
Nhưng dù sao tất cả những lý luận oái oăm đầy rẫy trong những
quyển sử kia có đúng chăng nữa, dù ta có thừa nhận rằng các dân tộc chịu
sự chi phối của một sức mạnh khó xác định mà người ta gọi là tư tưởng,
thì vấn đề chủ yếu của lịch sử cũng vẫn chưa được giải đáp. Ngoài quyền
lực của những vị vua mà trước kia người ta đã thừa nhận, ngoài ảnh hưởng
của những cố vấn và những nhân vật khác mà sử gia thông sử đưa vào, bây
giờ lại còn có một sức mạnh mới, sức mạnh của tư tưởng mà mối liên hệ
của nó với quần chúng còn đòi hỏi được giải thích. Người ta có thể hiểu
rằng vì Napoléon nắm quyền nên một biến cố nào đó đã xảy ra. Người ta
còn có thể tạm thừa nhận rằng Napoléon, cùng với những ảnh hưởng khác,
đã là nguyên nhân của biến cố, nhưng nói rằng quyền lực "Khế ước xã
hội"(3) đã làm cho người Pháp giết nhau thì thật không tài nào hiểu được
nếu không giải thích quan hệ nhân quả giữa cái lực lượng mới này với
biến cố đã xảy ra.
Hiển nhiên là có một mối liên hệ ở giữa tất cả những, người cùng chung
sống trong một thời đại, và do đó có thể tìm thấy một mối liên hệ nào
đấy giữa hoạt động tinh thần của con người và cuộc vận động lịch sử của
họ, cũng như người ta có thể tìm thấy mối liên hệ giữa những vận động
của nhân loại với thương nghiệp, thủ công nghiệp, nghề làm vườn và bất
cứ cái gì khác. Nhưng tại sao các nhà văn hoá sử lại cho rằng hoạt động
trí tuệ của con người ta là nguyên nhân hay là biểu hiện của toàn bộ
cuộc vận động lịch sử" Thật khó lòng hiểu nổi? Cách suy luận ấy của các
sử gia may ra chỉ có thể cắt nghĩa như sau:

1. Lịch sử là do các nhà học giả viết, cho nên lẽ tự nhiên họ thích
cho rằng hoạt động của tầng lớp họ là nền tảng của cuộc vận động lịch sử
cũng như thương nhân và binh sĩ thích cho rằng hoạt động của họ mới là
nền tảng của cuộc vận động (điều này không lộ ra chẳng qua là vì thương
nhân và binh sĩ không viết lịch sử) và

2. Hoạt động trí tuệ, giáo dục, văn minh, văn hoá, tư tưởng tất cả
những cái đó đều là những khái niệm mơ hồ không được xác định; ở dưới lá
cờ của nó người ta tha hồ dùng những từ ngữ còn ít rõ nghĩa hơn và do
đó dễ dàng thích hợp với bất kỳ lý thuyết nào.

Nhưng dù chưa nói đến giá trị nội tạng của loại sở học này (có lẽ
đối với một người nào đó hay đối với một việc nào đó nó cũng cần thiết
và hiện nay nội dung của tất cả các tác phẩm thông sử xét về thực chất
đang bắt đầu có tính chất văn hoá sử ngày càng rõ rệt), các tác phẩm văn
hoá sử, cũng có một điểm này đáng chú ý. Đó là mặc dầu nó nghiên cứu
nghiêm túc và tỉ mỉ các học thuyết tôn giáo, triết học, chính trị, cho
đó là nguyên nhân của các biến cố, nhưng hễ nó phải miêu tả một biến cố
lịch sử có thực như chiến dịch 1812 chẳng hạn thì vô hình chung nó lại
miêu tả biến cố này như sản phẩm của quyền lực và nói không úp mở rằng
chiến dịch này là do ý muốn của Napoléon mà ra. Trong khi nói như vậy,
các nhà văn hoá sử vô hình chung đã tự mâu thuẫn với mình vì họ cho thấy
rằng cái sức mạnh mới mà họ đặt ra không biểu hiện được những biến cố
lịch sử và biện pháp duy nhất để hiểu lịch sử lại chính là cái quyền lực
mà đường như họ không thừa nhận.

Chú thích:
(1) Pierre Lanfrey (1828-1877) tác giả "Lịch sử Napoléon"
(2) Gervinus (1805-1871), sử gia Đức. Schlossor (1776- 1861) tác giả "Lịch sử thế giới" gồm 19 quyển
(3) "Contrat social" tác phẩm của nhà văn và tư tưởng Pháp thế kỷ 18 J.J. Russeau
hết: Chương - 2 -, xem tiếp: Chương - 3 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 EmptyWed Jan 05, 2011 10:29 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XVII

Chương - 3 -


Một đầu máy xe lửa đang chạy. Thử hỏi cái gì làm cho nó chạy như
vậy? Người nông dân nói: quỉ Satan cho nó chạy. Một người khác nói: nó
chạy bởi vì bánh của nó quay. Người thứ ba khẳng định rằng nguyên nhân
của vận động là cái đám khói đang bay theo chiều gió.
Không thể bác người nông dân kia được! Anh ta đã nghĩ ra một cách
giải thích toàn vẹn. Để bác anh ta, cần phải có người chứng minh cho anh
ta thấy rằng không làm gì có quỉ, hay phải có một người nông dân khác
cắt nghĩa rằng không phải quỉ mà chính là người Đức(1) làm cho đầu máy
chuyển động. Chỉ có như thế thì sự mâu thuẫn mới cho họ thấy rằng cả hai
đều sai. Nhưng người nói rằng nguyên nhân là sự vận động của các bánh
xe cũng tự bác lại mình, vì nếu đã đi theo con đường phân tích, thì anh
ta lại phải đi xa hơn nữa: phải cắt nghĩa nguyên nhân của sự vận động
của bánh xe. Và hễ còn chưa đi đến nguyên nhân cuối cùng của sự vận động
của chiếc đầu máy, từ là sức ép của hơi nước trong súp-de, thì anh ta
vẫn chưa có quyền đừng lại trong việc đi tìm nguyên nhân. Còn người nào
giải thích sự vận động của đầu máy bằng đám khói bị gió thổi khi nhận
thấy cách giải thích bằng bánh xe không đưa đến nguyên nhân, anh ta chộp
ngay lấy bất cứ dấu hiệu nào và cho đó là nguyên nhân.

Khái niệm duy nhất có thể cắt nghĩa được sự vận động của chiếc đầu
máy là khái niệm của một sức mạnh ngang bằng với toàn bộ sự vận động
người ta thấy được.

Khái niệm duy nhất có thể cắt nghĩa được sự vận động của của các
dân tộc là khái niệm của một sức mạnh ngang bằng với toàn bộ sự vận động
này. Tuy vậy mỗi sở gia đều quan niệm khái niệm này thành một lực lượng
khác hẳn và tuyệt nhiên không ngang bằng vơi sự vận động mà người ta
thấy được. Có người nhìn thấy ở đấy một sức mạnh nằm ngay trong các vị
anh hùng, cũng như người nông dân cho rằng trong đầu máy có quỉ, có
người thấy đó là một sức mạnh do những sức mạnh khác sinh ra, như sự vận
động của những bánh xe, còn những người khác nữa thấy đó là một ảnh
hưởng của tinh thần như là đám khói bị gió thổi bạt đi.

Hễ người ta còn viết lịch sử của những cá nhân, dù cho những cá
nhân đó là Cesar Alecxandre hay Lehte và Vonanr, chứ không phải là lịch
sử của mọi người, không trừ một người nào trong số tất cả những người đã
tham dự vào một sự kiện, thì vẫn không thể nào gán cho một số nhân vật
một sức mạnh đã bắt buộc những người khác phải hướng hoạt động của mình
vào một mục đích duy nhất.
Và cái khái niệm duy nhất mà các sở gia biết được là quyền lực chính xác
về bản chất của cái sức mạnh gây nên biến cố lịch sử mà người ta gọi là
quyền lực.

Quay trở về tín điều ngày xưa thì không thể được, vì nó đã sụp đổ
rồi cho nên nhất thiết phải cắt nghĩa bản chất của quyền lực.
Napoléon đã ra lệnh trưng tập quân đội và xuất chinh. Cách quan niệm này
đối với ta đã quen thuộc, đến nỗi nếu có ai hỏi: tại sao sáu mươi vạn
con người lại xuất trận sau khi nghe Napoléon nói một câu gì đấy, ta sẽ
thấy đó là một câu hỏi vô nghĩa. Ông ta có quyền lực, cho nên những mệnh
lệnh của ông ta đã được thi hành.
Câu trả lời này sẽ hoàn toàn thoả đáng nếu ta tin rằng quyền lực của ông
ta là do thần linh ban cho. Nhưng một khi ta đã không thừa nhận điều đó
thì không thể không xác định xem bản chất của quyền lực của một con
người đối với những người khác là gì.

Quyền lực này không thể là quyền lực trực tiếp do tính ưu việt về
thể lực của một người mạnh đối với một người yếu, tức là tính ưu việt
căn cứ vào việc sử dụng thể lực hay đe doạ sử dụng thể lực, như quyền
lực của Heraklet chằng hạn. Nó cũng không thể căn cứ trên tính ưu việt
của sức mạnh tinh thần như một vài sử gia tin tưởng một cách ngây thơ
rằng những người làm ra lịch sử có một sức mạnh tinh thần và trí tuệ phi
thường mà người ta gọi là thiên tài.

Quyền lực này cũng không thể căn cứ vào tính ưu việt của sức mạnh
đạo đức bởi vì dù chưa nóí đến những bậc anh hùng theo kiểu Napoléon, là
người mà phẩm chất đạo đức gây nên những ý kiến rất khác nhau, lịch sử
cũng đã chứng tỏ rằng những Louis, những Mettemich, là những kẻ lãnh đạo
hàng triệu người, đều không có một sức mạnh tinh thần nào đặc biệt,
trái lại phần lớn về mặt đạo đức họ còn thua kém bất cứ người nào trong
số hàng triệu con người mà họ thống trị.

Nếu nguồn gốc của quyền lực không nằm trong những phẩm chất thể
lực như trong tinh thần của con người nắm quyền lực, thì hiển nhiên là
nó nằm ở ngoài người ấy, tức là trong những mối liên hệ giữa người ấy
với đám quần chúng mà người ấy thống trị.
Khoa luật học quan niệm vấn đề quyền lực đúng như vậy, khoa học này là
cái bàn đổi tiền của lịch sử, có nhiệm vụ đổi quan niệm lịch sử về quyền
lực để lấy vàng thực.
Quyền lực là tổng số những ý muốn của quần chúng, mà do một sự
thoả thuận hiển nhiên hay mặc nhiên, được trao cho những con người được
lựa chọn trong đám quần chúng này.
Trong lĩnh vực luật học, một khoa học mà nội dung là những nhận định về
cách tổ chức nhà nước và chính quyền, nếu có thể tổ chức nó thì điều đó
rất rõ ràng. Nhưng nếu ứng dụng nó vào lịch sử thì định nghĩa này về
quyền lực còn phải được xác minh.
Khoa luật học quan niệm nhà nước và quyền lực như người cổ đại
vẫn quan niệm lửa, tức là như một vật tồn tại tuyệt đối. Đối với lịch sử
thì trái lại, nhà nước và quyền lực chỉ là những hiện tượng, cũng như
đối với vật lý học của thời đại chúng ta thì lửa không phải là một thực
thể mà chỉ là một hiện tượng.
Chính sự khác nhau cơ bản về quan niệm này giữa khoa học lịch sử
và luật học đã cho phép khoa luật học tha hồ bàn bạc về cách tổ chức
quyền lực và bản chất của quyền lực được quan niệm như một cái gì tồn
tại một cách im lìm bất động ở bên ngoài thời gian, nhưng đối với những
vấn đề lịch sử đề cập đến ý nghĩa của một quyền lực thay đổi theo thời
gian, thì nó không thể đưa ra một lời giải đáp nào.
Khái niệm này là công cụ duy nhất cho phép ta làm chủ được tài liệu lịch
sử trong trạng thái hiện tại của nó, và người nào làm gãy mất công cụ
này như Buckle đã làm mà không tìm ra một phương pháp khác để xử lý tài
liệu lịch sử thì chỉ làm cho mình mất cái khả năng cuối cùng để xử lý
nó. Muốn giải thích các hiện tượng lịch sử, thế nào rồi cũng phải dùng
đến khái niệm quyền lực. Chính các nhà thông sử và các nhà văn hoá sử đã
chứng minh điều đó một cách hùng hồn nhất: họ làm như thể họ gạt bỏ
được khái niệm quyền lực, nhưng thật ra cứ mỗi bước họ lại buộc lòng
phải sử dụng đến nó.
Cho đến nay, đối với những vấn đề của nhân loại, khoa học lịch sử
cũng giống như một thứ tiền tệ được lưu hành, nó cũng giống như giấy
bạc và tiền kim loại. Những quyển sử viết về một cá nhân hay về một dân
tộc cũng giống như những tờ giấy bạc. Nó có thể lưu hành, hoàn thành
nhiệm vụ của nó mà không làm tổn hại đến ai, thậm chí còn có ích nữa,
trong khi người ta chưa nêu lên vấn đề cái gì bảo đảm cho nó. Chỉ cần
gạt bỏ vấn đề làm sao ý muốn của các vị anh hùng lại có thể sinh ra các
biến cố, là những quyển sử của những tác giả của Chie sẽ trở thành thú
vị. Nhưng khi số giấy bạc tăng lên quá nhiều vì người ta in giấy bạc một
cách quá dễ dàng hay khi người ta muốn đem giấy bạc đổi lấy vàng, thì
bắt đầu có sự hoài nghi về giá trị thực của tờ giấy bạc. Đối với sử học
cũng vậy: người ta cũng hoài nghi ý nghĩa chân chính của những quyển sử
học ấy hoặc vì nó được in ra quá nhiều, hoặc vì có một ông bạn thật thà
nào đó nêu ra câu hỏi: sức mạnh nào đã cho phép Napoléon làm được việc
này việc nọ, tức là có người muốn đổi giấy bạc lấy vàng ròng của một
khái niệm chính xác.
Các nhà thông sử và các nhà văn hoá sử giống như những người thừa nhận
khuyết điểm của giấy bạc rồi quyết định đúc tiền bằng một thứ kim khí có
tỉ trọng của vàng. Và thứ tiền này quả thực là tiền mặt nhưng chỉ có
cái bề mặt mà thôi. Bạc giấy còn có thể lừa những người không biết, thứ
tiền mặt mà không có giá trị gì thì lại không thể lừa dối được ai. Cũng
như vàng chỉ có thể là vàng khi người ta có thể dùng nó không những để
trao đổi mà còn để đánh tư trang, các tác giả thông sử cũng chỉ có thể
là vàng thực sự khi họ có thể trả lời câu hỏi chủ yếu của lịch sử: quyền
lực là cái gì? Tác giả thông sử đưa ra những câu trả lời mâu thuẫn để
đáp lại câu hỏi này.

Trái lại các sử gia về văn hoá gạt hẳn vấn đề ra một bên và trả
lời một cái gì khác hẳn. Và cũng những thứ tiền tệ giống vàng chỉ có thể
được dùng giữa những người cho nó là vàng và những người không biết
những đặc tính của vàng, các tác giả thông sử và các sử gia văn hoá
trong khi không trả lời những vấn đề chủ yếu của nhân loại để phục vụ
những mục đích riêng nào đấy của họ đã đem những thứ tiền tệ như vậy ra
dùng cho các trường đại học và cho đám đông độc giả mà họ gọi là những
người ham chuộng loại sách "nghiêm túc".

Chú thích:
(1) Đối với nông dân Nga thời ấy, khái niệm "người Đức" (Nemetx) có thể
bao gồm đủ các thứ người ngoại quốc (nghĩa đầu tiên của chữ nemetx là -
người câm - tức là người không biết nói tiếng Nga) phần đông là người
phương Tay, nơi sản sinh ra các thứ máy móc mới lạ
hết: Chương - 3 -, xem tiếp: Chương - 4 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 EmptyWed Jan 05, 2011 10:29 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XVII

Chương - 4 -


Sau khi đã từ bỏ quan niệm trước kia cho rằng thần linh bắt ý muốn
của một dân tộc phải phục tùng một con người duy nhất đã được lựa chọn,
và ý muốn ấy phải phục tùng thần linh, lịch sử không thể tiến lên một
bước nào mà không gặp mâu thuẫn nếu nó không chọn một trong hai cách sau
đây: hoặc là quay trở lại tín điều ngày xưa về sự can thiệp trực tiếp
của thần linh vào công việc của loài người, hoặc là đưa ra một cách giải
thích chính xác về bản chất của cái sức mạnh gây nên các biến cố lịch
sử mà người ta gọi là quyền lực.
Khoa luật học quan niệm vấn đề quyền lực đúng như vậy, khoa học này là
cái bàn đổi tiền của lịch sử, có nhiệm vụ đổi quan niệm lịch sử về quyền
lực để lấy vàng thực.
Quyền lực là tổng số những ý muốn của quần chúng, mà do một sự
thoả thuận hiển nhiên hay mặc nhiên, được trao cho những con người được
lựa chọn trong đám quần chúng này.
Trong lĩnh vực luật học, một khoa học mà nội dung là những nhận định về
cách tổ chức nhà nước và chính quyền, nếu có thể tổ chức nó thì điều đó
rất rõ ràng. Nhưng nếu ứng dụng nó vào lịch sử thì định nghĩa này về
quyền lực còn phải được xác minh.
Khoa luật học quan niệm nhà nước và quyền lực như người cổ đại vẫn
quan niệm lửa, tức là như một vật tồn tại tuyệt đối. Đối với lịch sử
thì trái lại, nhà nước và quyền lực chỉ là những hiện tượng, cũng như
đối với vật lý học của thời đại chúng ta thì lửa không phải là một thực
thể mà chỉ là một hiện tượng.

Chính sự khác nhau cơ bản về quan niệm này giữa khoa học lịch sử và
luật học đã cho phép khoa luật học tha hồ bàn bạc về cách tổ chức quyền
lực và bản chất của quyền lực được quan niệm như một cái gì tồn tại một
cách im lìm bất động ở bên ngoài thời gian, nhưng đối với những vấn đề
lịch sử đề cập đến ý nghĩa của một quyền lực thay đổi theo thời gian,
thì nó không thể đưa ra một lời giải đáp nào.
Nếu quyền lực là tổng số những ý muốn quần chúng trao cho người lãnh
đạo, thì phải chăng Pugatsov là người đại biểu cho ý muốn của quần
chúng? Nếu không phải thì tại sao Napoléon lại là một người đại biểu?
Tại sao Napoléon III(1) khi bị bắt ở Bolonhơ lại là một tên tội phạm, và
tại sao sau đó tội phạm lại chính là những người mà ông ta bắt được?

Trong những cuộc đảo chính ở cung đình, đôi khi chỉ do hai hay ba
người làm, phải chăng đó cũng là ý muốn của nhân dân trao cho con người
mới được chọn? Trong những quan hệ quốc tế phải chăng ý muốn của bao
nhiêu dân tộc được trao cho kẻ chinh phục họ? Phải chăng năm 1808 ý muốn
của Liên minh sông Ranh được trao cho Napoléon? Phải chăng ý muốn của
quần chúng nhân dân Nga năm 1809 được trao cho Napoléon khi quân đội Nga
liên minh với quân đội Pháp để đánh quân Áo?
Có thể trả lời những câu hỏi này bằng ba cách khác nhau:
1. Hoặc thừa nhận rằng ý muốn của quần chúng bao giờ cũng được giao
phó một cách vô điều kiện cho một hay những người cầm quyền mà nó đã
chọn, và do đó, mọi sự xuất hiện của một quyền lực mới, mọi cuộc đấu
tranh chống lại quyền lực này một khi nó đã được giao phó đều phải xem
là một hành động vi phạm quyền lực chân chính.
2. Hoặc thừa nhận rằng ý muốn của quần chúng được trao cho những
người cầm quyền với những điều kiện nhất định và rõ ràng, trong trường
hợp ấy mọi hành động phá hoại cái quyền lực đã được thiết lập sở dĩ thực
hiện được đều do ở chỗ những người cầm quyền không tuân theo những điều
kiện kèm theo việc trao quyền lực cho họ.
3. Hoặc thừa nhận rằng ý muốn của quần chúng được trao cho những
người cầm quyền một cách có điều kiện, nhưng đó là những điều kiện mơ
hồ, không ai biết rõ và sự xuất hiện của những quyền lực khác những cuộc
tranh giành và sự sụp đổ của nó chẳng qua là do mức độ những người cầm
quyền đã thực hiện đúng hay sai những điều kiện mơ hồ đó mà ý muốn của
quần chúng chuyển từ một người này sang người khác.
Các sở gia cắt nghĩa quan hệ quần chúng với những người cầm quyền bằng ba cách như vậy.
Chỉ có những sử gia vì quá thật thà mà không hiểu vấn đề quyền lực,
chỉ có những sử gia chuyên sử và những tác giả viết tiểu sở cá nhân nói
trên mới dường như thừa nhạn rằng tổng số ý muốn của quần chúng được
trao cho các nhân vật lịch sử một cách vô điều kiện, vì vậy trong khi
miêu tả một quyền lực nào đó thì các sử gia này giả thiết rằng quyền lực
này là quyền lực duy nhất tuyệt đối và chính đáng, và bất cứ lực lượng
nào khác chống lại cái quyền lực chân chính này đều không phải là quyền
lực mà là một hành động vi phạm quyền lực, một hành vi bại ngược.
Lý thuyết của họ thích hợp với những thời kỳ nguyên thuỷ và hoà
bình của lịch sử, nhưng đem áp dụng vào những thời kỳ phức tạp và bão
táp của đời sống các dân tộc, khi trong cùng một lúc có nhiều quyền lực
khác nhau xuất hiện và đấu tranh với nhau, thì nó lại có điều bất tiện
là một sử gia thuộc phái chính thống sẽ chứng minh rằng Quốc dân hội
nghị, uỷ ban Đốc chính và Bonaparte đều chỉ là những kẻ phá hoại quyền
lực, trái lại một người theo phái Cộng Hoà và một người theo phái
Bonaparte sẽ chứng minh khác, người thứ nhất nói rằng Quốc dân hội nghị,
người thứ hai nói rằng Đế chế là những quyền lực chân chính, và tất cả
những thứ khác đều là những hành động vi phạm quyền lực.
Hiển nhiên là trong khi bác bỏ lẫn nhau như vậy, những cách giải
thích về quyền lực mà các sử gia này đưa ra chỉ có thể làm thoả mãn
những đứa trẻ rất ít tuổi.
Thừa nhận tính chất sai lầm của cách quan niệm lịch sử như vậy một
loại sở gia nói rằng quyền lực căn cứ vào việc trao có điều kiện cho
những người cầm quyền toàn bộ những ý muốn của quần chúng và các nhân
vật lịch sử chỉ nắm quyền lực với điều kiện họ thực hiện cái chương
trình mà ý muốn của quần chúng đã định cho họ bằng một sự thoả thuận
thầm lặng. Nhưng những điều kiện này là gì thì các sử gia này không nói
cho chúng ta biết, hay có nói chăng nữa thì cũng luôn luôn mâu thuân với
nhau.
Mỗi sử gia, tuỳ theo quan niệm của mình về mục đích vận động của mốt dân
tộc, sẽ tìm thấy những điều kiện này trong sự vĩ đại, sự giàu có, nên
tự do, trình độ học vấn của quốc dân nước Pháp hay một nước nào khác.
Nhưng dù không kể đến những mâu thuân giữa các sử gia về những điều kiện
này, thậm chí dù có giả định rằng tất cả các nhà sử học đều có một
cương lĩnh chung về những điều kiện ấy ta cũng sẽ nhận thấy rằng các sự
kiện lịch sử hầu như bao giờ cũng mâu thuẫn với lý thuyết này. Nếu những
điều kiện của việc trao chính quyền là ở sự giàu có, ở quyền tự do,
trình độ học vấn của quốc dân, thì tại sao những Louis XIV và những Ivan
IV lại trị vì một cách êm thấm suốt triều đại của mình, trái lại những
Louis XVI và những Charles I lại bị nhân dân chặt đầu? Để trả lời câu
hỏi này, các sử gia nói rằng những hành động của Louis XIV, trái với
cương lĩnh ảnh hưởng đến Louis XV? Tại sao nó lại đợi đến Louis XVI mới
có ảnh hưởng? Ảnh hưởng này phải đợi một thời gian bao lâu mới có tác
đụng? Những câu hỏi này không có và không thể có cách nào giải đáp. Cũng
vậy, theo lý thuyết này người này không cắt nghĩa được vì lý do gì toàn
bộ những ý muốn trong mấy thế kỷ vẫn nằm trong tay những người cầm
quyền và những kẻ kế tục họ, thế rồi sau đó, đùng một cái, trong vòng
năm mươi năm nó lại lần lượt được trao cho Quốc dân hội nghị, Đốc chính,
Napoléon, Alekxandr, Louis XVIII, rồi lại Napoléon, Sáclơ X(3), Louis
Philip, chính phủ cộng hoà năm 1848, Napoléon III?
Muốn cắt nghĩa những sự chuyển di nhanh chóng quyền lực từ một
người này sang một người khác, nhất là ở giữa những quan hệ quốc tế phức
tạp, những cuộc chinh phục và những khối liên minh, ngay các sử gia này
cũng phải thừa nhận, trái với ý muốn của họ, rằng một bộ phận những
biến cố này không phải là do sự giao phó ý muốn của quần chúng một cách
quy luật, mà là những việc ngẫu nhiên, lệ thuộc vào một mưu mô, hay một
sai lầm, hay sự xảo quyệt, hay tính nhu nhược của một nhà ngoại giao của
một ông vua hay một lãnh tụ chính đáng. Thành thử phần lớn những biến
cố lịch sử, những cuộc nội chiến, những cuộc cách mạng, những cuộc chinh
phục đối với các sử gia này không còn là sản phẩm của sự giao phó những
ý muốn tự do, mà là sản phẩm của ý muốn sai lầm của một người hay của
nhiều người, tức cũng lại là những hành động vi phạm quyền lực.
Và do đó, ngay các sử gia thuộc loại này cũng trình bày các biến cố lịch sử như những hiện tượng trái với lý thuyết.
Các sử gia này cũng giống như một nhà thực vật học sau khi nhận thấy
rằng có một số cây sinh ra từ những hạt giống có hai lá mầm, liền khẳng
định rằng tất cả các thực vật đều mọc từ hai chiếc lá mầm, và do đó, cây
cọ, cây nấm và ngay cả cây sồi khi đã phát triển đầy đủ không có hai lá
mầm nữa đều là những hiện tượng trái quy luật.
Các sở gia thuộc loại thứ ba thừa nhận rằng ý muốn của quần chúng được
trao một, cách có điều kiện cho một nhân vật lịch sử, nhưng ta không
biết được những điều này. Họ nói rằng các nhân vật lịch sử có quyền lực
chỉ vì họ thực hiện ý muốn mà quần chúng đã giao phó cho họ.
Nhưng nếu sức mạnh làm các dân tộc vận động không phải nằm trong
các nhân vật lịch sử, mà nằm trong bản thân các dân tộc, thì ý nghĩa của
các nhân vật lịch sử này là ở chỗ nào?
Các nhân vật lịch sử, theo các sử gia này, biểu hiện ý muốn của quần
chúng, hoạt động của các nhân vật lịch sử đại diện cho hoạt động của
quần chúng.
Nhưng nếu thế thì có một vấn đề đặt ra, là phải chăng toàn bộ hoạt
động của các nhân vật lịch sử đều thể hiện ý muốn của quần chúng hay chỉ
một mặt nào đó trong hoạt động của họ mà thôi?
Nếu toàn bộ hoạt động của các nhân vật lịch sử đều thể hiện ý muốn của
quần chúng, như một vài người quan niệm, thì các sách tiểu sử của những
Napoléon, những Ekaterina với tất cả những chi tiết của nó về những
chuyện ngồi lê đôi mách trong cung đình, cũng đều biểu hiện sinh hoạt
của các dân tộc, và điều đó hiển nhiên là vô lý Trái lại, nếu chỉ có một
mặt hoạt động của nhân vật lịch sử thể hiện đời sống của các dân tộc,
như một vài sử gia khác mang danh là những sử gia triết học quan niệm
thì muốn xác định xem mặt nào trong hoạt động của họ thể hiện đời sống
của dân tộc, trước hết ta phải biết đời sống của dân tộc là cái gì đã.
Đứng trước khó khăn này, các sử gia thuộc loại thứ ba đã nghĩ ra
một khái niệm trừu tượng mơ hồ nhất, khó nắm nhất và khái quát nhất, có
thể bao quát một số lượng sự kiện lớn nhất, và nói rằng khái niệm trừu
tượng này chính là mục đích của sự vận động của nhân loại. Những khái
niệm trừu tượng thông thường nhất là khái quát nhất được hầu hết các sử
gia chấp nhận là: tự do, bình đẳng., tiến hoá, văn minh, văn hoá, giáo
dục. Sau khi đã cho mục đích cuộc vận động của nhân loại là một khái
niệm trừu tượng nào đó trong số những khái niệm trừu tượng này, các sử
gia nghiên cứu những nhân vật đã để lại nhiều kỷ niệm nhất, vua chúa, bộ
trưởng, tướng tá, các tác gia, các nhà cải cách, các giáo hoàng, các
nhà báo, nhưng chỉ trong chừng mực mà theo y học các nhân vật này đã góp
phần ủng hộ khái niệm trừu tượng này hay chống lại nó. Nhưng vì không
có gì chứng minh rằng mục đích của nhân loại là tự do, bình đẳng, giáo
dục hay văn minh, và vì mối liên hệ giữa quần chúng với những người cầm
quyền và những nhà cải cách của nhân loại chỉ căn cứ vào một giả thiết
độc đoán cho rằng toàn bộ những ý muốn của quần chúng bao giờ cũng trao
cho những nhân vật được chúng ta chú ý nhất, cho nên hoạt động của hàng
triệu con người đã di chuyển, đốt nhà, bỏ việc đồng áng, chém giết lẫn
nhau, quyết không bao giờ có thể thấy được thể hiện trong những sách vở
miêu tả hoạt động của một chục nhân vật là những kẻ không đốt nhà, không
cày cấy, không chém giết lẫn nhau.
Mỗi một trang sử đều chứng minh điều đó. Cuộc vận động của các dân
tộc ở phương Tây vào cuối thế kỷ vừa qua và việc họ muốn tiến về phương
Đông phải chăng có thể cắt nghĩa bằng hoạt động của Louis XIV, của
Louis XV, của Louis XVI, của những cô tình nhân, của những ông bộ trưởng
của họ, bằng thân thể của Napoléon của Russeau, của Didro, của Bomarse
và của những nước khác?
Cuộc vận động của dân tộc Nga về phía Đông, về phía Kazan và Sibiri
phải chăng có thể cắt nghĩa bằng những chi tiết trong cái tính cách
bệnh tật của Ivan IV và bằng những thư từ ông ta trao đổi với Kurxki?
Cuộc vận động của các dân tộc trong thời kỳ Thập tự chinh phải
chăng có thể cắt nghĩa bằng lịch sử của thân thế của những Godfrue(3)
của những Saint-Louis và các công nương của họ? Đối với chúng cuộc vận
động này của các dân tộc từ phương Tây sang phương Đông, không mục đích,
không có người cầm đầu, với một đoàn người lang thang, với Piere ẩn
sĩ(2), vẫn là một điều kiện không thể hiểu được. Và có một điều còn khó
hiểu hơn nữa là cuộc vận động này dừng lại khi những người lãnh đạo của
nó đã đưa ra cho Thập tự quân một mục đích hợp lý và thiêng liêng là
giải phóng Jerusalem. Các giáo hoàng, các vị vua và các hiệp sĩ cổ vũ
nhân dân giải phóng đất Thánh, nhưng nhân dân không đi bởi vì cái nguyên
nhân bí ẩn trước đây đã khiến cho họ đi giờ không còn nữa.
Lịch sử của những Godfrue và những người hát rong dĩ nhiên không
thể nào bao quát được đời sống các dân tộc. Và trái lại, lịch sử của đời
sống và các dân tộc và của những yếu tố thúc đẩy họ vẫn là một điều
chưa được biết đến.
Lịch sử các nhà văn và các nhà cải cách lại còn ít cắt nghĩa được đời sống của các dân tộc hơn nữa.
Văn hoá sử cắt nghĩa cho chúng ta những động cơ, những điều kiện
sinh hoạt và những ý nghĩ của một nhà văn hoá hay một nhà cải cách.
Chúng ta biết rằng Luyte là người hay nổi nóng, và đã nói một số câu nào
đấy, chúng ta biết rằng Russeau có tính đa nghi và đã viết những quyển
sách nào đấy, nhưng chúng ta vẫn không biết tại sao, sau cuộc cải cách
tôn giáo các dân tộc lại giết nhau và tại sao trong cuộc Cách mạng Pháp
người ta lại xử tử nhau như vậy.
Chú thích:
(1) Napoléon III (1808-1873) cháu gọi Napoléon I bằng chú. Làm chủ tịch
nước Pháp cộng hoà sau khi cách mạng 1848 thất bại. Bị phế truất sau khi
Pháp bị Phổ đánh bại năm 1870.
(2) Louis XIV vua Pháp cai trị từ 1643 đến 1715, Ivan IV vua Nga từ 1533
đến 1584. Louis XIV vua Pháp từ 1774 bị cách mạng Pháp xử tử năm 1793.
Charles I vua Anh từ 1600 đến 1649 bị cách mạng xử tử năm 1649
(3) Godfue, người lãnh đạo cuộc Thập tự chinh thứ nhất
(4) Piere ẩn sĩ - tu sĩ Pháp cổ động cho cuộc Thập tự chinh thứ nhất.
hết: Chương - 4 -, xem tiếp: Chương - 5 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 EmptyWed Jan 05, 2011 10:30 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XVII

Chương - 5 -


Đời sống của các dân tộc không nằm gọn trong đời sống của một vài
người, bởi vì người ta vẫn chưa tìm ra được mối hên hệ giữa số người
này với các dân tộc. Lý thuyết cho rằng mối liên hệ năy căn cứ vào sự
trao đổi gửi toàn bộ ý muốn của quần chúng vào một nhân vật nhất định
chỉ là một giả thiết không được kinh nghiệm lịch sử xác nhận.
Lý thuyết này có lẽ cắt nghĩa được nhiều việc thuộc lĩnh vực luật học
và, có lẽ nó cần thiết đối với những mục đích của ngành khoa học này,
nhưng nếu đem ứng dụng vào lịch sử thì ta thấy rằng hễ xảy ra những cuộc
cách mạng, những cuộc chinh phục, những cuộc nội chiến, hễ lịch sử bắt
đầu, là lý thuyết này không cắt nghĩa được gì nữa.

Lý thuyết này có vẻ không thể bác được chính vì hành động trao gởi ý
muốn của quần chúng là một hành động không thể kiểm nghiệm được.
Dù cho biến cố xảy ra là biến cố gì, dù người lãnh đạo biến cố lãnh
đạo là ai, thì lý thuyết kia bao giờ cũng có thể nói rằng con người
lãnh đạo biến cố này chính vì toàn bộ ý muốn đã được trao là biểu hiện
của thời đại của họ.
Lý thuyết trao gửi ý muốn của quần chúng vào những nhân vật lịch sử
chỉ là một lối giải thích quanh co, chỉ là một cách nêu lại vấn đề bằng
những danh từ khác mà thôi.
Nguyên nhân của các biến cố lịch sử là cái gì? - Là quyền lực.
Quyền lực là cái gì? - Là tổng số những ý muốn trao gửi cho một
nhân vật duy nhất. Ý muốn của quần chúng được trao cho một nhân vật duy
nhất với những điều kiện nào? - Với điều kiện con người này biểu hiện ý
muốn của toàn thể, nghĩa ỉà biểu hiện loại.
Nói khác đi, quyền lực là một danh từ mà chúng ta không thể hiểu ý nghĩa được.
Nếu lĩnh vực của tri thức loài người chỉ là giới hạn trong tư duy
trừu tượng mà thôi, thì nhân loại sau khi phê phán cách giải thích về
quyền lực mà khoa học đưa ra, sẽ đi đến kết luận rằng quyền lực chẳng
qua là một danh từ suông, chứ trong thực tế không tồn tại.
Nhưng để nhận thức các hiện tượng ngoài tư duy trừu tượng, con người còn
có một công cụ khác là kinh nghiệm, mà nó dùng để kiểm tra những kết
quả của tư duy. Và kinh nghiệm nói rằng quyền lực không phải là một danh
từ suông mà là một hiện tượng tồn tại thực sự.
Chưa kể là không có sự miêu tả nào về hoạt động tập thể của con
người lại có thể không dùng đến khái niệm quyền lực, sự tồn tại của
quyền lực đã được lịch sử cũng như việc quan sát các biến cố hiện đại
chứng minh.
Mỗi khi diễn ra một biến cố, bao giờ cũng thấy một người hay nhiều
người xuất hiện và biến cố ấy có vẻ như diễn ra theo ý muốn của họ.
Napoléon II ra lệnh, thế là người Pháp đi Mexico. Vua nước Phổ và Bismac
ra lệnh, thế là quân đội của ông ta tiến vào nước Nga. Alekxandr ra
lệnh, thế là người Pháp phục tùng dòng họ Bourbon. Kinh nghiệm cho ta
thấy rằng bất kỳ một biến cố như thế nào diễn ra, bao giờ nó cũng gắn
liền với ý muốn của một hay những người đã ra lệnh thực hiện nó.
Theo thói quen cũ tin rằng có sự can thiệp của thần linh vào công
việc của loài người, các sử gia muốn tìm nguyên nhân của một biến cố ở ý
muốn của một nhân vật nắm quyền lực, những quan niệm này không được lý
luận cũng như kinh nghiệm xác nhận.
Một mặt thì sự suy luận cho thấy rằng sự biểu hiện ý chí của một
người, tức là những lời nói của người ấy - chỉ là một bộ phận của hoạt
động chung được biểu hiện trong một biến cố, chẳng hạn trong một cuộc
chiến tranh hay một cuộc cách mạng.
Do đó, nếu không thừa nhận sự tồn tại của một sức mạnh không thể
hiểu được, siêu tự nhiên, tức là sự iồn tại của phép thần thông, thì
người ta không hể thừa nhận rằng lời nói có thể là nguyên nhân trực tiếp
của sự vận động của hàng triệu con người. Một mặt khác, dù có thừa nhận
rằng lời nói có thể là nguyên nhân của một biến cố thì lịch sử cũng cho
thấy ràng sự biểu hiện ý chí của những nhân vật lịch sử trong nhiều
trường hợp không gây nên một tác dụng gì, nghĩa là không những mệnh lệnh
của họ không được thực hiện mà nhiều khi sự việc xảy ra còn trái hẳn
với mệnh lệnh của họ.
Nếu không thừa nhận sự can thiệp của thần linh và các công việc của
nhân loại thì ta không thể nào xem quyền lực là nguyên nhân của các
biến cố.

Quyền lực, xét về mặt kinh nghiệm, chỉ là mối lệ thuộc giữa sự biểu
hiện ý muốn của một nhân vật và việc những con người khác thi hành ý
muốn ấy.

Để cắt nghĩa những điều kiện của mối lệ thuộc này, trước hết ta
phải phục hồi khái niệm biểu hiện ý muốn bằng cách ứng dụng nó cho con
người chứ không phải cho thần linh.

Nếu thần linh ra lệnh biểu hiện ý muốn của mình, như lịch sử cổ
đại thường cho thấy, thì sự biểu hiện ý muốn này không lệ thuộc vào thời
gian, cũng không do một cái gì gây ra cả, bởi vì thần linh không có
liên hệ gì với biến cố. Nhưng khi nói đến những mệnh lệnh tức là những
sự biểu hiện ý muốn của những con người hoạt động trong thời gian và bị
ràng buộc với nhau, thì muốn cắt nghĩa mối liên hệ giữa các mệnh lệnh
với các biến cố, ta cần phải phục hồi:

1. Điều kiện của tất cả những việc đã xảy ra, tức là sự vận động
liên tục trong thời gian của những biến cố cũng như của con người đã ra
lệnh và
2. Điều kiện của mối liên hệ tất yếu giữa người ra lệnh và những kẻ thi hành mệnh lệnh của người ấy.
hết: Chương - 5 -, xem tiếp: Chương - 6 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 EmptyWed Jan 05, 2011 10:30 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XVII

Chương - 6 -


Chỉ có ý muốn của một vị thần linh không lệ thuộc vào thời gian mới
có thể ảnh hưởng đến cả một loạt biến cố xảy ra trong vòng vài năm hay
vài thế kỷ, chỉ có thần linh mới có thể dùng ý, nghĩa muốn của riêng
mình để quy định phương hướng vận động của nhân loại mà không bị cái gì
hạn chế. Trái lại, con người hoạt động trong thời gian và bản thân nó
tham dự vào các biến cố.
Trong khi khôi phục lại điều kiện thứ nhất bị bỏ qua, tức là điều
kiện thời gian, ta sẽ thấy rằng không có một mệnh lệnh nào có thể được
thực hiện nếu không có một lệnh lệnh đi trước khiến cho nó có thể thực
hiện được.

Không bao giờ một mệnh lệnh nào xuất hiện một cách tự phát và chứa
đựng cả một loạt biến cố mà mệnh lệnh nào cũng xuất phát từ một mệnh
lệnh khác, và không bao giờ liên quan đến cả một loạt biến cố mà chỉ
liên quan đến một giây phút duy nhất của biến cố.
Chẳng hạn ta nói Napoléon ra lệnh cho quân đội xuất chinh, tức là
ta đã quy lại trong một lệnh duy nhất được ban bố trong một giây phút
nhất định, cả một loạt mệnh lệnh kế tiếp nhau và lệ thuộc vào nhau.
Napoléon không thể ra mệnh lệnh xuất chinh sang Nga và không bao giờ ra
mệnh lệnh ấy. Hôm nay ông ta ra mệnh lệnh gửi những công văn nào đó đến
Viên, đến Bá linh, đến Petersburg, hôm sau ông ta lại chuyển những sắc
lệnh và những nhật lệnh nào đó đến quân đội, đến cục quân nhu v.v… Ông
ta đã ra hàng triệu mệnh lệnh trong đó có cả một loạt mệnh lệnh tương
ứng với một loạt biến cố đã đưa quân đội Pháp đến nước Nga.
Trong suốt thời gian trị vì, Napoléon ra những mệnh lệnh về cuộc
viễn chinh sang Anh, ông ta chưa bao giờ hao phí nhiều tâm lực và thời
gian như vậy cho bất kỳ kế hoạch nào khác, tuy vậy trong suốt thời gian
trị vì, ông ta không bao giờ thực hiện kế hoạch ấy. Trái lại, ông ta đã
thực hiện cuộc viễn chinh sang Nga, mặc dầu ông ta thường phát biểu rằng
liên minh với nước Nga là có lợi. Sở dĩ như vậy là vì những mệnh lệnh
của ông về nước Anh, không phù hợp với cả một loạt biến cố, trái lại
những mệnh lệnh về nước Nga thì lại phù hợp.
Muốn cho những mệnh lệnh được chấp hành một cách chắc chắn thì nó
phải được ban ra dưới một hình thức có thể thực hiện được. Nhưng không
thể nào biết được cái gì là có thể thực hiện hay không thể thực hiện,
không những đối với cuộc viễn chinh của Napoléon chống lại nước Nga,
trong đó có hàng triệu người tham dự, mà ngay cả đối với một biến cố ít
phức tạp nhất cũng vậy bởi vì trong cả hai trường hợp này việc thực hiện
bao giờ cũng có thể gặp hàng triệu trở ngại. Bên cạnh một mệnh lệnh
được thực hiện bao giờ cũng có một số lớn mệnh lệnh không được thực
hiện. Tất cả những mệnh lệnh không thể thực hiện đều không liên quan đến
biến cố và không được chấp hành. Chỉ có những mệnh lệnh có thể thực
hiện mới gắn liền với nhau làm thành một loạt mệnh lệnh nhất trí với
nhau, tương ứng với các biến cố, và được chấp hành.
Sở dĩ ta có quan niệm sai lầm cho rằng mệnh lệnh đi trước biến cố
và là nguyên nhân khiến cho biến cố xảy ra là vì khi biến cố xảy ra và
trong số hàng nghìn mệnh lệnh được ban ra, chỉ có những mệnh lệnh liên
quan không được chấp hành bởi vì không thể nào chấp hành được. Ngoài ra,
nguyên nhân chính khiến chúng ta sai lầm về mặt này là trong cách trình
bày của sử học, cả một loạt gồm vô số những biến cố khác nhau hết sức
nhỏ nhặt, chẳng hạn tất cả những biến cố đã đưa quân đội Pháp đến nước
Nga, đều bị khái quát hoá thành một biến cố duy nhất dựa vào kết quả của
những biến cố kia và cứ theo lời khái quát hoá ấy người ta quy cả một
loạt mệnh lệnh thành một sự biểu hiện ý muốn duy nhất.
Chúng ta nói: Napoléon muốn và được thực hiện cuộc viễn chinh sang
Nga. Nhưng thật ra, trong toàn bộ hoạt động của Napoléon, ta sẽ không
tìm thấy có cái gì giống như sự biểu hiện của ý muốn ấy, trái lại ta sẽ
thấy những loạt mệnh lệnh hay những loạt biểu hiện ý muốn của ông ta, có
những phương hướng hết sức đa dạng, hết sức mơ hồ. Trong vô số những
mệnh lệnh của Napoléon có một loạt mệnh lệnh nhất định đã được chấp
hành, nhằm tiến hành cuộc viễn chinh năm 1812, không phải vì những mệnh
lệnh này có gì khác những mệnh lệnh không được chấp hành, mà chỉ vì loạt
mệnh lệnh này đã phù hợp với một loạt biến cố đã đưa quân đội Pháp sang
Nga. Điều đó cũng giống như khi dùng một cái khuôn dùng để vẽ hình,
người ta có được hình này hay hình khác không phải vì người ta đã bôi
màu ở một chỗ nào đó, theo một cách thức nào đó, mà w người ta đã lấy
màu bôi lên khắp khuôn.
Do đó, khi ta quan sát quan hệ giữa các mệnh lệnh với các sự kiện ở
trong thời gian, ta sẽ nhận thấy rằng một mệnh lệnh không bao giờ có
thể là nguyên nhân của một biến cố, nhưng ở giữa hai cái đó có một mối
liên hệ lệ thuộc nhất định.
Để hiểu rõ mối quan hệ này là cái gì, cần phải khôi phục một điều
kiện khác, đã bị bỏ qua. Khi nói đến bất kỳ mệnh lệnh gì không phải do
thần linh mà chính do con người ban bố, đó là việc bản thân con người ra
mệnh lệnh cũng tham gia vào biến cố.
Chính mối quan hệ giữa người ra mệnh lệnh và những người chấp hành
mệnh lệnh là cái mà người ta gọi là quyền lực. Nội dung của mối quan hệ
ấy như sau:
Để cùng hoạt động, con người bao giờ cũng tập hợp lại thành những
tập thể nhất định, trong mỗi tập thể tuỳ mỗi con người có một mục đích
khác nhau nhưng quan hệ giữa người tham gia hành động bao giờ cũng giống
nhau.
Trong khi tập hợp lại như vậy, giữa những con người ấy bao giờ cũng
có mối quan hệ khiến đại đa số tham gia một cách trực tiếp nhất còn
thiểu số tham gia một cách ít trực tiếp nhất và hành động chung đã khiến
họ phải tập hợp.
Trong tất cả các tập thể mà con người lập nên để thực hiện những
hành động chung, một tập thể rõ nét nhất và minh xác nhất là quân đội.
Quân đội nào cũng gồm những thành phần thấp nhất về quân hàm, đó là
binh sĩ, họ bao giờ cũng là tối đại đa số, rồi đến người trên họ một
bậc là các hạ sĩ, các trung sĩ, với số lượng ít hơn, rồi đến những cấp
cao hơn, với một số lượng còn ít hơn nữa, và cứ như thế cho đến quyền
chỉ huy tốl cao tập trung vào một nhân vật duy nhất.
Tổ chức quân sự có thể biểu trưng một cách hoàn toàn chính xác bằng một
hình nón mà đáy là binh sĩ, những tiết diện ở trên đáy là những cấp bậc
của quân đội theo thứ tự từ thấp đến cao và cứ thế cho đến đỉnh chóp của
hình nón là vị tổng chỉ huy.
Binh sĩ, vốn chiếm tối đại đa số, là những điểm thấp của hình nón và
cơ sở của nó. Binh sĩ trực tiếp đâm, chém, đốt nhà, cướp của và bao giờ
họ cũng nhận được lệnh làm những việc ấy do những cấp trên ban ra, chứ
họ không bao giờ ra lệnh. Các hạ sĩ quan (số các hạ sĩ quan đã ít hơn số
lính) trực tiếp hành động ít hơn binh sĩ, nhưng họ đã có ra lệnh. Sĩ
quan còn ít tham dự vào hành động trực tiếp hơn và ra lệnh nhiều hơn.
Viên tướng chỉ huy cách hành quân, chỉ định mục tiêu cho quân đội và hầu
như không bao giờ dùng đến vũ khí. Còn vị tổng tư lệnh thì không bao
giờ tham dự trực tiếp vào hành động mà chỉ đưa ra những mệnh lệnh chung
về cách vận chuyển của đại quân. Quan hệ này giữa người với người cũng
thấy có trong mọi tập đoàn lập nên nhằm thực hiện một hành động chung
trong nông nghiệp, trong thương nghiệp hay trong bất kỳ công việc gì.
Như vậy, không cần phải tăng thêm một cách giả tạo những tiết diện
ngang của hình nón, tức là tăng thêm tất cảnhững cấp bậc của quân đội
hày tất cả những chức tước và địa vị của bất kỳ cơ quan nào, hay của bất
kỳ tổ chức tập thể nào, từ dưới lên trên ta đều thấy cái quy tắc sau
đây: để thực hiện một hành động chung, con người bao giờ cũng phải ở
trong một mối quan hệ nhất định biểu hiện ở chỗ những người càng tham dự
trực tiếp vào hành động thì càng ít có thể chỉ huy và số lượng càng
lớn, trái lại những người càng ít tham dự trực tiếp vào hành động thì
càng chỉ huy nhiều hơn và số lượng nhỏ hơn. Ta cứ đi từ thấp lên cao như
vậy cho đến con người duy nhất và cuối cùng là con người tham dự ít
nhất vào biến cố và quyền ban bố mệnh lệnh nhiều hơl tất cả những người
khác.
Chính quan hệ này giữa những người chỉ huy và những người bị chỉ
huy là thực chất của cái khái niệm mà ta gọi là quyền lực.
Trong khi khôi phục lại những điều kiện thời gian trong đó các biến
cố xảy ra, ta đã nhận thấy rằng một mệnh lệnh chỉ được chấp hành khi có
liên quan đến cả một loạt biến cố tương ứng. Và trong khi khôi phục lại
điều tất yếu của mối quan hệ giữa người ra lệnh với người chấp hành, ta
thấy rằng những người ra lệnh, do chính bản chất của họ, ít tham dự vào
biến cố hơn và hoạt động của họ chỉ thuần tuý hướng vào việc ra mệnh
lệnh.
hết: Chương - 6 -, xem tiếp: Chương - 7 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 EmptyWed Jan 05, 2011 10:30 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XVII

Chương - 7 -


Khi một biến cố xảy ra người ta bày ý kiến và ước mong của mình về
biến cố này, và vì biến cố bắt nguồn từ hành động chung của nhiều người,
nên thế nào cũng có một ý kiến hay một ước mong được thực hiện, ít nhất
là một cách đại khái. Khi một ý kiến phát biểu được thực hiện, trong
trí óc ta ý kiến này gắn liền với biến cố, và được coi là mệnh lệnh đi
trước biến cố ấy.
Mấy người kéo một cây gỗ. Mỗi người phát biểu ý klến của mình về
cách kéo nó và nơi đặt nó. Công việc đã xong và người ta thấy nó được
tiến hành như một người trong bọn đã nói. Thế nghĩa là người này đã ra
lệnh: mệnh lệnh và quyền lực ở dạng nguyên thuỷ của nó là như vậy.
Kẻ làm việc bằng tay nhiều hơn thì có thể ít suy nghĩ đến việc mmh làm
hơn, ít suy tính đến kết quả của hành động chung hơn, và ít ra lệnh hơn.
Người nào chỉ huy nhiều hơn thì dĩ nhiên có thể ít vận dụng đôi tay
hơn, vì anh ta chuyên dùng ngôn ngữ. Số người tập trung để hướng hoạt
động của họ vào một mục đích duy nhất càng đông, thì càng nổi bật những
hạng người ít tham dự trực tiếp vào những hoạt động chung và hoạt động
của họ càng hướng vào việc ra mệnh lệnh.
Khi một con người hoạt động đơn độc thì bao giờ nó cũng có một số
lý do, mà nó cho là đã chỉ huy hoạt động trước đây của nó, biện hộ cho
hoạt động hiện tại của nó và hướng dẫn nó trong việc dự định những hành
động sau này. Các tập thể người cũng làm đúng như vậy, khi giao cho
những người không tham gia hành động cái nhiệm vụ nghĩ ra những nguyên
do, những lý lẽ để biện hộ và những dự định cho hành động chung của họ.
Vì những lý do mà ta biết rõ hay không biết rõ, người Pháp bắt đầu
dìm nhau chết đuối và chém giết nhau. Thế rồi biến cố kéo theo cách biện
hộ của nó: đó là sự biểu hiện ý muốn của những con người cho rằng điều
đó là quyền lợi của nước Pháp, cho tự do, và bình đẳng. Người ta thôi
giết nhau, và biến cố này kéo dài theo cách biện hộ của nó: đó là sự cần
thiết phải tập trung quyền lực, phải chống lại châu Âu v.v… Người ta đi
từ Tây sang Đông để tàn sát đồng loại, và những biến cố này kéo theo
những lý lẽ biện hộ nói về vinh quang của nước Pháp về sự hèn hạ của
nước Anh v.v… lịch sử đã cho thấy rằng những cách bào chữa cho các biến
cố như vậy không có một giá trị khách quan nào hết, nó mâu thuẫn với bản
thân cũng nhự nói rằng giết người là để bảo vệ nhân quyền, tàn sát hàng
triệu con người ở nước Nga là để làm nhục nước Anh. Nhưng những lời
biện hộ này đối với những người đường thời có một tác dụng không thể
thiếu được. Những lời biện hộ này làm cho những người đã gây ra các biến
cố khỏi chịu trách nhiệm về tinh thần.
Những mục đích tạm thời này cũng giống như cái gạt đặt ở phía trước đầu
máy tàu hoả để dọn đường sắt: nó dọn đường cho trách nhiệm tinh thần của
con người. Nếu không có những lời biện hộ này thì người ta không thể
trả lời câu hỏi đơn giản nhất được nêu ra khi xét đến bất kỳ biến cố gì:
tại sao hàng triệu con người lại có thể phạm những tội ác tập thể,
chiến tranh, tàn sát v.v?
Trong những hình thức sinh hoạt chính trị và xã hôi phức tạp ở
châu Âu có thể nào tưởng tượng một biến cố nào mà lại không được các
quốc vương, các bộ trưởng, các quốc hội, các báo chí, dự kiến, chị thị,
ra lệnh? Có thể nào có một hoạt động tập thể mà lại không tìm thấy lý dữ
biện hộ cho nó trong sự thống nhất của quốc gia, trong nhiệm vụ bảo vệ
văn minh, trong thế quân bình của châu Âu, kết quả là bất kỳ biến cố nào
đã xảy ra cũng đều phù hợp với một nguyện vọng được phát biểu, và một
khi đã được biện hộ, thì nó được xem xét như sản phẩm của ý muốn một
người hay nhiều người.
Bất kỳ chiếc tàu thuỷ đi về hướng nào bao giờ người ta cũng thấy ở
trước tàu những làn sóng bị chiếc tàu rẽ ra. Đối với những người đứng
trên tàu thì sự vận động của những làn sóng này sẽ là sự vận động duy
nhất có thể thấy được.
Chỉ khi nào quan sát gần, từng thời từng khắc; sự vận động của
những làn sóng ấy và so sánh nó với sự vận động của chiếc tàu thì ta mới
hiểu rằng sự vận động của mỗi làn sóng lúc nào cũng bị sự vận động của
chiếc tàu quy định và sở dĩ ta lầm là vì ta không thấy mình đang chuyển
động.
Ta cũng sẽ thấy như vậy nếu theo dõi từng bước sự vận động của các
nhân vật lịch sử (tức là nếu ta phục hồi lại điều kiện tất yếu của tất
cả những gì đã xảy ra: tính liên tục của sự vận động trong thời gian) mà
không bỏ qua mối liên hệ tất yếu giữa nhân vật lịch sử với quần chúng.
Khi chiếc tàu vẫn đi theo một hướng duy nhất thì ở đằng trước vẫn thấy
có một làn sóng như cũ nổi lên, khi nó đổi hướng luôn thì những làn sóng
chạy ở trước mũi cũng đổi hướng luôn. Nhưng bất kỳ nó quay vể hướng
nào, ở phía trước bao giờ cũng sẽ có một làn sóng.
Dù có việc gì xảy ra, bao giờ ta cũng thấy đó là việc đã được dự
kiến và được ra lệnh. Dù cho chiếc tàu đi về hướng nào nhưng làn sóng
tuy không chỉ huy mà cũng làm cho sự vận động của chiếc tàu nhanh hơn,
vẫn cuộn lên ở trước mũi tàu, và nếu đứng ở đằng xa mà nhìn thì sẽ tưởng
rằng không những nó có một sự vận động độc lập mà chính nó đã chỉ huy
sự vận động của chiếc tàu.
Vì chỉ nghiên cứu những biểu hiện ý muốn nào của các nhân vật lịch
sử, ta có thể coi là những mệnh lệnh đối với các biến cố, các sử gia
tưởng rằng các biến cố lệ thuộc vào những mệnh lệnh này. Nhưng nếu quan
sát bản thân của các biến cố và mối liên hệ giữa các nhân vật lịch sử
với quần chúng thì ta nhận thấy nhân vật lịch sử cũng như mệnh lệnh của
họ đều lệ thuộc vào các biến cố.
Chứng cớ hiển nhiên của kết luận này là dù có bao nhiêu mệnh lệnh
chăng nữa, biến cố vẫn không xảy ra, bất luận đó là biến cố gì - thì
trong số những ý muốn không ngừng được các nhân vật phát biểu ra thế nào
cũng sẽ có những ý muốn mà cứ xét ý nghĩa và thời gian thì có thể coi
là những mệnh lệnh đối với biến cố này.
Khi đã đi đến kết luận này, ta có thể đưa ra một câu trả lời rõ ràng và chắc chắn về hai vấn đề chủ yếu của lịch sử:
1. Quyền lực là gì?
2. Sức mạnh gì gây nên sự vận động của các dân tộc?
1. Quyền lực là mối quan hệ của một nhân vật nhất định với những
nhân vật khác dưới những hình thức dưới đây: một nhân vật càng ít tham
dự vào hành động thì càng phát biểu nhiều ý kiến, nhiều giả định và
nhiều cách biện hộ chung cho hành động đang tiến hành.
2. Sự vận động của các dân tộc không phải là sản phẩm của quyền lực
cũng như của hoạt động trí tuệ, thậm chí cũng không phải là sản phẩm
của sự kết hợp giữa hai nhân tố này, như các sử gia vẫn tưởng, mà là
hoạt động của tất cả những người đã tham dự vào biến cố và họ bao giờ
cũng tập hợp lại dưới hình thức này: những người tham dự trực tiếp nhất
vào biến cố là những người ít chịu trách nhiệm nhất và ngược lại.
Xét về mặt tinh thần thì nguyên nhân của biến cố dường như là quyền
lực, xét về mặt vật chất, thì những người phục tùng quyền lực dường như
là nguyên nhân của biến cố. Nhưng vì hoạt động tinh thần không thể quan
niệm được nếu không có hoạt động vật chất, cho nên nguyên nhân của biến
cố không nằm trong hoạt động tinh thần, cũng không nằm trong hoạt động
vất chất mà chính là nằm trong sự kết hợp của cả hai.
Hay nói khác đi, khái niệm nguyên nhân không thể áp dụng cho hiện
tượng đang được xét. xét cho cùng, ta đi đến cái vòng luẩn quẩn muôn
thuở đi đến biên giới cuối cùng mà trí tuệ con người đạt đến trong bất
kỳ lĩnh vực nào của tư tưởng, nếu nó không đối đầu với đối tượng của nó:
Điện tạo ra sức nóng, sức nóng tạo ra điện. Các nguyên tở hút nhau, các
nguyên tử đẩy nhau.
Khi nói đến tác dụng đơn giản nhất của nhiệt, của điện hay của các
nguyên tử, ta không thể nói cái gì là nguyên nhân, cho nên ta nói rằng
bản chất của các hiện tượng này là như vậy, rằng đó là quy luật cảa nó.
Đối với các hiện tượng lịch sử, vấn đề cũng như vậy.
Tại sao lại xảy ra một cuộc chiến tranh hay một cuộc cách mạng?
Ta không biết, ta chỉ biết rằng để thực hiện một hành động nào đó,
người ta tập hợp thành một tập thể nào đó mà mọi người đều tham dự, thế
rồi ta nói rằng bản chất của con người là như vậy, rằng đó là quy luật
hết: Chương - 7 -, xem tiếp: Chương - 8 -
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 EmptyWed Jan 05, 2011 10:30 pm

Lev Tolstoy

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH

Phần XVII

Chương - 8 -


Nếu lịch sử chỉ có nhiệm vụ nghiên cứu những hiện tượng bên ngoài
thì nó chỉ cần nêu lên cái quy luật đơn giản và hiển nhiên ấy là đủ rồi,
và cuộc biện luận của chúng ta đã kết thúc. Nhưng quy luật của lịch sử
lại liên quan đến con người. Một phân tử vật chất không thể nói với
chúng ta rằng nó hoàn toàn không cảm thấy có nhu cầu hấp dẫn hay xô đẩy
gì cả, và quy luật này không đúng, trái lại con người là đối tượng của
lịch sử lại khẳng định dứt khoát rằng: tôi tự do, và do đó, không lệ
thuộc vào các quy luật. Sự có mặt của vấn đề tự do ý chí của con người,
tuy không được biểu hiện ra, vẫn có thể nhận thấy ở mỗi bước của lịch
sử.
Tất cả các sử gia nghiêm túc đều đã vô hình chung đi đến vấn đề
này. Tất cả những chỗ mâu thuẫn, những điểm mơ hồ trên con đường sai lầm
mà khoa học lịch sử đi theo chẳng qua đều do vấn đề này chưa được giải
quyết mà ra. Nếu ý chí của mỗi người đều là tự do, tức nếu mỗi người có
thể hành động theo sở thích của mình thì lịch sử sẽ chỉ là một chuỗi
những hiện tượng ngẫu nhiên không liên quan gì với nhau.
Ngay dù trong số hàng triệu con người sống trong khoảng một ngàn năm
chỉ có một người duy nhất có thể hành động tự do, tức là, theo sở thích
của mình, thì hiển nhiên là chỉ cần một hành động tự do, trái với quy
luàt của người này cũng đủ để thủ tiệu khả năng tồn tại của bất kỳ quy
luật nào đối với toàn bộ nhân loại.
Và nếu có một quy luật, dù chỉ là một quy luật thôi, chi phối hành động
của con người thì không thể nào không phục tùng quy luật đó
Vấn đề tự do ý chí chính đáng là đang lâm vào tình trạng mâu thuẫn
này, vấn đề này từ thời cổ đại đã bắt những bộ óc ưu tú nhất của nhân
loại phải suy nghĩ, và từ thời cổ đại đã được đặt ra với tất cả tầm quan
trọng to lớn của nó.
Nội dung vấn đề này là như sau: khi nhìn con người với tính sách
một đối tượng để quan sát dù đứng trên quan điểm nào cũng vậy, thần học,
lịch sử, đạo đức, triết học, chúng ta đều gặp lại cái quy luật chung
của tính tất yếu mà con người cũng như tất cả những gì tồn tại đều phải
tập trung. Trái lại, khi nhìn con người qua bản thân mình như một đối
tượng ý thức được, thì ta lại cảm thấy mình tự do.
Ý thức này là một cội nguồn để tự nhận thức hoàn toàn riêng biết và
không phụ thuộc vào lý trí. Nhờ có lý trí, con người có thể tự quan sát
mình, nhưng nó chỉ có thể tự biết mình qua ý thức.
Nếu không còn ý thức về mình thì mợi sự quan sát, mọi cách sở dụng lý trí đều không thể quan niệm được.
Để hiểu để quan sát, để kết luận, con người trước hết phải có ý thức rằng mình đang sống.
Con người chỉ quan niệm rằng nó tồn tại khi nó có ý muốn, tức là
khi nó nhận thức được ý chí của mình. Đã thế, ý chí là thực chất của đời
sống cho nên con người nhận thức và ắt phải nhận thức nó như một ý chí
tự do.
Nếu khi tự quan sát mình, con người thấy rằng ý chí của nó bao giờ
cũng hướng theo một quy luật duy nhất và không thay đổi (bất kỳ quan sát
nhu cầu ăn uống hay hoạt động của bộ óc, hay bất kỳ cái gì khác), thì
nó không thể không quan niệm cái hướng không bao giờ thay đổi này của ý
chí của nó là một sự hạn chế đối với ý chí. Cái gì đã không tự do thì
cũng không thể nào bị hạn chế. Ta thấy ý chí của con người bị hạn chế
chính vì ta không có cách nhận thức nào khác ngoài cách khái niệm rằng ý
chí là tự do.
Anh nói rằng tôi không tự do. Nhưng tôi đã giơ tay lên và đã hạ nó
xuống. Ai cũng biết rằng câu trả lời phi luận lý này chính là bằng chứng
không thể bác được của tự do.
Câu trả lời này là biểu hiện của ý thức vốn không lệ thuộc vào lý trí.
Nếu nhận thức của ta về tự do không phải là một cội nguồn tự nhận thức
không liên quan đến lý trí, thì nó sẽ phục tùng lý luận và kinh nghiệm,
nhưng trong thực tế không bao giờ có và không thể quan niệm được một sự
phục tùng như vậy.
Có nhiều kinh nghiệm và lý luận chứng minh cho mỗi người thấy rằng
với tính cách đối tượng khảo sát, họ phải tuân theo những quy luật nhất
định. Họ tuân theo và không bao giờ chống lại quy luật hấp dẫn hay quy
luật không thẩm thấu một khi họ đã thừa nhận những quy luật ấy. Nhưng
cũng chính những kinh nghiệm và lý luận ấy lại chứng minh cho họ thấy
rằng cái tự do tuyệt đối mà họ nhận thức được ở bản thân là một điều
không thể có, rằng mỗi hành động của họ đều bị quy định bởi cấu tạo của
nó, bởi tính cách của họ và những động cơ tác động đến họ, tuy nhiên con
người không bao giờ phục tùng những kết luận rứt ra từ những kinh
nghiệm và lý luận ấy. Căn cứ vào thực nghiệm và suy luận, con người biết
rằng hòn đá rơi theo hướng từ trên xuống dưới, nó hoàn toàn tin điều đó
và trong mọi trường hợp nó đều chờ đợi hiệu lực của cái quy luật mà nó
đã thừa nhận.
Trái, lại, khi đã biết, cũng một cách chắc chắn như vậy, rằng ý
chí của mình cũng phục tùng những quy luật, thì con người vẫn không tin
và không thể nào tin điều đó.
Thực nghiệm và lý luận tha hồ chứng minh cho con người thấy rằng trong
những điều kiện như cũ với một tính cách như cũ, nó sẽ hành động hệt như
nó đã hành động trước đấy. Khi nào nó sắp làm một hành động lần thứ một
nghìn trong những điều kiện như cũ với một tính cách như cũ (một hành
động bao giờ cũng được đưa đến một kết quả như nhau), nó cũng vẫn cảm
thấy một cách chắc chắn rằng nó có thể làm theo sở thích của mình như
trước khỉ thực nghiệm. Bất kỳ người nào, người dã man cũng như nhà tư
tưởng, du lý luận và thực nghiệm đã chứng minh cho họ một cách không thể
chối cãi rằng không thể nào quan niệm có hai hành động khác nhau trong
những điều kiện như nhau, họ vẫn cảm thấy không thể nào quan niệm được
sự sống nếu không có cái quan niệm vô lý ấy. Vì quan niệm ấy vốn là thực
chất của tự do. Họ vẫn cảm thấy rằng dù cho điều đó không thể thực hiện
được, nó vẫn tón tại, bởi vì nếu không có cách quan niệm này về tự do
thì không những họ không hiểu được cuộc sống mà thậm chí còn không thể
sống được một khoảnh khắc.
Không thể sống được vì tất cả những khát vọng của con người, tất cả
những động cơ thúc đẩy nó sống chẳng qua ià những khát vọng nhằm tăng
thêm quyền tự do của nó. Giàu có hay nghèo khổ, vinh quang hay mai một,
nắm quyền lực hay phải phục tùng, cường tráng hay yếu ớt, lành mạnh hay
đau ốm, học thức hay ngu dốt, lao lực hay an nhàn, no nê hay đói khát,
đạo đức hay tội lỗi, chẳng qua chỉ là những trình độ khác nhau của tự
do.
Muốn hình dung một con người không có tự do chỉ có cách hình dung là con người ấy không còn sống nữa.
Nếu đối với lý chí, khái niệm tự do là một điều mâu thuẫn phi lý cũng
như cho rằng có thể thực hiện hai hành động khác nhau trong những điều
kiện như nhau, hay một hành động không có nguyên nhân, thì điều đó chỉ
chứng mình rằng ý thức không phục tùng ý chí.
Chính cái nhận thức này về tự đo, một nhận thức không thể lay
chuyển, không thể bác bỏ, không thể phục tùng kinh nghiệm và lý luận, đã
được tất cả các tư tưởng gia thừa nhận và được mọi người cảm thấy,
không trừ một ai, chính cái ý thức mà không có nó thì không thể nào quan
niệm được con người, đã làm thành mặt kia của vấn đề.
Con người là một vật do đấng Thượng đế toàn năng toàn thiện toàn
chí sáng tạo ra. Vậy tội lỗi là gì, một khi khái niệm tổi lỗi là xuất
phát từ ý thức của con người về quyền tự do của hắn? Đó là vấn đề do
thần học đặt ra. Hành động của con người phục tùng những quy luật chung,
bất biến, được khoa thống kê học ghi lại, vậy trách nhiệm của con người
trước xã hội là gì, một khi khái niệm này xuất phát từ ý thức của con
người về quyền tự do của mình? Đó là vấn đề do pháp luật đặt ra.
Hành động của con người xuất phát từ tính chất bẩm sinh của nó và
những động cơ đã tác động đến nó. Vậy thế nào là lương tâm, là ý thức về
cái thiện, về cái ác, trong những hành động xuất phát từ ý thức của con
người về quyền tự do? Đó là vấn đề do luân lý đặt ra.
Con người, nếu xét trong mối liên hệ với đời sống chung của nhân
loại, phải phục tùng những những quy luật chi phối cuộc sống ấy. Nhưng
cũng con người, nếu không kể đến mối liên hệ đó thì lại là tự do. Đời
sống quá khữ của các dân tộc và của nhân loại cần phải được quan niệm
như thế nào? Như là sản phẩm của hoạt động tự do hay là của hoạt động bị
chi phối của con người? Đó là vấn đề do lịch sử đặt ra.
Mãi đến cái thời của trí thức phổ cập, cái thời đại đầy tự phụ của
chúng ta, nhờ cái công cụ mạnh mẽ nhất của sự dốt nát là máy in, vấn đề
tự do của ý chí mới bị đẩy lùi lại một địa hạt mà bản thân nó không thể
nào tồn tại. Trong thời đại chúng ta ngày nay, phần lớn những con người
gọi là tiên tiến chỉ là một đám người ngu dốt tưởng đâu rằng những công
trình nghiên cứu của các nhà khoa học tự nhiên là cách giải quyết toàn
bộ vấn đề, tuy nó chỉ nghiên cứu một mặt của vấn đề mà thôi.
Không làm gì có linh hồn và không làm gì có tự do, bởi vì đời sống
của con người được thể hiện bằng sự vận đọng của các cơ thịt mà sự vận
động của các cơ thịt lại do hoạt động của hệ thần kinh chỉ huy. Không có
linh hồn và không có tự do, bời vì ở một thời đại xa xưa nào không rõ,
chúng ta đã từ loài khỉ mà ra. Họ nói, họ viết và họ in như vậy và không
biết rằng trước đây hàng nghìn năm tất cả các tôn giáo, tất cả các tư
lưởng gia, không những đã thừa nhận mà thậm chí không bao giờ phủ nhận
quy luật về tính tất yếu mà ngày nay họ ra sức chứng minh một cách nhiệt
tình bằng sinh lý học và động vật học so sánh. Họ không thấy rằng vai
trò của các khoa học tự nhiên trong vấn đề này chỉ là công cụ để soi
sáng một mặt của vấn đề mà thôi. Bởi vì, nếu đứng trên lập trường quan
sát, nói rằng lý trí và ý chí là những chất bài tiết (sécrétions) của bộ
óc, và con người, trong khi tuân theo quy luật chung, đã có thể phát
triển từ một giống động vật hạ đẳng ở một thời kỳ nào chưa rõ thì đó là
cắt nghĩa dưới một khía cạnh cái chân lý đã được tất cả các tôn giáo và
tất cả các hệ thống triết học thừa nhận cách đây hàng ngàn năm: đó là
chân lý nói rằng xét về quan điểm lý trí, con người phục tùng những quy
luật của tính tất yếu. Nhưng điều đó vẫn không làm cho việc giải quyết
vấn đề tiến lên một bước nào bởi vì vấn đề này còn có một mặt đối lập
xây dựng trên ý thức về tự do.
Nếu con người phát tnển từ loài khỉ ở một thời kỳ nào chưa rõ, thì
điều đó cũng có thể hiểu được như nói rằng nó do một nắm đất sinh ra ở
một thời kỳ nhất định (trong trường hợp thứ nhất thì X là thời gian,
trong trường hợp thứ hai thì X là nguồn gốc). Nhưng vấn đề lại là ở chỗ ý
thức về tự do của con người kết hợp như thế nào với quy luật về tính
tất yếu mà nó phục tùng, và vấn đề này không thể giải quyết bằng sinh lý
học và động vật học so sánh, bởi vì trong con ếch, con thỏ và con khỉ,
ta clủ có thể thấy hoạt động của thần kinh và bắp thịt trái lại trong
con người ta thấy ngoài hoạt động của bắp thịt và thần kinh lại còn có
cả ý thức nữa.
Các nhà khoa học tự nhiên và các tín đô của họ là những người tưởng
đâu giải quyết đối với vấn đề này cũng như những anh thợ nề đã nhận
được lệnh trát vữa một mặt tường của nhà thờ, nhân lúc người quản đốc
vắng mặt, vì quá nhiệt tình, đã trát vữa vào những bậc cửa sổ, những
tượng thánh, những dàn cột và những bức tường chưa xây xong rồi vui
sướng vì thấy rằng theo quan điểm nghề nghiệp của họ mọi vật đều phẳng
phiu và trơn láng.
hết: Chương - 8 -, xem tiếp: Chương - 9 -
Đánh máy: Nguyễn Học ( Mõ Hà Nội )
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content




CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 9 Empty

Về Đầu Trang Go down
Xem thêm bài khác:

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full)

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang
Trang 9 trong tổng số 10 trangChuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10  Next
+ Viết tiếng việt có dấu để mọi người đọc được, để không bị hiểu sai ý nghĩa mình muốn diễn giải.
+ Lời lẽ phải lịch sự, không đuợc thô tục hay cải vã trong diễn đàn.
+ Nội dung bài trả lởi phải phù hợp với bài của chủ Topic, không được Spam.
+ Chia sẻ bài sưu tâm thì phải ghi rõ nguồn, để tôn trọng người viết.
+ Thực hiện những điều trên truớc khi gửi bài, là tôn trọng chính mình.

- Nếu chèn smilies vào bài viết thì bật a/A trên phải khung viết bài.

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Trường THPT Xuân Lộc :: GIẢI TRÍ :: Đọc truyện :: Truyện dài-
Chuyển đến:
Loading...
Create a forum on Forumotion | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất
Web THPTXL