Trường THPT Xuân Lộc
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Trường THPT Xuân Lộc

Trường THPT Xuân Lộc - Đồng Nai
 
Trang ChínhTrang Chính  WebsiteWebsite  Tra CứuTra Cứu  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng Nhập  
Top posters
♪-Peter-♪ (1229)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Vote_rcap 
Admin (730)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Vote_rcap 
JabbaWocKeez (342)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Vote_rcap 
whitehat (313)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Vote_rcap 
RongK9 (204)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Vote_rcap 
Blogsoft (171)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Vote_rcap 
lightspeed (154)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Vote_rcap 
kosak1213 (112)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Vote_rcap 
thaikiet (54)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Vote_rcap 
kidpro1409 (44)
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Vote_lcapCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Voting_barCHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Vote_rcap 
THÔNG ĐIỆP YÊU THƯƠNG:

Share|

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full)

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down
Chuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10  Next
Tác giảThông điệp
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 EmptySat Dec 25, 2010 8:16 am

First topic message reminder :

Vâng !! Nếu có thời gian thì Mời các bạn nên đọc tác phầm này Smile


Vâng và mình giới thiệu tác phẩm này luôn :

Chiến tranh và hòa bình ([You must be registered and logged in to see this link.]: Война и мир, Voyna i mir) là một bộ [You must be registered and logged in to see this link.] sử thi của [You must be registered and logged in to see this link.], được nhà xuất bản Russki Vestnik in lần đầu từ năm [You must be registered and logged in to see this link.] đến [You must be registered and logged in to see this link.]. Đây là tác phẩm phản ánh một giai đoạn bi tráng của toàn xã hội [You must be registered and logged in to see this link.],
từ giới quý tộc đến nông dân, trong thời đại Napoléon, và được coi là
một trong hai kiệt tác chính của Tolstoy (tác phẩm thứ hai là [You must be registered and logged in to see this link.]). Chiến tranh và hòa bình cũng đồng thời được đánh giá là một trong những tiểu thuyết vĩ đại nhất của [You must be registered and logged in to see this link.].


Nội dung

[You must be registered and logged in to see this link.]: Phần sau đây có thể cho bạn biết trước nội dung của tác phẩm.

Tác phẩm mở đầu với khung cảnh một buổi tiếp tân, nơi có đủ mặt các nhân vật sang trọng của giới quý tộc [You must be registered and logged in to see this link.] của [You must be registered and logged in to see this link.]. Bên cạnh những câu chuyện thường nhật của giới quý tộc, người ta bắt đầu nhắc đến tên của [You must be registered and logged in to see this link.] và cuộc [You must be registered and logged in to see this link.]
sắp tới mà Nga sắp tham gia. Trong số những tân khách hôm ấy có công
tước Andrei Bolkonsky một người trẻ tuổi, đẹp trai, giàu có, có cô vợ
Liza xinh đẹp mới cưới và đang chờ đón đứa con đầu lòng. Và một vị khách
khác là Pierre người con rơi của lão bá tước Bezoukhov, vừa từ nước
ngoài trở về. Tuy khác nhau về tính cách, một người khắc khổ về lý trí,
một người hồn nhiên sôi nổi song Andrei và Pierre rất quý mến nhau và
đều là những chàng trai trung thực, luôn khát khao đi tìm lẽ sống.
Andrei tuy giàu có và thành đạt nhưng chán ghét tất cả nên chàng chuẩn
bị nhập ngũ với hy vọng tìm được chỗ đứng của một người đàn ông chân
chính nơi chiến trường. Còn Pierre từ nước ngoài trở về nước Nga, tham
gia vào các cuộc chơi bời và bị trục xuất khỏi Sankt-Peterburg vì tội du
đãng. Pierre trở về [You must be registered and logged in to see this link.],
nơi cha chàng đang sắp chết. Lão bá tước Bezoukhov rất giàu có, không
có con, chỉ có Pierre là đứa con rơi mà ông chưa công nhận. Mấy người bà
con xa của ông xúm quanh giường bệnh với âm mưu chiếm đoạt gia tài.
Pierre đứng ngoài các cuộc tranh chấp đó vì chàng vốn không có tình cảm
với cha, nhưng khi chứng kiến cảnh hấp hối của người cha lúc lâm chung
thì tình cảm cha con đã làm chàng rơi nước mắt. Lão bá tước mất đi để
lại toàn bộ gia sản cho Pierre và công nhận chàng làm con chính thức.
Công tước Kuragin không được lợi lộc gì trong cuộc tranh chấp ấy bèn tìm
cách dụ dỗ Pierre. Vốn là người nhẹ dạ, cả tin nên Pierre rơi vào bẫy
và phải cưới con gái của lão là Hélène, một cô gái có nhan sắc nhưng
lẳng lơ và vô đạo đức.
Về phần Andrei chàng quyết định gởi vợ cho cha và em chăm sóc sau đó
gia nhập quân đội. Khi lên đường Andrei mang một niềm hy vọng có thể có
thể tìm thấy ý nghĩa cuộc sống cũng như công danh trên chiến trường.
Chàng tham gia trận đánh [You must be registered and logged in to see this link.]
lừng danh, thương nặng, bị bỏ lại chiến trường. Khi tỉnh dậy chàng nhìn
dậy chàng nhìn thấy bầu trời xanh rộng lớn và sự nhỏ nhoi của con
người, kể cả những mơ ước, công danh và kể cả Napoléon người được chàng
coi như thần tượng. Andrei được đưa vào trạm quân y và được cứu sống.
Sau đó, chàng trở về nhà chứng kiến cái chết đau đớn của người vợ trẻ
khi sinh đứa con đầu lòng. Cái chết của Lisa, cùng với vết thương và sự
tiêu tan của giấc mơ Tulông đã làm cho Andrei tuyệt vọng. Chàng quyết
định lui về sống ẩn dật. Có lần Pierre đến thăm Andrei và đã phê phán
cách sống đó. Lúc này, Pierre đang tham gia vào hội Tam điểm với mong
muốn làm việc có ích cho đời.
Một lần, Andrei có việc đến gia đình bá tước Rostov. Tại đây, chàng
gặp Natalia (Natasha) con gái gia đình của bá tước Rostov. Chính tâm hồn
trong trắng hồn nhiên và lòng yêu đời của nàng đã làm hồi sinh Andrei.
Chàng quyết định tham gia vào công cuộc cải cách ở triều đình và cầu hôn
Natasha. Chàng đã được gia đình bá tước Rostov chấp nhận, nhưng cha
chàng phản đối cuộc hôn nhân này. Bá tước Bolkonsky (cha của Andrei)
buộc chàng phải đi trị thương ở nước ngoài trong khoảng thời gian là một
năm. Cuối cùng, chàng chấp nhận và xem đó như là thời gian để thử thách
Natasha. Chàng nhờ bạn mình là Pierre đến chăm sóc cho Natasha lúc
chàng đi vắng. Natasha rất yêu Andrei, song do nhẹ dạ và cả tin nên nàng
đã rơi vào bẫy của Anatole con trai của công tước Vassili, nên Natasha
và Anatole đã định bỏ trốn nhưng âm mưu bị bại lộ, nàng vô cùng đau khổ
và hối hận. Sau khi trở về Andrei biết rõ mọi chuyện nên đã nhờ Pierre
đem trả tất cả những kỷ vật cho Natasha. Nàng lâm bệnh và người chăm sóc
và người thông cảm cho nàng lúc này là Pierre.
Vào lúc này, nguy cơ chiến tranh giữa [You must be registered and logged in to see this link.][You must be registered and logged in to see this link.]
ngày càng đến gần. Cuối năm 1811, quân Pháp tiến dần đến biên giới Nga,
quân Nga rút lui. Đầu năm 1812, quân Pháp tiến vào lãnh thổ Nga. Chiến
tranh bùng nổ. Vị tướng già Mikhail Koutouzov được cử làm tổng tư lệnh
quân đội Nga. Trong khi đó, quý tộc và thương gia được lệnh phải nộp [You must be registered and logged in to see this link.]
và dân binh. Pierre cũng nộp tiền và hơn một ngàn dân binh cho quân
đội. Andrei lại gia nhập quân đội, ban đầu vì muốn trả thù tình địch,
nhưng sau đó chàng bị cuốn vào cuộc chiến, bị cuốn vào tinh thần yêu
nước của nhân dân. Trong trận [You must be registered and logged in to see this link.],
dưới sự chỉ huy của vị tướng Koutouzov quân đội Nga đã chiến đấu dũng
cảm tuyệt vời. Andrei cũng tham gia trận đánh này và bị thương nặng.
Trong lán quân y, chàng gặp lại tình địch của mình cũng đang đau đớn vì
vết thương. Mọi nỗi thù hận đều tan biến, chàng chỉ còn thấy một nỗi
thương cảm đối với mọi người. Chàng được đưa về địa phương. Trên đường
di tản, chàng gặp lại Natasha và tha thứ cho nàng. Và cũng chính Natasha
đã chăm sóc cho chàng cho đến khi chàng mất.
Sau trận Borodino, quân Nga rút khỏi Moskva. Quân Pháp chiếm được
Moskva nhưng có tâm trạng vô cùng lo sợ. Pierre trở về Moskva giả dạng
thành thường dân để ám sát Napoléon. Nhưng âm mưu chưa thực hiện được
thì chàng bị bắt. Trong nhà giam, Pierre gặp lại Platon Karataev, một
triết gia nông dân. Bằng những câu chuyện của mình, Platon đã giúp
Pierre hiểu thế nào là cuộc sống có nghĩa.
Quân Nga bắt đầu phản công và tái chiếm Moskva. Quân Pháp rút lui
trong hỗn loạn. Nga thắng lợi bằng chính tinh thần của cả dân tộc Nga
chứ không phải do một cá nhân nào, đó là điều Koutouzov hiểu còn
Napoléon thì không.
Trên đường rút lui của quân Pháp, Pierre đã trốn thoát và trở lại
Moskva. Chàng hay tin Andrei đã mất và vợ mình cũng vừa mới qua đời vì
bệnh. Chàng gặp lại Natasha, một tình cảm mới mẻ giữa hai người bùng nổ.
Pierre quyết định cầu hôn Natasha. Năm 1813, hai người tổ chức đám
cưới. Bảy năm sau, họ có bốn người con. Natasha lúc này không còn là một
cô gái vô tư hồn nhiên mà đã trở thành một người vợ đúng mực. Pierre
sống hạnh phúc nhưng không chấp nhận cuộc sống nhàn tản. Chàng tham gia
vào những hội kín - đó là các tổ chức cách mạng của những người tháng
Chạp.
!!wikipedia




Dịch giả: Cao Xuân Hạo, Nhữ Thành, Hoàng Thiếu Sơn, Thường Xuyên
nguồn : vnthuquan


Phần I

- Chương 1 -


- Đấy công tước thấy chưa:
Genes và Lucque nay chỉ còn là những thái ấp, những điền trang của dòng
họ Buônapáctê(1) mà thôi. Này, tôi xin báo trước: hễ công tước còn cho
rằng hiện nay chúng ta chưa ở trong tình trạng chiến tranh, hễ công
tước còn dám bào chữa cho những hành động nhơ nhuốc và tàn bạo của tên
Ma vương phản Cơ đốc ấy (quả tình tôi cũng tin rằng hắn chính là Ma
vương - thì tôi không có quen biết, không có bạn bè gì với công tước
nữa đâu, công tước không còn là "kẻ nô lệ trung thành" của tôi như công
tước vẫn nói. Nào, thôi, phải hỏi thăm sức khoẻ công tước đã chứ! Tôi
làm cho công tước đâm hoảng sợ thì phải, công tước ngồi xuống đi, rồi
kể chuyện cho tôi nghe.
Anna Pavlovna Serer, ngự tiền phu nhân có
tiếng, rất thân cận với hoàng hậu Maria Feodorovna, nói như vậy khi phu
nhân ra đón công tước Vaxili, một nhân vật quan trọng và có chức vị
cao, và là người đầu tiên tối hôm nay đến dự buổi tiếp tân của phu
nhân. Bấy giờ là vào tháng bảy năm 1805. Anna Pavlovna ho đã mấy hôm
nay, phu nhân bị bệnh cúm - phu nhân nói thế (hồi ấy cúm là một danh từ
mới, rất ít người dùng). Buổi sáng một gia nhân mặc áo dấu đỏ đi phân
phát những tấm thiếp mời nhất loạt viết:
"Thưa bá tước hay (thưa công tước), nếu bá tước không có việc gì hay
hơn và không có ý quá lo sợ phải ngồi suốt cả buổi tối với một ngưòi
đàn bà đau ốm tội nghiệp, thì tôi sẽ rất vui sướng được tiếp bá tước
tại nhà từ 7 đến 10 giờ. Annette Scherer".
Lúc này công tước vừa bước vào phòng, mình mặc phẩm phục thêu kim
tuyến, chân đi giày có bít tất cao, ngực đeo huân chương, khuôn mặt
phẳng đẹp trông rất tươi tỉnh. Công tước đáp, không hề mảy may lúng
túng trước cách tiếp đón của nữ chủ nhân:
- Trời, nhiếc móc độc địa thế!
Công tước nói một thứ tiếng Pháp cầu kỳ, thứ tiếng mà cha ông chúng ta
không nhũng dùng để nói chuyện, mà còn để suy nghĩ nữa; công tước lại
có một gióng nói dìu dịu và khoan dung đặc biệt của một người quyền quí
đã lõi đời trong xã hội thượng lưu và trong cung đình. Công tước lại
gần Anna Pavlovna, cúi cái đầu hói bóng nhoáng, xức nước hoa thơm phức
xuống hôn tay phu nhân rồi thoải mãi buông người xuống đi-văng.
- Trước hết, xin bà bạn cho biết sức khoẻ ra sao? - công tước lại nói - Xin phu nhân nói rõ cho tôi được yên lòng?
Công tước cũng vẫn nói với giọng như trước nhưng trong cái giọng nhã
nhặn và đượm vẻ ái ngại vẫn để lộ sự thờ ơ, thậm chí cả sự mỉa mai.
Anna Pavlova nói:
- Tinh thần đã đau khổ thì người còn mạnh khoẻ sao được? Thời buổi này,
là người có tâm huyết ai có thể bình thản được? Công tước ở lại chơi cả
buổi tối nhé!
- Thế còn buổi dạ hội của đại sứ Anh thì sao? Hôm nay là thứ tư. Tôi
cần phải đi đến đấy cho có mặt. Con gái tôi nó sẽ ghé lại đây đưa tôi
đi.
- Tôi vẫn tưởng buổi dạ hội đã hoãn rồi kia đấy. Tôi xin thú thật những
trò hội hè và bắn pháo hoa ấy đã bắt đầu trở thành nhạt thếch.
- Họ mà biết phu nhân muốn thế, thì họ đã hoãn buổi dạ hội rồi - công
tước nói theo thói quen, như một chiếc đồng hồ đã lên dây sẵn, nói
những điều mà mình cũng không muốn người ta tin là thật.
- Thôi xin ông đừng làm khổ tôi nữa… Này, về cái tin cấp báo của
Novoxilxov người ta quyết định gì? Việc gì ngài cũng biết kia mà.
Công tước nói, giọng lạnh nhạt và chán chường:
- Tôi biết nói thế nào đây? - Người ta quyết định gì ư? Người ta cho
rằng Buônapáctê đã đi nước liều, và tôi tin ta cũng làm như thế.
Công tước Vaxili bao giờ cũng nói giọng uể oải như một diễn viên đọc
một vai tuồng đã quá cũ. Anna Pavlovna Serer thì trái lại, tuy đã tròn
bốn mươi tuổi, nhưng văn hăng hái sôi nổi. Tỏ ra hăng hái đã thành một
chức vụ xã hội của phu nhân, và đôi khi, mặc dầu không muốn, phu nhân
cũng vẫn làm ra vẻ hăng hái để khỏi phụ lòng mong đợi của những người
quen biết. Nụ cười nửa miệng luôn luôn phảng phất trên gương mặt Anna
Pavlovna tuy không ăn khớp với những nét mặt đã tàn phai, nhưng cũng
nói lên rằng phu nhân chẳng khác gì đứa trẻ được nuông chiều, vẫn có ý
thức về cái tật đáng yêu của mình, một cái tật mà phu nhân không muốn,
không thể và không thấy cần phải sửa chữa.
Giữa chừng câu chuyện về lình hình chính trị, Anna Pavlovna bỗng hăng lên:
- Ồ, thôi đừng nói tới cái nước Áo ấy với tôi nữa! Có thể là tôi chẳng
hiểu tí gì, nhưng nước Áo xưa nay không hề muốn có chiến tranh. Nó phản
bội chúng ta. Một mình nước Nga sẽ phải cứu châu âu. Đấng ân chủ của
chúng ta biết rõ sứ mệnh cao cả của người và sẽ trung thành với sứ mệnh
đó. Tôi chỉ tin có thế mà thôi. Đức vua nhân từ và kỳ diệu của ta sẽ
phải lĩnh lấy cái trách nhiệm trọng đại nhất trên thế giới; người nhân
từ và quí hoá như vậy nên Thượng đế sẽ không bỏ người đâu, và Người sẽ
làm tròn sự phó thác của Trời là bóp chết con quái xà cách mạng nay đã
trở nên ghê tởm hơn bao giờ hết vì hiện thân của nó là cái tên sát nhân
kiêm đạo tặc kia. Chúng ta sẽ phải một mình trả thù cho máu của chính
nghĩa đã đổ. Còn biết hy vọng vào ai nữa, thưa ngài? Nước Anh với cái
đầu óc con buôn của nó sẽ không bao giờ hiểu nổi cái độ lượng như trời
bể của hoàng đế Alecxandr. Nó đã từ chối không chịu rút khỏi đảo Malta.
Nó muốn tìm xem phía sau các hành động của chúng ta có thâm ý gì. Người
Anh đã nói gì với Novoxilxov?… Chẳng nói gì cả. Họ không hiểu, mà cũng
không thể hiểu nổi cái lòng vị tha cao cả của Đức hoàng thượng, là
người không bao giờ làm gì cho bản thân mình, mà sẵn lòng làm tất cả
cho hạnh phúc của thiên hạ. Họ hứa những gì nào? Không hứa gì cả. Mà dù
có hứa thì họ cũng chẳng làm gì đâu! Nước Phổ đã tuyên bố rằng
Bonaparte là vô địch và toàn thể châu Âu không còn có cách gì chống lại
hắn nữa… Tôi không tin một lời nào của Hardenberg hay của Haugevits.
Cái nền trung lập trứ danh của nước Phổ chẳng qua là một cái bẫy. Tôi
chỉ tin ở Thượng đế và tin vào sự thụ mệnh thiêng liêng của vị hoàng đế
kính yêu của chúng ta. Người ta sẽ cứu được châu Âu…
Anna Pavlovna bỗng dừng lại, mỉm cười như để tự chế giễu cái thái độ bồng bột của mình.
Công tước mỉm cười nói:
- Tôi trộm nghĩ giá phu nhân được cử làm sứ giả thay ông Vin
Vintxengherod thân mến của chúng ta thì phu nhân đã bắt vua Phổ ưng
thuận đứt đi rồi. Phu nhân hùng biện thế kia mà. Phu nhân cho tôi chén
đí chứ?
- Sắp có đấy ạ- Anna Pavlovna bấy giờ đã bình tĩnh lại. Phu nhân nói thêm:
- À này, trong các vị tân khách của tôi hôm nay sẽ có hai nhân vật rất
thú vị; đó là tử tước Mortenmar, ông ta là thông gia với họ Montmorency
qua họ Rohans, một trong những dòng dõi quý phái bậc nhất ở Pháp. Đó là
một người Pháp lưu vong hạng chân chính đấy(2). Sau nữa là giáo sĩ
Moriot, chắc ngài cũng có biết con người trí tuệ uyên thâm ấy chứ?
Moriot đã được hoàng thượng tiếp, chắc ngài có biết?
- Ô tôi sẽ rất lấy làm hân hạnh. - Rồi công tước nói thêm, giọng đặc
biệt lơ đễnh như vừa sực nhớ ra điều gì, nhưng thực ra công tước đến
đây hôm nay mục đích chính cũng chỉ là để hỏi việc ấy. - Có phải Hoàng
thái hậu muốn bổ nhiệm nam tước Funke làm bí thư thứ nhất ở Viên không?
Hình như cái ông nam tước ấy **c lắm thì phải.
Số là công tước Vaxili muốn tiến cử con mình nhưng lúc bấy giờ trong
triều người ta lại đang xin Hoàng thái hậu lo chức ấy cho nam tước.
Anna Pavlovna lim dim đôi mắt, ý muốn nói phu nhân hay ai cũng đều có
quyền phê phán những điều mà đủc Hoàng thái hậu đã thích làm hay muốn
làm. Phu nhân chỉ nói gọn một câu, giọng buồn và xẵng:
- Nam tước Funke là do bà chị của Hoàng thái hậu gửi gắm đấy!
Khi Anna Pavlovna nói đến Hoàng thái hậu, gương mặt của phu nhân chợt
lộ vẻ sùng kính và ngưỡng mộ chân thành, pha lẫn với vẻ buồn rầu: cứ
mỗi lần nhắc đến Hoàng thái hậu là phu nhân như vậy.
Phu nhân nói rằng đức Hoàng thái hậu có lòng trọng nể nam tước Funke
lắm, - rồi khoé mắt của phu nhân lại đượm vẻ buồn rầu như cũ.
Công tước lặng thinh, vẻ thản nhiên, Anna Pavlovna vốn có đủ cái khéo
léo tế nhị và nhạy bén của một người đàn bà và một nữ quan quen ra vào
chốn cung đình; phu nhân muốn châm chích công tước một tí, vì ông ta đã
dám nghĩ như vậy về một nhân vật được tiến cử với Hoàng thái hậu, nhưng
đồng thời phu nhân cũng muốn an ủi công tước. Phu nhân nói:
- À này, để nói đến việc cửa nhà công tước một thể, chắc công tước cũng
biết là quý tiểu thư, từ khi bước chân vào cuộc đời giao tế, được mọi
người rất yêu chuộng. Ai cũng bảo là tiểu thư đẹp như ánh thái dương.
Công tước nghiêm mình để tỏ ý kích cẩn và cảm kích.
Sau một phút yên lặng, Anna Pavlovna nhích đến gần công tước và dịu
dàng mỉm cười, dường như để tỏ rằng câu chuyện về chính trị và xã giao
đã chấm dứt, và bây giờ đến lượt những mẩu chuyện tâm tình:
- Tôi thường nghĩ rằng đôi khi hạnh phúc trên đời được phân phối thật
bất công. Tại sao số phận lại cho ngài hai người con đáng yêu như vậy.
Trừ Anatol, cậu con út của ngài, mà tôi không ưa - phu nhân nói thêm,
lông mày nhướn cao lên, giọng quyền hành và dứt khoát - Mà công tước
lại là người ít biết giá trị của con mình hơn cả, vì vậy công tước quả
không đáng được hai người con như thế.
Và phu nhân mỉm cười, nụ cười phấn khởi.
Công tước nói:
- Phu nhân bảo tôi làm thế nào được? Nếu có Lavater ở đây thì ông ta sẽ bảo tôi không có cái u làm cha(3).
- Thôi đừng đùa nữa. Tôi đang nói chuyện đứng đắn kia mà. Công tước ạ,
tôi không vừa lòng về cậu con trai út của ngài cho lắm. Cái này ta cũng
nói riêng với nhau thôi (gương mặt của phu nhân lại lộ vẻ buồn rầu),
trong cung đức hoàng thái hậu họ có nói đến cậu ta đấy, và lấy làm ái
ngại cho công tước.
Công tước không đáp lại, nhưng phu nhân vẫn lặng thinh nhìn công tước,
vẻ tư lự, chờ đợi công tước trả lời. Công tước Vaxili cau mày. Cuối
cùng, công tước nói:
- Tôi còn biết làm thế nào được? Phu nhân biết đấy, tôi đã làm tất cả
những gì mà một người cha có thể làm để dạy dỗ chúng nó, thế mà rốt cục
cả hai đứa lớn lên vẫn thành hai thằng ngốc như thường. Thằng Ippolit
thì ít nhất cũng còn là một thằng ngốc hiền lành, chứ thằng Anatol thì
thật là một thừng ngốc ngỗ ngược. Đấy chỉ là khác nhau có thế.
Trong khi nói, công tước mỉm cười không được tự nhiên như thường ngày,
nhưng lại có vẻ phấn khởi hơn, rồi đột nhiên hai bên mép nhăn lại để lộ
cái gì thô bỉ và khả ố.
- Những ngưởi như công tước thì có con làm gì? Giá công tước không làm
cha, thì tôi thật không thể có điều gì chê bai công tước được nữa, -
Anna Pavlovna nói, mắt ngước nhìn lên có vẻ đăm chiêu suy nghĩ.
- Tôi là kẻ nô lệ trung thành của phu nhân, và chỉ với phu nhân tôi mới
có thế thú nhận điều này, con tôi - nó là mối luỵ của đời tôi - nó quả
là cây thập tự mà tôi phải vác lên vai. Tôi tự cắt nghĩa cho mình như
vậy đấy. Biết làm thế nào được?
Công tước ngừng nói và khoát tay một cái, ngụ ý là mình đành cam chịu phục tùng số mệnh ác nghiệt.
Anna Pavlovna trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Ngài chắc chưa bao giờ nghĩ đến việc cưới vợ cho cậu Anatol phá gia
chi tử của ngài nhỉ. Người ta thường bảo là gái quá thời thì hay có cái
thói làm mai mối. Tôi chưa cảm thấy mình có cái thói ấy, nhưng tôi có
biết một tiểu thư phải chịu khổ sở nhiều vì ông bố, đó là một người họ
hàng của chúng tôi, một công tước tiểu thư họ Bonkonxki.
Công tước Vaxili không đáp, nhưng với cái trí xét đoán và cái ký ức rất
nhạy của những người thuộc giới xã giao, công tước liền khẽ nghiêng đầu
để chứng tỏ mình đã lãnh hội và đã quan tâm đến những điều mách bảo của
phu nhân.
- Phu nhân có hiết không, cái thằng Anatol ấy tiêu của tôi mỗi năm đến
bốn vạn rúp, - công tước nói, hẳn là ông ta không đủ sức kìm hãm dòng
tâm tư buồn bã của mình. Công tước im lặng một lúc:
- Cứ như thế này, rồi năm năm nữa không biết sẽ ra sao đây?
- À làm cha thì hơn người ta ở chỗ đấy.
- Thế công tước tiểu thư của phu nhân có giàu không?
- Ông bố cô ta rất giàu nhưng rất hà tiện. Ông cụ hiện nay ở thôn quê.
Đó chính là công tước Bolkonxki nổi tiếng, đã về hưu từ thời tiên đế,
mà người ta thường gọi đùa là ông vua nước Phổ. Ông ta là người rất
thông minh, nhưng có nhiều cái gàn dở rất kỳ quặc, lại rất khó tính.
Tội nghiệp cho con bé, nó thật đến khổ, công tước tiểu thư có một người
anh cách đây ít lâu vừa kết hôn với cô Liza Mainen, và làm sĩ quan phụ
tá cho Kutuzov. Hôm nay người anh cũng đến đây.
Công tước bỗng dưng cầm lấy tay Anna Pavlovna và không hiểu tại sao kéo phu nhân cúi thấp xuống, rồi nói:
- Này, bạn Annet thân mến, bạn dàn xếp hộ tôi việc ấy, tôi sẽ suốt đời
là kẻ nô lệ trung thành của bạn, là kẻ nô lệ, như lão trưởng thôn của
tôi thường viết trong báo cáo, cô ấy con nhà thế gia, cô ấy giàu: tôi
chỉ cần có thế.
Với những cử chỉ thoải mái, thân mật và đẹp mắt mà ông vẫn có, công
tước cầm bàn tay của ngự tiền phu nhân đưa lên môi hôn, và lắc lắc, rồi
ngồi người trên ghế bành, đưa mắt nhìn phía khác.
Anna Pavlovna nghĩ ngợi một lát rồi nói:
- Được, để tôi sẽ nói chuyện với Liza (vợ công tước Bolkonxki trẻ tuổi)
ngay hôm nay. Có lẽ rồi việc này sẽ thành. Gia đình nhà ông sẽ là nơi
tôi tập sự làm gái già.

-------------------------------------------------------------------------

Chú thích:
(1) Họ của Napoleon Bonaparte phát âm theo giọng Corse để tỏ ý khinh miệt.
(2) Sau cuộc cách mạng Pháp 1789, một số quí tộc phản cách mạng trốn
hoặc bị trục xuất ra nước ngoài. Số người đó gọi là những người lưu
vong (emigré)
(3) Lavater (1741-1801) Nhà văn và giáo sĩ Thuỵ Sỹ đã lập ra một thuyết
cho rằng năng khiếu của con người là do hình dáng và đặc biệt là cái u
ở trên đầu quy định. Thành ngữ, có nghĩa là "đó là một tai ách mà số
phải chịu".

Share


Được sửa bởi petterpacker ngày Wed Jan 05, 2011 9:13 pm; sửa lần 2. (Reason for editing : Edit nội dung của truyện)
Về Đầu Trang Go down

Tác giảThông điệp
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 EmptySat Dec 25, 2010 8:40 am

Phần IV

Chương - 6 -




Thời gian gần đây Piotr không mấy khi gặp vợ diện đối diện. Ở
Petersburg cũng như ở Moskva, nhà chàng bao giờ cũng đông khách. Đêm
hôm xảy ra cuộc đấu súng, Piotr không vào phòng ngủ, và như trước kia
chàng vẫn hay làm, chàng ở lại trong căn phòng làm việc rộng thênh
thang của cha chàng ngày xưa, trong căn phòng đó ông cụ đã qua dời.
Chàng ngả lưng xuống đi-văng và muốn ngủ để quên những việc vừa xảy ra,
nhưng không sao ngủ được. Những tình cảm, những ý nghĩ, những kỷ niệm
cuồn cuộn nổi lên như một trận bão trong lòng chàng đến nỗi không những
chàng không ngủ được, mà thậm chí cũng không thể nằm yên một chỗ nùa,
chàng phải rời đi-văng chồm dậy và rảo bước đi đi lại lại trong phòng.
Chàng nhớ lại hình ảnh vợ chàng trong mấy ngày đầu sau lễ cưới, hai vai
để trần, đôi mắt mê mệt, đắm đuối. Ngay lúc đó, bên cạnh nàng lại hiện
ra khuôn mặt tuấn tú của Dolokhov, cái mặt xấc xược, m**** mai đúng như
trong bữa tiệc, rồi cũng cái mặt ấy, nhưng tái mét, run rẩy và đau đớn,
đúng như khi hắn ngoảnh lại và ngã sấp xuống mặt tuyết.
"Chuyện gì đã xảy ra thế! - Chàng tự hỏi, - Ta đã giết gã tình nhân,
phải, ta đã giết tình nhân của vợ ta. Phải, việc đó đã xảy ra. Tại sao?
Làm sao lại đến nông nỗi ấy?" - "Vì mày đã lấy nàng làm vợ" - Một tiếng
nói đâu ở bên trong đáp lại chàng.
"Nhưng thế thì ta đã có lỗi gì?" -Chàng hỏi. - "Có lỗi ở chỗ không yêu
mà vẫn lấy nàng làm vợ, ở chỗ đã lừa dối mày cũng như lừa dối nàng" -
Và chàng nhớ lại rõ mồn một cái giây phút sau bữa cơm tối ở nhà công
tước Vaxili, thì chàng đã nói với nàng mấy tiếng mà lúc bấy giờ chàng
thấy rất khó nói: Tôi yêu cô mọi việc đều do đó mà ra cả. "Ta cảm thấy
điều đó ngay từ lúc bấy giờ, - chàng nghĩ - Lúc đó ta đã cảm thấy điều
đó là không đúng, ta không có quyền nói như vậy. Cơ sự là như thế đấy".
Chàng hồi tưởng lại tuần trăng mật của hai người và kỷ niệm ấy làm cho
chàng hổ thẹn đến đỏ mặt. Rõ nét nhất, nhục nhã nhất, xấu hổ nhất đối
với chàng là một kỷ niệm gắn liền với những ngày tiếp theo lễ thành
hôn. Một hôm, vào khoảng mười một giờ trưa, lúc chàng từ phòng ngủ đi
sang phòng giấy, chàng gặp viên quản lý chính ở đấy, hắn cung kính cúi
đầu chào chàng, nhìn vào mặt chàng rồi nhìn chiếc áo ngủ của chàng và
tủm tỉm cười, dường như để tỏ rõ một cách cung kính lòng vui mừng của
hắn đối với hạnh phúc của chủ.
"Và biết bao lần ta đã hãnh diện vì nó, hãnh diện vì cái nhan sắc tuyệt
vời của nó vì cái khiếu xã giao tế nhị của nó - chàng thầm nghĩ, - Ta
hãnh diện vì toà nhà của ta, nơi đó tiếp đón tất cả giới thượng lưu của
thành Peterburg, hãnh diện vì thấy nó cách vời và diễm lệ. Thế ra ta
hãnh diện vì các thứ đó? Thuở ấy ta tưởng đâu ta không hiểu nó. Biết
bao lần, trong khi phân tích cá tinh của nó, ta đã tự nhủ rằng mình có
lỗi vì không hiểu nó, không hiểu được cái vẻ luôn luôn điềm tĩnh, thoả
mãn không say mê, không ham muốn gì, nhưng thật ra cái nhìn chìa khoá
để mở tất cả mọi bí mật là ở trong một chữ cái, cái chữ ghê gớm, kinh
khủng này: nó là một người đàn bà truỵ lạc. Cái chữ khủng khiếp ấy, đã
tự nó nói lên mọi việc trở thành rõ ràng dễ hiểu! "Thằng Anatol đến vay
tiền nó và hôn vào hai vai trần của nó. Nó không có tiền cho hắn vay
tiền nhưng vẫn để cho hắn hôn. Cha nó trong khi nói đùa thường khích
lòng ghen tuông của nó; Những lần ấy nó điềm nhiên mỉm cười nói rằng nó
không dại gì mà đi ghen tuông: Anh ấy muốn gì thì cứ việc làm, nó nói
thế. Một hôm ta hỏi nó có thấy triệu chứng thai nghén gì không. Nó cất
tiếng cười khinh bỉ và nói rằng nó không dại gì mà muốn có con, và nó
cũng không bao giờ có con với ta".
Rồi chàng lại nhớ đến những ý nghĩ thô bạo, trơ trẽn và cách ăn nói
dung tục của nàng, mặc dầu nàng đã được giáo dục trong giới thượng lưu
bậc nhất. "Tôi không phải là đồ ngốc … anh cứ việc đi mà xem thử… Anh
cút đi! - Nó thường nói thế. Rất nhiều khi, thấy nàng được mọi người
quý chuộng, đàn ông cũng như đàn bà, Piotr không thể hiểu tại sao mình
không yêu. "Ta chưa hề yêu nó bao giờ, ta vẫn biết đó là một người đàn
bà truỵ lạc - Chàng tự nhủ - Nhưng ta không dám tự thú với mình như
vậy".
"Và bây giờ thì Dolokhov… kia hắn đang ngồi trên tuyết mỉm cười gượng
gạo, và có lẽ hắn chết vì hắn đã đáp lại lòng hối hận của ta bằng một
thái độ anh chị giả tạo!".
Tất cả, tất cả cơ sự này chỉ tại một mình nó gây ra hết - Chàng tự nhủ
- Nhưng cái đó chẳng có gì quan trọng. Tại sao ta lại dính díu với nó,
tại sao ta lại nói với nó cái câu "Tôi yêu cô ấy’’ , đó chỉ là một lời
dối trá, mà còn tệ hơn là dối trá nữa. Chính ta là tội nhân và ta phải
chịu mang lấy… mang lấy cái gì? Sự ô nhục làm nhơ bẩn tên họ ta, nỗi
bất hạnh của đời ư? Nhưng tất cả những thứ đó đều là nhảm nhí cả, sự ô
nhục và danh dự, tất cả đều là quy ước, tất cả đều không phải do ta
quyết định.
"Louis XVI đã bị hành hình vì người ta nói ông ta là một kẻ vô sỉ và là
một kẻ phạm tội; mà họ cũng có lý theo quan điểm của họ, cũng như những
người đã vì ông ta tuẫn tiết, và coi ông ta như một vị thánh, đều có lý
cả. Sau đó họ cũng đã xử tử Robexpie vì Robexpie là một kẻ độc tài. Ai
phải, ai trái? Chẳng ai cả. Hễ còn sống thì tận hưởng cuộc sống, ngày
mai ta sẽ chết, cũng như ta đã suýt chết cách đây một giờ, và việc gì
lại tự mình làm lội mình, trong khi chỉ còn sống được một giây so với
thiên cổ?" Nhưng chính khi chàng tưởng những lý lẽ ấy làm mình trấn
tĩnh lại thì bỗng nhiên nàng lại hiện ra trước mắt hệt như trong những
phút chàng bộc lộ cái tình yêu giả dối của mình ra với nàng một cách
mãnh liệt nhất, và chàng cảm thấy máu nóng dồn vào tim, và phải đứng
dậy đi đi lại lại, gặp vật gì dưới tầm tay cũng đập phá. "Tại sao ta
lại nói với nó: "Tôi yêu cô" - chàng cứ tự hỏi lại. Và khi đã lặp đi
lặp lại câu hỏi đó đến lần thứ mười, thì trong ký ức của chàng lại hiện
ra cái câu hỏi của Molier: "Nhưng nó dính líu vào việc ấy làm cái quái
gì mới được chứ " và chàng lại tự cười mình.
Đêm ấy chàng gọi người hầu phòng, bảo sửa soạn hành lý để đi Peterburg.
Chàng không thể ở chung một nhà với vợ được nữa. Chàng không thể hình
dung bây giờ chàng sẽ ăn nói với nàng như thế nào. Chàng nhất định ngày
mai sẽ ra đi và để lại một bức thư báo cho nàng biết chàng đã quyết
định vĩnh viễn đoạn tuyệt với nàng.
Sáng hôm sau, khi người hầu phòng mang cà phê vào, Piotr đang nằm duỗi
trên chiếc đi-văng Thổ Nhĩ Kỳ và đang ngủ, tay cầm quyển sách mở. Chàng
sực tỉnh, đưa mắt bàng hoàng nhìn quanh hồi lâu, không sao nhớ ra được
mình đang ở chỗ nào.
- Bá tước phu nhân cho tôi lên hỏi xem Đại nhân có nhà không, người hầu phòng nói.
Piotr chưa kịp quyết định nên đáp lại như thế nào, thì chính bá tước
phu nhân, mình mặc voan phục bằng đoạn trắng thêu hoa bạc và vấn tóc sơ
sài chải cái bím lớn quấn ba lượt thành mũ miện xung quanh cái đầu
tuyệt đẹp - Đã điềm tĩnh và uy nghi bước vào, chỉ có vầng trán ngọc
thạch hơi gồ là mang một nếp nhăn nhỏ tỏ ra nàng đang giận dữ. Với cái
điềm tĩnh không gì lay chuyển được mà nàng vốn có, nàng không mở đầu
câu chuyện khi người hầu phòng còn ở trong phòng. Nàng đã biết tin cuộc
đấu súng và đến gặp Piotr để nói về việc đó. Nàng chờ cho người hầu
phòng dọn cà phê xong và đi ra đã. Piotr rụt rè nhìn nàng qua đôi kính
trắng, và như một con thỏ bị chó săn vây bọc cúp tai xuống ngồi nhìn kẻ
thù, chàng cố gắng tiếp tục xem sách; Nhưng chàng thấy làm thế là vô lý
và cũng vô ích, nên lại ngẩng lên nhìn nàng một cách rụt rè. Nàng vẫn
không ngồi xuống, và nhìn chàng với một nụ cười khinh bỉ, chờ cho người
hầu ra khỏi phòng.
- Lại còn chuyện gì nữa thế? Ông đã làm gì thế, tôi hỏi ông. - Nàng nghiêm nét mặt nói.
- Tôi ấy à? Tôi đã làm gì à? - Piotr nói.
- Anh hùng nhỉ! Nào, ông nói đi, tại sao lại đấu súng? Ông muốn chứng minh cái gì? Hở? Tôi hỏi ông đấy.
Piotr nặng nề cựa mình trên chiếc đi-văng, mở miệng, nhưng không trả lời được.
- Ông đã không trả lời thì tôi sẽ nói… - Elen tiếp - Ai nói gì ông cũng
tin. Họ nói với ông… - Nàng bật cười - rằng Dolokhov là tình nhân của
tôi, - Nàng nói bằng tiếng Pháp, với cách ăn nói dứt khoát, phũ phàng
của mình, và phát âm chữ "tình nhân" cũng tự nhtên như bất cứ chữ nào
khác - Thế mà ông cũng tin! Nhưng làm thế, ông đã chứng minh được cái
gì? Cái chuyện ông là một thằng ngu thì mọi người đã biết rồi. Nhưng
việc này sẽ dẫn đến đâu? Đến chỗ tôi thành trò cười của cả thành phố
Moskva, đến chỗ mọi người đều bảo rằng trong khi say rượu, mất cả trí
khôn, ông đã thách đấu một người mà ông ghen một cách vô căn cứ (Elen
hăng lên và càng nói càng to tiếng), một người hơn ông về đủ cả mọi mặt.
- Hừ, hừ… - Piotr hầm hừ và nhăn mặt. Chàng không nhìn nàng, tay chân không nhúc nhích.
- Cái gì khiến ông tưởng anh ta là tình nhân của tôi? Cái gì? Hay là vì
tôi thích chuyện trò với anh ta? Giả sử ông thông minh hơn và thú vị
hơn anh ta, thì tôi đã thích chuyện trò với ông rồi.
- Đừng nói nữa… tôi van cô. - Piotr thều thào, khàn đặc.
- Việc gì tôi lại không nói? Tôi có quyền nói và tôi xin nói thẳng với
ông rằng ít có người đàn bà nào lấy phải một người chồng như ông mà lại
không có tình nhân (des amants), nhưng tôi không làm thế.
Piotr muốn nói một câu gì, chàng nhìn nàng với một đôi mặt rất kỳ quặc,
nhưng nàng không hiểu ý nghĩa của cái nhìn ấy và chàng lại ngả người
xuống đi văng. Lúc ấy chàng có một cảm giác đau đớn nhục thể, ngực
chàng bị đè nén không sao thở được nữa. Chàng biết rằng mình cần phải
làm một cái gì để chấm dứt cảm giác đau đớn ấy, nhưng việc chàng đang
muốn làm nó ghê gớm quá.
- Chúng ta xa nhau đi thì tốt hơn - Chàng nói, giọng ngắc ngứ.
- Xa nhau à? Xin cứ việc, nhưng với điều kiện là ông phải cấp cho tôi
một gia tài - Elen nói - … Xa nhau! Ông tưởng làm tôi sợ lắm hẳn.
Piotr vụt rời đi-văng nhảy chồm lên và loạng choạng đâm nhào về phía nàng;
- Tao sẽ giết mày? - Chàng quát, và với một sức mạnh mà chàng chưa bao
giờ thấy mình có được, chàng nắm lấy cái mặt bàn tròn làm bằng cẩm
thạch và bước tới, tay giơ tấm đá vung về phía nàng.
Bộ mặt Elen trở nên khủng khiếp; nàng hét lên một tiếng lanh lảnh và
vụt nhảy lùi lại. Khí huyết của ông cha đã dấy lên mãnh liệt trong
người Piotr. Chàng cảm thấy say sưa và khoái trá trong cơn thịnh nộ.
Chàng ném tấm đá xuống sàn vỡ tan ra, và dang rộng hai cánh tay tiến về
phía Elen, chàng quát to: "Xéo ngay!", tiếng quát khủng khiếp đến nỗi
mọi người trong nhà đều nghe mà sởn gáy.
Giá Elen không chạy trốn, thì chưa biết lúc ấy chàng sẽ làm gì.
Một tuần sau, Piotr trao cho vợ một tờ giấy uỷ quyền quản trị tất cả
các điền trang của chàng ở Đại Nga, nghĩa là hơn một nửa gia tài của
chàng, rồi một mình lên đường đi Petersburg.


===========================================
Phần IV

Chương - 7 -




Hai tháng đã trôi qua từ khi tin quân ta bại trận ở Austerlix và
tin công tước Andrey tử nạn về đến Lưxye Gorư, và có nhiều bức thư nhờ
đại sứ quán gửi đi, tuy người ta đã ra sức tìm kiếm dò hỏi khắp nơi,
thi hài của công tước vẫn chưa tìm được, mà trong danh sách tù binh
cũng không có tên chàng. Điều làm cho gia quyến khổ tâm nhất là người
họ cũng vẫn có thể hy vọng rằng công tước đã được dân sở tại thu nhặt
trên chiến trường và hiện nay đang ở một nơi nào đó, hoặc đang dưỡng
bệnh hoặc đang hấp hối một thân một mình nơi quê người đất khách, không
có cách gì báo tin về nhà.
Thoạt tiên, lão công tước biết quân ta đã thua trận Auxterlilx là vì
các báo có đăng một tin rất lui hoàn toàn có trật tự. Đọc bản thông báo
chính thức này, lão công tước hiểu rằng quân ta đã thua trận.
Tám ngày sau khi tờ báo đưa tin ấy, một bức thư của Kutuzov đến báo cho công tước biết số phận của con mình.
"Cháu, ông ta viết - Ngã xuống ngay trước mặt tôi, tay cầm cờ trong khi
dẫn đầu cả binh đoàn tiến lên với tư thế một trang anh hùng xứng đáng
với cha mình và Tổ quốc. Tôi và toàn quân rất lấy làm phiền lòng rằng
mãi cho đến nay chúng tôi vẫn chưa biết cháu sống chết ra sao. Tôi tự
an ủi và xin an ủi ngài với niềm hy vọng là cháu còn sống, vì nếu không
thì cháu đã có tên trong danh sách những sĩ quan tìm được ở chiến
trường, - danh sách ấy hiện ở trong tay tôi, do quyết định hiệp thương
hai bên trao lại".
Lão công tước tiếp được tin này vào lúc đêm khuya, khi đang ngồi một
mình trong phòng làm việc. Sáng hôm sau, lão công tước đi bách bộ đúng
buổi như mọi khi; nhưng ông lặng thinh trước mặt người quản lý, người
làm vườn, viên kiến trúc sư và tuy có vẻ tức giận, ông vẫn không nói gì
với ai hết.
Khi công tước tiểu thư Maria cũng đúng giờ như mọi khi, bước vào thư
phòng, lão công tước vẫn làm việc bên bàn tiện và theo lệ thường, ông
không quay đầu lại.
- À công tước tiểu thư Maria! - công tước bỗng nói giọng gượng gạo, rồi
vứt con dao tiện. (Bánh xe ở bàn tiện đang dở đà vẫn chạy thêm một lúc.
Về sau công tước tiểu thư Maria còn nhớ rất lâu tiếng rít tắt dần của
chiếc bánh xe, hoà làm một trong tâm trí nàng với việc xảy ra sau đó).
Công tước tiểu thư đến cạnh cha, nàng nhìn thấy mặt ông cụ, và bỗng
nhiên cảm thấy một cái gì đổ vỡ. Nàng hoa mắt lên. Nhìn gương mặt ông
cụ, không buồn rầu, không đau thương, mà lại có vẻ độc ác và như đang
cố gắng gượng tự chủ, nàng biết rằng một tai hoạ ghê gớm đang treo trên
đầu nàng, nó sẽ nghiền nát nàng, mối tai hoạ lớn nhất trong đời nàng,
một tai hoạ mà nàng chưa trải qua bao giờ, một tai hoạ không thể cứu
vãn được, không thể quan niệm được, cái chết của một người nàng yêu dấu.
- Cha ơi, anh Andrey!
Công tước tiểu thư vốn xấu xí và vụng về nhưng khi nàng nói mấy tiếng
ấy, nỗi đau thương và sự quên mình của nàng có một sức quyến rũ không
lời nào tả được, đến nỗi cha nàng không chống đỡ nổi cái nhìn của nàng
mà phải ngoảnh mặt đi với một tiếng nấc nghẹn ngào.
- Ta đã nhận được tin. Trong số tù binh, trong số những người trận vong
đều không có tên nó. Kutuzov có viết thư - Ông cụ quát lên, giọng the
thé, tưởng chừng như muốn đuổi công tước tiểu thư ra - Anh mày đã tử
trận rồi!
Công tước tiểu thư không ngã, cũng không ngất đi. Mặt nàng vốn đã xanh
xao, nhưng khi nghe những lời ấy, nàng biến sắc hẳn đi và đôi mắt đẹp
của nàng như chiếu rọi những hào quang. Tưởng chừng như có một niềm
vui, một niềm vui tuyệt vời, không liên quan với những nỗi vui buồn của
thời gian, tràn lẫn cả nỗi đau thương vô hạn trong lòng nàng. Nàng quên
hết nôi khiếp sợ của nàng đối với cha bước tới cầm tay ông cụ, kéo về
phía mình rồi đưa hai cánh tay ôm lấy cải cổ khô cằn và gân guốc của
cha.
- Cha ơi! Cha đừng ngoảnh mặt đi nữa, Cha hãy cùng khóc.
- Quân đốn mạt, quân khốn nạn! - Ông cụ vừa quát lớn vừa né xa mặt
nàng, - Thí quân đội, thí bao nhiêu mạng người? Tại sao? Đi đi con, nói
cho Liza biết đi.
Công tước tiểu thư ngồi phịch xuống chiếc ghế bành bên cạnh cha và khóc
oà lên. Bây giờ nàng nhớ lại anh nàng lúc chàng từ biệt nàng và Liza
với cái dáng điệu vừa âu yếm vừa trịch thượng. Nàng hồi tưởng thấy lại
hình ảnh Andrey khi vừa âu yếm vừa m**** mai. Chàng đeo cái tượng thánh
vào cổ. "Anh ấy có tin Chúa không. Anh ấy đã mất đức tin, vậy nay anh
đã tự hối chưa? Bây giờ anh có ở trên ấy không. Ở nơi tĩnh thổ muôn đời
yên vui và hạnh phúc?" - nàng thầm nghĩ.
- Thưa cha, xin cha nói cho con biết sự việc đã xảy ra như thế nào? - nàng hỏi.
- Thôi, thôi, con đi đi, anh con đã bỏ mình trong cái trận mà người ta
đã lùa bao nhiêu người Nga ưu tú nhất vào cõi chết, trong cái trận mà
tất cả vinh quang của nước Nga đã tiêu vong. Thôi, công tước tiểu thư
Maria, con hãy đi báo tin cho Liza đi. Rồi ta sẽ đến với các con.
Khi công tước tiểu thư Maria ở trong phòng ông cụ về, công tước phu
nhân nhỏ nhắn đang ngồi thêu. Công tước phu nhân nhìn nàng với khoé mắt
đặc biệt hướng vào nội tâm và đượm một niềm vui sướng thanh thản mà chỉ
những người đàn bà có thai mới có được. Có thể thấy rõ đôi mắt phu nhân
không trông thấy tiểu thư Maria mà lại nhìn vào bên trong bản thân -
nhìn một cái gì diễm phúc và huyền bí đang diễn ra trong người nàng.
- Maria - công tước phu nhân vừa nói vừa rời khung thêu ngã người ra
phía sau - cô đưa tay đây - Phu nhân nắm lấy tay công tước tiểu thư đặt
lên bụng mình.
Mặt phu nhân mỉm cười, chờ đợi, cái môi thoáng phủ lông tơ cong lên và
cứ giữ nguyên như thế, khiến phu nhân có một vẻ vui sướng trẻ thơ: Công
tước tiểu thư Maria quỳ xuống trước phu nhân và úp mặt vào những nếp áo
của chị dâu.
- Đấy đấy cô thấy không? Tôi thấy lạ quá: Và Maria ạ, thật đấy mĩnh sẽ
yêu nó lắm cơ - Liza nói và nhìn cô em chồng, mắt sáng ngời vì hạnh
phúc.
Công tước tiểu thư Maria không ngẩng đầu lên được, nàng khóc.
- Cô làm sao thế, Masa?
- Không, chỉ vì em thấy buồn, buồn về phần anh Andrey!
Nàng vừa nói vừa lau nước mắt trên áo chị dâu. Sáng hôm sau ấy đã nhiều
lần nàng bắt đầu chuẩn bị tinh thần cho phu nhân, nhưng mỗi lần như vậy
nước mắt nàng lại cứ trào ra khiến nàng không sao nói được. Phu nhân
không hiểu tại sao nàng khóc, nhưng cũng sinh lo, mặc dầu phu nhân
không có khiếu quan sát cho lắm. Phu nhân lặng thinh không nói, nhưng
lo lắng đưa mắt nhìn quanh như muốn tìm cái gì. Trước bữa ăn, lão công
tước - xưa nay nàng vẫn sợ ông cụ, nhưng bây giờ ông cụ lại có vẻ ưu
phiền và ác nghiệt khác thường - vào phòng nàng rồi lại đi ra, không
nói một lời. Phu nhân nhìn công tước tiểu thư Maria rồi nghĩ ngợi,
trong đôi mắt lại hiện ra cái vẻ chú ý hướng vào bên trong của những
người đàn bà có thai, và bỗng bật lên tiếng khóc.
- Nhà đã nhận được tin của Andrey à?
- Không, chị biết đấy, chúng ta chưa có thể nhận được tin, nhưng cha em lo lắm, mà em cũng thấy sợ.
- Thật không có gì chứ?
- Không, không có gì đâu!
Công tước tiểu thư Maria vừa nói vừa mạnh dạn nhìn chị dâu với đôi mắt
trong sáng. Nàng quyết định không nói gì với phu nhân và cũng đã xin
được cha nàng cùng giấu kín cái tin ghê gớm ấy cho đến khi phu nhân ở
cữ xong, nghĩa là chỉ trong vài ngày nữa. Công tước tiểu thư Maria và
lão công tước, mỗi người một cách, đều mang nặng và giấu giếm nỗi đau
thương của mình. Lão công tước không muốn hy vọng; ông tin chắc rằng
công tước Andrey đã tử trận, và, tuy đã sai một người tín cẩn sang Áo
để thăm dò tung tích con, ông cũng đặt làm ở Moskva một đài kỷ niệm để
dựng lên ở trong vườn, và cũng báo cho mọi người biết tin con mình đã
chết. Lão công tước cố gắng không thay đổi gì trong cách sinh hoạt của
mình, nhưng sức lực của ông không khỏi phụ lòng ông: ông đi bộ kém, ăn
kém, ngủ kém và mỗi ngày một yếu đi.

Công tước tiểu thư Maria thì vẫn còn hy vọng. Nàng cầu nguyện cho
anh nàng như một người còn sống và từng phút một vẫn mong ngóng đợi tin
anh về.


=====================================
Phần IV

Chương - 8 -



- Maria ạ!
Công tước phu nhân nhỏ nhắn nói (lúc ấy là vào
buổi sáng ngày mười chín tháng ba, sau bữa ăn sáng) và cái môi thoáng
bóng lông tơ của nàng lại cong lên như thường lệ; nhưng vì từ khi cái
tin ghê gớm kia đưa lại, mọi việc trong nhà, từ những nụ cười giọng nói
cho chí cách đi đứng, đều đượm vẻ u buồn, cho nên công tước phu nhân
nhỏ nhắn cũng nhiễm cái tâm trạng chung ấy mặc dầu không biết rõ nguyên
nhân, nụ cười của phu nhân lại càng nhắc nhở nỗi thương tâm của mọi
người.
- Cô Maria, tôi e rằng cái món fruschlique(1), như anh bếp Foka nhà ta thường gọi ấy, sáng nay đã làm tôi ốm rồi đấy!
- Chị làm sao thế hở chị? Chị xanh lắm. Ồ, chị xanh quá đi mất - Công
tước tiểu thư Maria sợ hãi vừa nói vừa bước những bước chân nặng nề và
mềm mại chạy đến cạnh nàng.
- Thưa tiểu thư, có cần đi gọi Maria Bogdanovna không ạ, - Một trong
những người thị nữ có mặt ở đấy nói (Maria Bogdanovna là bà đỡ ở huyện
lỵ lân cận đến Lưxye Gôrư từ tuần trước).
- Phải đấy - Công tước tiểu thư Maria đáp - Có lẽ cần đấy. Tôi đi đây.
Can đảm lên, chị yêu dấu của em - Nàng ôm hôn Liza và toan ra ngoài.
- Ồ không, không! - Và thêm vào sắc da xanh nhợt trên gương mặt Liza
lại lộ rõ một nỗi sợ hãi trẻ con trước cơn đau thể xác không sao tránh
được.
- Không, đau dạ dày đấy!… Mình đau dạ dày đấy mà, nói thế đi Maria, nói
thế đi! - Và công tước phu nhân khóc oà như đứa trẻ bị đau, vẻ nũng
nịu, thậm chí hơi vờ vĩnh, hai bàn tay xinh xinh vặn vào nhau. Công
tước tiểu thư Maria chạy ra khỏi phòng đi tìm bà Maria Bogdanovna. Phía
sau lưng nàng vẫn nghe tiếng rên rỉ của Liza:
- Ôi Trời ơi, Trời ơi!
Hai bàn tay nhỏ bé trắng trẻo, xoa xoa vào nhau, bà đỡ ra đón nàng, vẻ bình tĩnh và quan trọng.
- Bà Maria Bogdanovna! Hình như đã bắt đầu rồi đấy - Công tước tiểu thư Maria nhìn bà đỡ nói, hai mắt giương to vì sợ hãi.
- Thôi cũng tạ ơn Chúa, công tước tiểu thư ạ - bà Maria Bogdanovna nói,
chân vẫn không bước vội hơn. - Các tiểu thư không nên biết những chuyện
này.
- Nhưng tại sao bác sĩ ở Moskva vẫn chưa đến? - Công tước tiểu thư nói.
(Theo yêu cầu của Liza và công tước Andrey, người ta đã mời một bác sĩ
sản khoa ở Moskva và cả nhà đang chờ đợi ông ta từng phút một).
- Không sao đâu, công tước tiểu thư ạ, tiểu thư chớ lo - Bà Maria
Bogdanovna nói - Dù không có bác sĩ thì rồi đâu cũng vào đấy cả.
Năm phút sau, công tước tiểu thư ngồi trong phòng riêng nghe có tiếng
người khiêng một cái vật gì rất nặng. Nàng nhìn ra: những người hầu
đang bưng vào phòng ngủ một chiếc đi-văng đệm da vẫn để ở trong phòng
làm việc của công tước Andrey - chẳng hiểu để làm gì. Gương mặt những
người hầu có vẻ long trọng và trầm lặng.
Công tước tiểu thư Maria ngồi một mình trong phòng riêng, lắng nghe
những tiếng động trong nhà, thỉnh thoảng lại mở cửa ra khi có tiếng
người và nhìn xem những việc đang diễn ra trong hành lang. Có mấy người
đàn bà đi qua rồi trở về, bước rón rén lặng lẽ, liếc mắt nhìn nàng và
ngoảnh mặt đi ngay. Nàng không dám hỏi họ; nàng đóng cửa lại, quay vào
phòng rồi khi ngồi vào ghế dựa, khi cầm lấy quyển kinh, khi lại đến quỳ
trước tượng thánh. Nàng ngạc nhiên và đau đớn nhận thấy rằng cầu nguyện
không đẹp yên được nỗi bồn chồn trong lòng nàng. Chợt cánh cửa phòng
nhè nhẹ mở, và trên ngưỡng cửa hiện ra một bà già đầu trùm khăn. Đó là
bà Praxkovya Xavisna, u già của nàng, lâu nay hầu như chưa lần nào vào
phòng nàng, vì có lệnh cấm của công tước.
- U đến đây để ngồi với tiểu thư một lát cho có bạn đây, Masenka ạ - Bà
già nói - Và vị thiên thần của u, u mang đến mấy cây bạch lạp thắp
trong lễ cưới của công tước ngày xưa để thắp trước tượng thánh - bà ta
thở dài nói thêm.
- Ồ ! U đến đây con mừng lắm.
- Thượng đế rất từ bi, con yêu dấu của u ạ - Người u già đứng trước bàn
thờ, thắp những cây bạch lạp cẩn vàng và ngồi xuống cạnh cửa với cuộn
len đan. Công tước tiểu thư Maria lấy một quyển sách ra xem. Chỉ khi
nào nghe tiếng chân đi hay tiếng nói, hai người mới nhìn nhau, nàng thì
có vẻ sợ hãi, dò hỏi, còn u già thì có vẻ muốn cho nàng trấn tĩnh lại.
Cái cảm giác của công tước tiểu thư trong khi ngồi ở phòng mình đã lan
ra khắp nhà và đã chi phối hết thảy mọi người. Theo sự mê tín trong dân
gian, càng ít người biết đến cơn đau đẻ thì người đẻ càng ít đau, cho
nên mọi người đều cố gắng giả vờ như không biết, không ai đả động đến
việc ấy cả, nhưng cái vẻ trang trọng và cung kính thường ngày ngự trị
trong nhà công tước, vẫn có thể thấy ai nấy đều có ý thức rằng một cái
gì cao cả, thần bí đang diễn ra trong giờ phút này.
Trong gian phòng lớn dành cho các đầy tớ gái, không có lấy một tiếng
cười. Trong phòng gia nhân, mọi người đều im lặng, sẵn sàng làm mọi
việc. Trong các gian nhà dưới, người ta đốt đuốc nhựa, tháp nến và
không một ai đi ngủ. Lão công tước thì nện gót chân đi đi lại lại trong
thư phòng và sai Tikhôn đến gặp bà Maria Bogdanovna hỏi dò tin tức.
- Mày chỉ nói: Công tước sai tôi đến hỏi bây giờ ra sao, thế rồi trở về nói cho ta biết bà ta bảo thế nào.
- Bác thưa lại với công tước rằng phu nhân đã bắt đầu lâm sản - bà
Maria Bogdanovna vừa nói vừa nhìn sai nhân một cách đầy ý nghĩa, Tikhôn
trở về báo tin cho công tước.
- Được - Công tước vừa nói vừa đóng cửa lại.
Và Tikhôn không còn nghe tiếng gì trong thư phòng nữa. Một lát sau,
Tikhôn trở về, lấy cớ là để gạt tàn nến. Thấy công tước nằm thượt trên
đi-văng, lão nhìn vẻ mặt phờ phạc của ông cụ, lắc đầu, lặng lẽ đến gần,
hôn vào vai ông cụ rồi lại trở ra, không gạt tàn nến, cũng không nói
mình vào làm gì. Điều huyền bí trang nghiêm nhất thế gian vẫn tiếp
diễn. Buổi chiều đã qua, đêm đến. Cái tâm trạng chờ đợi và mủi lòng
trước một cái gì thần bí không những không giảm mà còn mỗi lúc một
tăng. Trong nhà không một ai chớp mắt.
Đêm ấy là một đêm tháng ba, đúng vào cái tiết mà mùa đông như muốn
khẳng định lại uy quyền của nó một lần nữa và đùng đùng nổi giận, tung
ra những luồng bão táp và những trận mưa tuyết cuối cùng. Công tước đã
phái người đem mấy con ngựa lên đường cái để đón tiếp ông bác sĩ người
Đức và đã cắt đặt những người cưỡi ngựa cầm đèn *****g ở chỗ vào đường
làng để dẫn ông ta qua các ổ gà và các vũng nước ngầm lấp dưới mặt
tuyết. Người ta đang chờ đợi bác sĩ từng giây từng phút.
Công tước tiểu thư Maria đã bỏ sách xuống từ lâu; Nàng ngồi im lặng,
cặp mắt trong sáng nhìn vào khuôn mặt nhăn nheo của người u già mà nàng
quen thuộc từng chi tiết, nhìn vào món tóc bạc đâm ra ngoài khăn, nhìn
vào cái lớp da bèo nhèo dưới cổ bà ta.
U già Xavisna, tay cầm chiếc tất đan, đang thì thầm kể lại (mà cũng
không nghe và không hiểu mình nói gì) một câu chuyện mà u đã kể hàng
trăm lần, là chuyện công tước tiểu thư Maria ra đời như thế nào; mồ ma
công công tước phu nhân đã sinh nàng ở Kysinev, bà đỡ là một bà nông
dân Moldavi.
- Chúa rất từ bi, không việc gì phải mời bác sĩ - Bà ta nói. Đột nhiên
một trận gió đánh vào một cái cửa sổ đã cất khung ngoài (theo công
tước, hễ cứ đến kỳ chim sơn ca trở lại thì mỗi phòng lại cất bớt khung
ngoài trên cửa sổ)(2) làm bật cái chốt cài không khí, xô những bức màn
lụa, lùa khí lạnh và tuyết vào trong phòng và thổi ngọn nến tắt phụt.
Công tước tiểu thư Maria giật mình; U già đặt chiếc tất xuống, đến
trước cửa sổ và chồm ra bên ngoài, gắng giữ lại khung kính bị mở tung.
Gió lạnh thổi bay lất phất những đầu múi khăn của bà và những món tóc
bạc đâm ra ngoài khăn.
- Công tước tiểu thư, con ơi, có ai đang đi trên con đường chính ở cổng
trước kia kìa! - U già nói, tay vẫn nắm cái khung cửa không sao đóng
lại được. - Có đèn *****g, chắc là ông bác sĩ rồi.
- Lạy Chúa, xin đội ơn Chúa! - Công tước tiểu thư Maria nói. - Phải ra đón ông ta mới được, ông ta không biết tiếng Nga.
Công tước tiểu thư Maria vắt chiếc khăn choàng lên vai rồi chạy mau ra
đón những người mới đến. Khi chạy qua phòng ngoài, nàng nhìn qua cửa sổ
thấy trước thềm có một cỗ xe đỗ và ánh sáng lập loè của những chiếc đèn
*****g. Nàng chạy xuống cầu thang. Trên cái cột lan can có đặt một cây
nến đang chảy giọt vì gió. Filip, một người hầu, bộ mặt hoảng hốt, tay
cầm một ngọn nến khác đang đứng ở dưới, nơi chiếu nghỉ (3) thứ nhất.
Dưới nữa, ở chỗ cầu thang bắt vòng nghe có tiếng ủng lót da lông đang
bước lại gần. Và một cái giọng nói mà công tước tiểu thư Maria nghe rất
quen thuộc, đang nói một câu gì.
- Đội ơn Chúa! - Giọng nói ấy - Thế còn cha tôi?
- Công tước đã đi nghỉ - Giọng người đầu bếp Demyan ở dưới chân cầu thang đáp lại.
Rồi giọng nói lúc nãy lại nói một câu gì nữa. Đêmyan lại đáp rồi vẫn
những bước đi êm nhẹ kia tiến gần lại rất mau và bước lên chỗ bắt vòng
của cầu thang mà tiểu thư Maria không trông thấy: "Chính Andrey rồi!
Công tước tiểu thư Maria nghĩ. - Không, có lẽ nào, nếu thế thì kỳ lạ
quá!" và trong khi nàng đang nghĩ như vậy, thì khuôn mặt, rồi đến cả
hình dáng của công tước Andrey cổ áo lông lốm đốm tuyết, xuất hiện trên
cái trạm bằng có người hầu cầm ngọn nến đứng soi. Phải, chính chàng,
nhưng người xanh và gầy, vẻ mặt đổi khác, hiền hoà hơn trước một cách
lạ lùng, mặc dầu có vẻ lo lắng. Chàng bước lên bậc thang và đang tay ra
ôm lấy em.
- Số phận thật kỳ lạ! Masa em? - Chàng nói, và sau khi đã cởi áo lông và ủng, chàng bước vào phòng công tước phu nhân.

Chú thích:
(1) fruschlique - có lẽ là Frunhstuck (bữa ăn sáng - tiếng Đức).
(2) Ở Nga cửa cổ thường có hai khung để chống rét, mùa ấm thì cất bớt đi một khung.
(3) Khoảng bằng phẳng ở chỗ ngoặt giữa chừng thang gác.


=====================================
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 EmptySat Dec 25, 2010 8:40 am

Phần IV

Chương - 9 -




Công tước phu nhân nhỏ nhắn nằm dựa trên đống gối, đầu chụp một
cái mũ vải trắng (nàng vừa trải qua một cơn đau). Mấy món tóc đen uốn
cong trên hai má nóng bừng và ướt đẫm mồ hôi của nàng.
Đôi môi tươi thắm xinh đẹp, ở phía trên thoáng bóng lông tơ, đang hé
mở: nàng mỉm cười vui vẻ. Công tước Andrey bước vào và dừng lại trước
mặt nàng, dưới chân chiếc đi-văng mà nàng đang nằm. Đôi mắt sáng long
lanh với cái nhìn xúc động và sợ hãi của trẻ con, nhìn chàng, không đổi
thần sắc. Cái nhìn của nàng như muốn nói: "Tôi yêu thương tất cả các
người, tôi không ác với ai cả, vậy thì tại sao tôi lại phải chịu đau
đớn thế này? Hãy cứu giúp tôi với". Nàng trông thấy chồng, nhưng không
hiểu ý nghĩa sự có mặt của chàng trong lúc này. Andrey đi vòng qua
đi-văng và đặt một chiếc hôn lên trán nàng.
- Em yêu dấu - chàng dùng một chữ mà trước đó chàng chưa từng dùng bao giờ. - Chúa rất từ bi…
Nàng nhìn chàng có ý gạn hỏi đôi mắt đầy vẻ trách móc nũng nịu, trẻ con
của nàng như muốn nói: "Em tưởng anh đến cứu em, thế mà chả thấy gì,
chả thấy gì cả. anh cũng chỉ như người khác mà thôi!".
Chàng về không làm cho nàng ngạc nhiên; nàng không hiểu rằng chàng đã
về. Sự có mặt của chàng không thể có quan hệ gì với cơn đau của nàng và
không thể làm cho nàng bớt đau. Cơn đau lại nổi lên và Maria, bà
Bogdanovna khuyên công tước Andrey hãy tạm ra ngoài.
Bác sĩ bước vào phòng. Công tước Andrey ra và bắt gặp lại công tước
tiểu thư Maria, chàng lại đến gần nàng. Hai người nói chuyện thì thầm
với nhau nhưng mỗi lúc câu chuyện lại bị bỏ lửng, vì họ đang mải chờ
đợi và lắng tai nghe ngóng.
- Anh vào đi, anh ạ! - Công tước tiểu thư Maria nói. Công tước Andrey
lại trở về căn phòng của vợ và ngồi đợi ở phòng bên. Một người đàn bà
từ trong phòng nàng đi ra, vẻ sợ hãi, và khi nhìn thấy công tước Andrey
thì lộ vẻ luống cuống. Chàng đưa hai tay bưng mặt và cứ ngồi như thế
một lát. Những tiếng rên thảm thiết, những tiếng rên của một con vật
bất lực từ sau cánh cửa vẳng ra. Nhưng đã có ai đứng chặn lấp cánh cửa
ở phía trong.
- Không được, không được! - Một giọng hoảng hốt từ sau cánh cửa đưa ra.
Chàng bắt đầu đi đi lại lại trong gian phòng. Tiếng rên im bặt, mấy
giây nữa trôi qua. Đột nhiên, một tiếng hét khủng khiếp - không phải
tiếng kêu của nàng, nàng không thể kêu lên như vậy được - vang lên
trong phòng bên. Chàng đến cửa; tiếng hét im bặt, và nghe có tiếng trẻ
con khóc.
- Ai đem trẻ con đến đây làm gì nhỉ? - Thoạt tiên công tước Andrey tự
hỏi - Một đứa trẻ à? Đứa trẻ nào thế? Tại sao lại có một đứa trẻ ở
trong ấy? Hay là một đứa trẻ vừa mới sinh?
Khi chàng đột nhiên hiểu được ý nghĩa vui mừng của tiếng kêu ấy, nước
mắt bỗng trào ra khiến chàng nghẹn ngào: chống hai khuỷu tay trên thành
cửa sổ, chàng khóc thút thít như trẻ con. Cửa mở và người thầy thuốc
không mặc áo đuôi tôm, hai ống sơ mi xắn lên, mặt tái xanh và hàm dưới
run rẩy, bước ra khỏi phòng. Công tước Andrey muốn hỏi, nhưng ông ta
ngơ ngác đưa mắt nhìn chàng và đi vượt qua không nói một tiếng. Một
người đàn bà khác chạy ra, nhưng trông thấy công tước Andrey thì ngập
ngừng trên ngưỡng cửa. Chàng bước vào phòng vợ. Công tước phu nhân Liza
đã chết. Nàng vẫn nằm trong cái tư thế mà chàng vừa thấy năm phút trước
đây, và tuy hai con mắt đã đứng tròng và hai má đã tái nhợt, nàng vẫn
giữ cái thần sắc lúc nãy, trên gương mặt trẻ con kiều diễm, với cái môi
thoáng bóng lông măng đen, gương mặt đáng yêu tuyệt vời, gương mặt tội
nghiệp, gương mặt đã chết như muốn nói: "Tôi yêu thương tất cả các
người, tôi không ác với ai cả; sao các người nỡ đưa tôi đến nông nỗi
này?" Trong một góc phòng, có cái gì nhỏ xíu, đỏ hỏn đang kêu lí nhí
trong hai bàn tay trăng trẻo run lẩy bẩy của bà Maria Bogdanovna.
Hai giờ sau, công tước Andrey lặng lẽ vào phòng làm việc của cha. Ông
cụ đã biết hết. Ông đang đứng ngay cạnh cửa, và khi cánh cửa mở ra, ông
ôm chầm lấy cổ con trong hai cánh tay khô cứng, cằn cỗi, như trong đôi
gọng kìm, và khóc oà lên như một đứa trẻ.
Ba ngày sau được, lễ an táng công tước phu nhân Liza được cử hành. Để
từ biệt nàng, công tước Andrey lần từng bực bước lên nhà quàn. Trong
quan tài cũng vậy, mặt nàng cũng vẫn như trước, tuy hai mắt đã nhắm
nghiền. Gương mặt ấy vẫn như muốn nói: "Trời ơi sau các người nỡ đưa
tôi đến nông nỗi này?" và công tước Andrey cảm thấy có một cái gì bị xé
rách trong lòng mình, chàng cảm thấy mình có lỗi, một lỗi mà chàng
không thể nào chuộc lại được, và cũng không thể nào quên được. Chàng
không khóc được.
Đến lượt ông cụ cũng hôn bàn tay trắng như sáp điềm tĩnh đặt trên bàn
tay kia, và gương mặt ấy cũng lại nói với ông: "Ôi, sao các người nỡ
đưa tôi đến nông nỗi này?". Và trông thấy vẻ mặt ấy, ông già ngoảnh đi
nơi khác.
Sau đó năm ngày nữa, họ làm lễ rửa tội cho tiểu công tước Nikolai
Andreyevich. Người vú em áp sát ngực giữ lấy tã lót trong khi giáo sĩ
cầm lông ngỗng phết đầu vào lòng bàn tay và lòng bàn chân đỏ hỏn và
nhăn nheo của đứa bé.
Ông nội nó làm cha đỡ đầu cho nó; ông cụ ẵm nó đi chung quanh chậu nước
rửa tội bằng thiếc và có nhiều chỗ móp, tay run run vì sợ đánh rơi đứa
bé, rồi trao nó cho mẹ đỡ đầu của nó, công tước tiểu thư Maria.
Công tước Andrey lòng thấp thỏm chỉ sợ người ta làm đứa bé chết đuối,
đang ngồi trong phòng bên cạnh để chờ cho xong buổi lễ. Khi người vú ẵm
đứa bé đến, chàng vui sướng nhìn con và gật đầu tán thành khi chị ta kể
lại rằng trong chậu nước rửa tội, viên sáp quấn tóc của nó không chìm
xuống mà lại nổi lềnh bềnh trên mặt chậu(1).
Chú thích:
(1) Theo phong tục Nga, lúc rửa tội người ta quấn một sợi tóc của đứa
bé vào một viên sáp đem thả vào chậu, nếu sáp và tóc nổi lên mặt nước
là điềm tốt.
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 EmptySat Dec 25, 2010 8:41 am

Phần IV

Chương - 10 -




Việc Roxtov tham dự vào cuộc đấu súng của Dolokhov và Bezukhov đã
được dìm đi, nhờ công chạy chọt của lão bá tước, và Roxtov đã không bị
cách chức như chàng vẫn chờ đợi, mà lại được bổ làm sĩ quan phụ tá của
viên tướng tổng đốc Moskva. Do đó: chàng không thể đi theo gia đình về
nông thôn mà phải ở lại cả mùa hè ở Moskva để làm chức vụ mới của mình.
Dolokhov đã bình phục, và Roxtov càng thêm khăng khít với hắn trong
thời gian bình phục này. Khi vết thương còn nguy kịch, Dolokhov nằm ở
nhà mẹ hắn, người mẹ yêu quý hắn yêu thiết tha. Bà Maria Ivanovna có
lòng trìu mến Roxtov vì tình thân của chàng đối với Fedya(1) của bà và
thường đem chuyện con ra nói với chàng.
- Phải, bá tước ạ, con tôi nó cao thượng quá, trong sạch quá, so với
cái thời buổi thối nát này. Chả ai ưa người có đức. Đức hạnh làm cho
người ta khó chịu. Đấy, bá tước xem, hành động của Bezukhov có phải lẽ
không: có lương thiện không. Fedya cũng vì sẵn tấm lòng cao thượng nên
quý anh ta, đến bây giờ nó cũng không hề nói xấu anh ta, ở Petersburg
cái chuyện đùa nghịch viên quận trưởng cảnh sát (tôi chả biết rõ như
thế nào), có phải cả hai người cùng dính vào nhau không nào? Thế nhưng
Bezukhov thì chả việc gì, mà Fedya thì phải gánh lấy hết. Biết bao là
khổ nhục! Bây giờ họ đã phục chức cho nó, vẫn biết thế, vì không phục
chức sao được? Những người dũng cảm, những người con của Tổ quốc như
nó, tôi tưởng là phải nhiều. Thế rồi bây giờ lại đến cái việc đấu súng
ấy. Bọn họ có biết tình nghĩa là gì, danh dự là gì không? Biết nó là
con một, mà vẫn thách nó ra đấu súng rồi bắn thẳng tay vào nó! May sao
Chúa rủ lòng thương chúng tôi. Mà nó có tội tình gì? Đời bây giờ, ai là
người không dan díu? Hắn ghen, phải không? Tôi hiểu lắm, đáng lẽ hắn
phải ngỏ ý từ trước, vì câu chuyện đã kéo dài một năm chứ có phải ít
đâu. Thế mà hắn ta lại thách Fedya đấu súng, chắc cũng tưởng đâu nó sẽ
không đấu, vì Fedya có mượn tiền của hắn ta. Hèn hạ quá! Ghê tởm quá!
Tôi biết lắm, ông đã hiểu lòng của Fedya, bá tước thân yêu ạ, vì vậy
tôi hết lòng quý một tâm hồn cao cả, một tâm hồn của thượng giới.
Chính Dolokhov, trong lúc dưỡng bệnh, cũng thường nói với Roxtov những lời mà người ta không ngờ hắn có thể nói được.
- Người ta cho tôi là một kẻ độc ác, tôi vẫn biết - Dolokhov nói. -
Được, họ cứ nói. Tôi chỉ đếm x** đến những người mà tôi yêu quý nhưng
tôi đã yêu quý người nào thì tôi yêu đến mức có thể dâng cả đời tôi cho
họ; còn những kẻ khác thì tôi sẽ nghiến nát hết nếu họ cản đường tôi.
Tôi có một bà mẹ mà tôi sùng bái, một bà mẹ vô giá, hai hay ba người
bạn thân, trong đó có cậu, còn như những kẻ khác, tôi chỉ nghĩ đến họ
trong chừng mực họ có ích hay có hại. Và hầu hết là có hại, nhất là bọn
đàn bà.
- Phải, bạn à, - Hắn nói tiếp - Tôi đã từng gặp những người đàn ông có
tâm huyết, có những tình cảm quý báu, cao cả; nhưng những người đàn bà
mà không phải là đồ dĩ thoã - dù là những bá tước phu nhân hay là những
con ở nấu bếp cũng thế thôi - thì tôi chưa từng gặp bao giờ. Tôi chưa
hề được thấy cái lòng trinh bạch thần thánh và cái lòng tận tuỵ hy sinh
mà tôi vẫn tìm ở người phụ nữ. Nếu quả tôi tìm được một người đàn bà
như thế, thì tôi sẽ dâng cả dời tôi cho người ấy. Còn những bọn kia! -
Hắn khoát tay khinh miệt - Và tôi nói thế này không biết cậu có tin
không: sở dĩ tôi còn muốn sống ở đời chỉ vì là tôi chưa mất hết hy vọng
được gặp một người thiên giới có thể đưa lại cho tôi sống lại về tinh
thần, có thể làm cho tôi trong sạch và cao cả lên. Nhưng cậu không hiểu
đâu!
- Có chứ, tôi hiểu lắm. - Roxtov đáp, lúc này đang chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của người bạn mới.
Đến mùa thu, gia đình Roxtov lại trở về Moskva. Đầu mùa đông, Denixov
cũng về đấy và đến nhà Roxtov. Mùa đông năm 1806 mùa đông đầu tiên mà
Nikolai Roxtov sống ở Moskva, là một trong những thời kỳ hạnh phúc nhất
và vui vẻ nhất đối với chàng và gia đình chàng. Nikolai đã thu hút được
số đông thanh niên đến chơi nhà cha mẹ chàng. Vera bây giờ đã là một
giai nhân hai mươi tuổi; Sonya là một cô gái mười sáu tuổi với tất cả
vẻ yêu kiều của một đoá hoa chớm nở; Natasa thì nửa là thiếu nữ nửa là
trẻ con, khi thì ngộ nghĩnh như một em bé, khi thì lại có sức làm đắm
đuối lòng người của một nàng trinh nữ.
Hồi ấy nhà Roxtov đượm nhuần cái không khí yêu đương đặc biệt của những
gia đình có những cô con gái rất trẻ và rất xinh. Khi thấy những khuôn
mặt cởi mở và tươi cười (chắc hẳn là cười với hạnh phúc của mình, những
chuyến ra vào qua lại rộn rịp, khi nghe tiếng cười nói thỏ thẻ, tuy
chẳng có mạch lạc gì nhưng là hậu tình đối với mọi người và tràn đầy hy
vọng, khi nghe những âm hưởng rời rạc, khi thì tiếng nhạc, khi thì
tiếng can những người trẻ tuổi đến chơi nhà cũng nhiễm cái tâm trạng
đón chờ tình yêu và hạnh phúc mà bọn thiếu niên nam nữ trong gia đình
Roxtov đều đang cảm thấy.
Trong số các bạn trẻ mà Nikôlai đưa về nhà thì Dolokhov là một trong
những người thân nhất, hắn dược lòng mọi người: trừ Natasa. Nàng đã
suýt bất hoà với anh nàng vì Dolokhov. Nàng quá quyết rằng hắn là một
người xấu, và trong một cuộc đấu súng với Bezukhov, Piotr là phải mà
Dolokhov đã quấy, rằng Dolokhov khó chịu và không tự nhiên.
- Em chả cần biết cái gì hết! - Nàng nói to, giọng bướng bỉnh. Hắn là
người ác, hắn không có tình. Này nhé cái anh Denixov ấy mà, em thích
anh ấy lắm, anh ấy cũng chơi bời đủ cả, nhưng em cũng cứ thích anh ấy
thế nghĩa là em cũng hiểu chứ có phải không đâu. Em không biết nói thế
nào cho anh rõ bây giờ, còn cái anh Dolokhov thì cái gì cũng tính toán
trước, mà đó là một điều em không thích. Denixov thì…
- À Denixov thì khác - Nikolai đáp, chàng muốn ngụ ý rằng so với
Dolokhov thì Denixov chả thấm vào đâu - phải biết cái anh Dolokhov ấy,
tâm tình anh ấy ra sao, phải biết anh ta ăn ở với em như thế nào, một
tấm lòng vàng!
- Cái đó em không biết, nhưng tiếp xúc với anh ta em thấy khó chịu lắm. Thế anh có biết anh ta phải lòng Sonya rồi không?
- Chỉ nói bậy…
- Em biết chắc như thế, rồi anh xem.
Natasa nói đúng. Dolokhov vốn là người không thích giao du với phụ nữ,
thì nay đã trở thành một người khách thường ngày của gia đình và chẳng
bao lâu, mọi người đều biết chắc rằng chàng đến đây vì Sonya (tuy không
nói ra), Sonya không dám nói nhưng cũng biết thế và mỗi khi thấy
Dolokhov đến mặt nàng cứ đỏ lên như hoa mẫu đơn.
Dolokhov thường hay ăn bữa chiều ở nhà Roxtov, không vắng mặt ở một
buổi diễn kịch nào có gia đình này dự, và cũng thường đến hội khiêu vũ
nữ thiếu niên ở nhà Yôghel vì gia đình Roxtov cũng đến đây rất nhiều.
Hắn tỏ ra đặc biệt ân cần đối với Sonya, và nhìn nàng một cách khác
thường đến nỗi mỗi khi bắt gặp đôi mắt hắn, nàng không tài nào giữ được
sắc mặt bình thường, không những thế, ngay cả bá tước phu nhân và
Natasa trông thấy cũng phải đỏ mặt.
Mọi người đều thấy rằng con người cường tráng và lạ lùng ấy đang mê mẩn
vì cô thiếu nữ tóc đen duyên đáng yêu kiều bấy giờ đang yêu một người
khác.
Roxtov nhận thấy có cái gì khác trước giữa Dolokhov và Sonya, nhưng
chàng không tìm cách xác minh xem mối quan hệ mới ấy là thế nào. "Các
cô ấy khi nào cũng phải yêu một người nào đấy" - chàng tự nhủ khi nghĩ
đến Sonya và Natasa. Nhưng chàng thấy có cảm giác gì lúng túng khó chịu
khi ở trước mặt Sonya và Dolokhov cho nên chàng ít ở nhà hơn trước.
Từ mùa thu năm 1806, người ta lại nói đến chiến tranh chống Napoléon
một cách hăng hái hơn năm trước. Có sắc lệnh ban xuống là cứ một nghìn
dân thì tuyển mộ mười người vào quân đội, ngoài ra, cứ một nghìn dân
lại tuyển mộ chín người dân binh. Ở đâu đâu người ta cũng nguyền rủa
Buônapáctê, ở Moskva không ai nói gì ngoài chuyện chiến tranh ấy, bao
nhiêu sự quan tâm của gia đình Roxtov đều tập trung vào một việc ấy là
Nikolai nhất định không chịu ở lại Moskva và chàng chỉ còn chờ Denixov
hết hạn nghỉ để cùng anh lên đường trở lại binh đoàn, sau những ngày
thánh tiết.
Ngày ra đi gần gũi ấy không những không ngăn cấm chàng vui chơi, mà lại
còn khuyến khích chàng là khác. Phần lớn thời gian chàng sống ở ngoài
gia đình, vào những cuộc yến tiệc, dạ hội và khiêu vũ.

Chú thích:
(1) Cách gọi âu yếm Fiodor Dolokhov


==================================
Phần IV

Chương - 11 -




Ngày thứ ba trong tết Noël, Nikolai ăn bữa chiều ở nhà, một việc
rất ít có trong thơi gian gần đây. Bữa ăn chiều hôm ấy là một tiệc tiến
hành chính thức, vì Denixov và chàng đều trở lại binh đoàn sau ngày
Chúa hiển(1). Khách dự tiệc có vài chục người, trong đó có Dolokhov và
Denixov.
Chưa bao giờ cái không khí ái ân tình tứ trong gia đình Roxtov lại nồng
đượm như trong những ngày lễ này. Cái không khí như khuyên nhủ mọi
người hãy bắt lấy những giây lát hạnh phúc đang trôi qua, hãy làm sao
cho người khác yêu mình, mà lòng mình cũng phải yêu đi? Đó là điều duy
nhất có giá trị trên thế gian: ngoài ra không có gì đáng kể. Và đó là
điều duy nhất mà tất cả chúng ta đều quan tâm.
Nikolai cũng như thường lệ, đã làm cho hai đôi ngựa mệt lả mà không đi
được hết những chỗ cần thiết, cũng không đến dự được hết những chỗ mời
mình, chàng về vừa đúng lúc cả nhà sắp ngồi vào bữa ăn chiều. Thoạt mới
bước vào chàng đã cảm thấy cái không khí yêu đương trở nên căng thẳng,
nhưng thêm vào đó chàng còn nhận thấy một thái độ ngượng nghịu lạ lùng
giữa một vài người cùng ngồi trước bàn ăn. Những người bị xúc động nhất
là Sonya, Dolokhov, lão bá tước phu nhân và một phần nào cả Natasa nữa.
Nikolai hiểu rằng trước bữa ăn đã có một việc gì xảy ra giữa Sonya và
Dolokhov, và với cái tâm tình tế nhị và nhạy cảm sẵn có, trong bữa ăn,
chàng đã tỏ ra đặc biệt âu yếm và nương nhẹ đối với cả hai người.
Cũng trong buổi tối ngày tết thứ ba ấy, Yoghel (ông thầy dạy khiêu vũ)
có tổ chức một buổi vũ hội để mời tất cả những người học trò của mình.
Natasa nói với Nikolai:
- Nikôlenka, anh sẽ đến nhà Yoghel đấy chứ. Anh đến nhé! Em van anh.
Ông ta đặc biệt khẩn khoán mời anh đến mãi đấy, mà Vaxili Dmitrich (tức
là Denixov) cũng đã hứa đến đấy.
- Bá tước tiểu thư đã truyền lệnh thì chỗ nào mà tôi chẳng đến -
Denixov nói đùa, tự đặt mình vào cương vị một kỵ sĩ phụng sự(2) Natasa,
- Tôi xin sẵn sàng nhảy bước khăn san.
- Anh sẽ đi nếu có thì giờ. Anh đã hứa đến gia đình Ackharov, ở đấy có
dạ hội. - Nikolai nói. - Còn cậu? - Chàng hỏi Dolokhov. - Nhưng hỏi
xong chàng mới chợt thấy rằng đáng lẽ mình không nên hỏi như thế.
- Có lẽ sẽ đi cũng nên. - Dolokhov vừa đáp một cách lạnh nhạt và có vẻ
phật ý, vừa đưa đưa mắt về phía Sonya, rồi cau mày nhìn Nikolai đúng
như cách hắn đã nhìn vào mắt Piotr trong bữa tiệc ở câu lạc bộ.
"Có chuyện gì đây" - Nikolai thầm nghĩ, và khi thấy Dolokhov bỏ ra về
ngay sau bữa cơm, chàng lại càng thấy điều phỏng đoán của mình là đúng.
Chàng gọi Natasa lại hỏi xem có việc gì xảy ra.
"Chính em đang đi tìm anh, - Natasa vừa nói vừa chạy vào - thì em đã
nói với anh mà không chịu tin, - nàng nói, vẻ đắc thắng - Hắn ta đã ngỏ
lời cầu hôn Sonya.
Tuy Nikolai không quan tâm đến Sonya cho lắm, nhưng chàng vẫn cảm thấy
như một cái gì bị xé rách trong lòng khi nghe tin ấy. Dolokhov là một
đám rất khả quan và về một mặt nào đó còn có thể xem là xuất sắc nữa là
khác, đối với một cô gái mồ côi và không có của hồi môn như Sonya. Theo
quan điểm của lão bá tước phu nhân và của giới xã giao thì không có lý
do gì mà cự tuyệt anh ta. Cho nên cái cảm giác đầu tiên trong lòng
Nikolai là thấy hờn giận Sonya. Chàng sắp sửa nói: "Được lắm, dĩ nhiên
cô ấy phải quên những lời hẹn ước thuở nhỏ và phải nhận lời", nhưng
chàng chưa kịp nói, thì Natasa nói tiếp:
- Anh có tưởng tượng được không, chị ấy đã cự tuyệt: thẳng tay cự
tuyệt! Chị ấy nói là đã yêu một người khác - Nàng nói thêm sau một giây
im lặng.
"Mà Sonya của ta cũng không thể nào hành động khác được!" - Nikolai nghĩ
- Mẹ đã hết lời van xin chị ấy, mà chị ấy vẫn cự tuyệt, và em biết chị ấy mà đã nói gì thì không bao giờ thay đổi ý kiến đâu.
- Mẹ đã van xin à! - Nikolai nói, giọng trách móc.
- Phải, - Natasa nói - Này, anh Nikolai, em nói thế này anh đừng giận
nhé, em biết là anh sẽ không lấy chị ấy đâu. Em biết. Còn tại sao em
biết thì có mà trời biết, nhưng em biết chắc anh sẽ không lấy chị ấy
đâu.
- Cái đó thì em không biết được đâu, - Nikolai nói - Nhưng anh phải nói
chuyện với Sonya mới được. Cái cô Sonya ấy thật đáng yêu quá! - Chàng
mỉm cười nói thêm.
- Đáng yêu! Còn phải nói! Để em gọi đến cho anh nhé - Natasa ôm hôn Nikolai rồi chạy đi.
Một lát sau, Sonya đi vào, vẻ bối rối, sợ hãi vì ngượng ngùng như người
có lỗi. Nikolai đến hôn tay nàng. Đây là lần đầu tiên từ khi chàng về
mà họ nói chuyện riêng với nhau về mối tình giữa hai người.
- Sophi, - chàng nói, trước còn rụt rè, nhưng rồi dần dần mạnh dạn hơn
lên - không những cô định cự tuyệt một đám xuất sắc xứng đáng, mà đó
lại là một người ưu tú, cao thượng… đó là bạn tôi…
Sonya ngắt lời chàng, nói vội:
- Em đã cự tuyệt rồi.
- Nếu cô cự tuyệt vì tôi, thì e rằng…
Sonya lại ngắt lời chàng một lần nữa. Nàng ngước mắt nhìn chàng, vẻ van lơn và sợ hãi.
- Nikolai, anh đừng nói thế.
- Không, tôi phải nói. Có lẽ về phần tôi thì nói như thế này là hợm
mình, nhưng cứ nên nói thì hơn. Nếu cô cự tuyệt vì tôi, thì tôi có bổn
phận phải nói hết chân tình để cô rõ. Tôi cho rằng tôi yêu cô hơn bất
cứ người nào ở trên đời…
- Thế là đủ rồi - Sonya nói, mặt đỏ bừng.
- Nhưng tôi yêu đã hàng nghìn lần rồi, mà tôi sẽ còn yêu nữa, mặc dầu
chưa có ai làm cho lòng tôi có được một mối tình đằm thắm, một tấm lòng
tin cậy, một niềm trìu mến thiết tha như cô. Vả lại tôi còn ít tuổi. Mẹ
không thuận lòng. Tóm lại, tôi không dám hứa gì. Và tôi xin cô nghĩ lại
lời thỉnh cầu của Dolokhov. - Chàng nói đến tên bạn một cách khó khăn.
- Anh đừng nói thế. Em không mong muốn gì hết. Em yêu anh như một người
anh, và em sẽ yêu anh mãi mãi, ngoài ra em không cần gì nữa.
- Cô là một vị thiên thần, tôi không xứng đáng với cô, tôi chỉ sợ một điều, là phụ lòng cô.
Nói đoạn Nikolai hôn tay nàng một lần nữa.
Chú thích:
(1) Lễ kỷ niệm ngày Chúa Cơ đốc được thánh Joan rửa tội bằng nước sông Jordan.
(2) Thời Trung cổ, các kỵ vĩ đều chọn một người thiếu nữ (hay thiếu
phụ) quý tộc làm công nương, và tự xem mình là kẻ phụng sự vị công
nương đó.
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 EmptySat Dec 25, 2010 8:47 am

Phần IV

Chương - 12 -



Những buổi dạ hội khiêu vũ ở nhà Yoghel là những buổi dạ hội vui
nhất ở Moskva. Các bà mẹ thường nói thế khi nhìn những cô thiếu nữ mới
lởn của họ tập thử những bước nhảy mới học được; chính các cô thiếu nữ
và các cậu thiếu niên mới lớn cũng nói thế, họ nhảy cho kỳ mệt lả;
những cô con gái lớn tuổi, những chàng thanh niên cũng nói thế: họ đến
dự những cuộc khiêu vũ ấy để tỏ lòng chiếu cố, thế nhưng ở đó họ lại
vui thích hơn ở đâu hết. Chính năm ấy, hai đám cưới đã được tổ chức nhờ
những buổi vũ hội ở nhà này.
Hai công tước tiểu thư Gortsakova xinh đẹp đã tìm được lứa đôi ở đó, và
điều này lại càng làm tôn thanh danh của những cuộc khiêu vũ ấy lên.
Trong những cuộc khiêu vũ ấy có một điểm đặc biệt, là ở đó không có ông
chủ hay bà chủ nhà: chỉ có Yoghel, con người chất phác hồn hậu; Yoghel
bay múa nhẹ nhàng như một chiếc lông chim, cúi đầu nghiêng mình thi lễ
theo đúng mọi phép tắc của nghệ thuật khiêu vũ và tất cả tân khách của
ông đều trao cho ông những tấm phiếu đề đền công dạy dỗ. Những cuộc
khiêu vũ ấy còn có một đặc điểm nữa là đến đó chỉ có những người thích
khiêu vũ và thích vui chơi như những thỉếu nữ mười ba, mười bốn tuổi
mới mặc áo dài lần đầu tiên. Tất cả các thiếu nữ ấy, trừ một vài trường
hợp ngoại lệ rất hiếm đều xinh đẹp, hay có vẻ xinh đẹp, vì trong nụ
cười của các cô có biết bao là phấn khởi, trong khoé mắt của các cô có
biết bao là hào quang. Một đôi khi, những cô học trò giỏi nhất cũng còn
nhảy cả bước khăn san nữa, mà giỏi nhất là Natasa, vì nàng rất uyển
chuyển nhẹ nhàng; nhưng lần này thì người ta chỉ nhảy diệu Scotland,
điệu Anh và điệu Mazurka hiện đang thịnh hành. Yoghel đã mượn được một
gian phòng lớn ở nhà Bezukhov và mọi người đều nhận rằng cuộc khiêu vũ
đã thành công mỹ mãn. Có rất nhiều thiếu nữ xinh đẹp, mà hai chị em nhà
Roxtov lại ở trong số những cô xinh đẹp nhất. Cả hai đều sung sướng và
vui vẻ lạ thường. Rất hào hứng sau khi đã được Dolokhov cầu hôn và đã
cự tuyệt, và sau khi đã giãi bày vớỉ Nikolai, ngay khi còn ở nhà Sonya
đã nhảy nhót quay cuồng, làm cho những người đầy tớ gái không sao tết
xong đôi bím tóc cho nàng được, và bây giờ thì khắp người nàng bừng
sáng lên một niềm vui sướng bồng bột.
Natasa, cũng không kém phần kiêu hãnh vì lần đầu tiên được mặc áo dài
trong một cuộc khiêu vũ thật sự, lại càng sung sướng hơn nữa. Cả hai
chị em đều mặc áo dài bằng sa trắng có thắt đai hồng.
Natasa bắt đầu yêu ngay từ lúc nàng mới bước chân vào phòng khiêu vũ.
Nàng không yêu riêng một người nào, nàng đồng thòi yêu tất cả mọi
người. Nàng yêu người mà nàng đang nhìn, trong giây phút nàng nhìn
người ấy, cứ mỗi khi chạy đến với Sonya nàng lại thốt lên:
- Ô thích quá!
Nikolai và Denixov vừa rảo bước trong phòng vừa nhìn những người khiêu vũ với con mắt trìu mến và bao dung.
- Cô ấy dễ thương quá, sau này sẽ là một cô gái đẹp - Denixov nói.
- Ai thế?
- Bá tước tiểu thư Natasa ấy - Denixov đáp, im lặng một lát, chàng lại nói - Mà cô nhẩy múa nhẹ nhàng và uyển chuyển quá chừng?
- Nhưng cậu nói ai thế?
- Nói em cậu, - Denixov nổi gắt đáp.
Roxtov mỉm cười.
- Bá tước thân yêu của tôi, bá tước là một trong những người học trò
giỏi nhất của tôi, bá tước phải nhảy mới được, - Ông Yoghel nhỏ bé vừa
nói vừa lại gần Nikolai - Bá tước xem, bao nhiêu là tiểu thư xinh đẹp.
Ông ta cũng ngỏ lời yêu cầu Denixov khiêu vũ, vì Denixov cũng là học trò cũ của ông.
- Không, ông bạn thân ạ, tôi chỉ đến xem thôi! - Denixov nói - Ông đã quên là hồi trước tôi học kém đến thế nào rồi ư?
- Đâu có thế! - Yoghel vội vàng an ủi anh ta. Chỉ phải cái ông không chú ý, nhưng ông có tư chất, phải: ông có tư chất lắm.
Người ta lại cử điệu nhạc Mazurka đang thịnh hành lúc bấy giờ.
Nikolai không thể nào từ chối Yoghel, liền mời Sonya ra nhảy Denixov
ngồi gần các bà già, và khuỷu tay chống trên thanh kiếm.
Chân giẫm lên theo nhịp đàn, chàng vừa vui vé kể lại một câu chuyện gì
làm cho các bà cười. Vừa nhìn thanh niên nhảy, Yoghel mở đầu cuộc khiêu
vũ với Natasa là một cô học trò giói nhất: là niềm kiêu hãnh của ông
ta. Lướt nhẹ trên đôi giày điệu vũ, ông ta bay qua gian phòng lớn với
Natasa e lệ nhưng chăm chỉ cố nhảy cho đúng cách. Denixov không rời mắt
nhìn nàng và vỗ gươm đánh nhịp, tỏ rõ rằng sở dĩ chàng không nhảy chỉ
là vì không muốn nhảy. Chứ không phải vì không biết nhảy. Giữa một vũ
hình, chàng Roxtov bấy giờ đang đi qua.
- Hoàn toàn không phải thế - Denixov nói - Như vậy mà gọi là Mazurka Ba Lan được à. Nhưng cô em nhảy giỏi lắm.
Nikolai biết rằng ngay ở Ba Lan. Denixov cũng nổi tiếng là một tay nhảy Mazurka cừ khôi. Chàng chạy đến gần Natasa.
- Em lại mời anh Denixov đi. Anh ấy mới thật là tay khiêu vũ giỏi. Giỏi tuyệt! - chàng nói.
Khi lại đến lượt Natasa nàng đứng dậy và lướt nhanh trên đôi giày nhỏ
thắt dải lụa e lệ chạy ngang qua phòng bên đến chỗ Denixov ngồi, ở góc
phòng. Nàng biết rằng mọi người đều chờ và đều nhìn nàng. Nikolai thấy
Denixov và Natasa đang tươi cười tranh luận với nhau. Denixov từ chối
nhưng vẫn không ngừng mỉm cười vui vẻ. Chàng chạy đến chỗ hai người.
- Tòi van anh. Vaxili Dmitrich, - Natasa nói - Xin mời anh lại, tôi van anh.
- Tôi nói thật, xin bá tước tiểu thư miễn cho. - Denixov đáp.
- Thôi ra đi Vaxia - Nikolai nói.
- Tuồng như người ta nhất định muốn dỗ ngọt con mèo Vaska thì phải - Denixov đùa.
- Tôi sẽ hát suốt một buổi tối cho anh nghe, - Natasa nằn nì.
- Đạo cô cao tay ấn như vậy, muốn bắt tôi làm vì mà tôi chả phải làm! - Denixov nói đoạn tháo gươm.
Từ đằng sau dãy ghế chàng bước ra, nắm tay người bạn nhảy, ngẩng đầu
lên và đưa chân ra đợi nhịp. Chỉ khi nào chàng cưỡi ngựa và nhảy
Mazurka trù người ta mới không thấy chàng thấp nữa, và chàng mới trở
thành trai tráng hùng dũng đúng như chàng tự nghĩ. Nghe tiếng gọi của
nhịp điệu, Denixov đưa mắt nhìn nghiêng sang người bạn nhảy một cách
đắc thắng và cười cợt, rồi bỗng giẫm chân xuống sàn nhà, nháy bật lên
một cách mềm dẻo như quả cầu và bay lượn từng vòng, kéo người bạn theo
sau. Chàng nhảy một chân khắp nửa gian phòng rộng, lướt êm không tiếng
động, tưởng chừng như không thấy những chiếc ghế trước mặt và cứ đâm
thẳng vào đấy; rồi bỗng dưng, đánh cựa giày kêu lanh canh, hai chân
chạng ra, chàng đứng yên trên gót giầy một lát, rồi giẫm chân tại chỗ
một lúc làm cựa giày kêu lên loạng choạng, chàng xoay người, rồi chân
trái đập vào chân phải, chàng lại bay đi theo hình vòng tròn. Natasa
đoán được ý chàng muốn gì và bất giác tự phó thác vào tay chàng mà
nhảy. Có khi chàng dùng tay phải hay tay trái đẩy nàng quay, có khi,
một chân quỳ xuống, chàng lại đưa nàng bước thành một vòng tròn xung
quanh mình rồi lại nhảy bật lên và lao về phía trước nhanh vun vút, đến
nỗi người ta có thể tưởng chàng muốn chạy khắp các phòng một hơi; có
khi chàng đứng lại một cách đột ngột rồi lại nhảy một vũ tiết mới, rất
bất ngờ. Khi Denixov nhanh nhẹn đẩy Natasa quay một vòng trở về chỗ
ngồi và nghiêng mình cảm ơn nàng trong khi cựa giày kêu lanh canh,
Natasa quên cả nhún mình đáp lễ. Nàng mỉm cười nhìn Denixov nói với đôi
mắt ngỡ ngàng tưởng chừng như không nhận ra chàng nữa.
- Cái gì thế nhỉ, làm sao thế? - Nàng nói.
Mặc dầu Yoghel cho rằng đó không phải là điệu Mazurka chân chính, nhưng
kỹ thuật khiêu vũ tuyệt vời của Denixov cũng làm cho mọi người nô nức;
người ta luôn luôn mời chàng nhảy, và các ông già mỉm cười bắt đầu tán
chuyện Ba Lan, nhắc nhở thời xưa êm đẹp. Denixov, nước da đỏ ửng vì
điệu vũ, lấy khăn tay thấm mồ hôi trên trán và ngồi bên cạnh Natasa
suốt buổi không rời nàng nữa.
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 EmptySat Dec 25, 2010 8:47 am

Phần IV

Chương - 13 -



Hai ngày sau, Roxtov không thấy Dolokhov đến nhà mình, mà chàng
đến nhà hắn cũng không gặp; ngày thứ ba chàng nhận được của hắn một
mảnh giấy:
"Tôi không còn có ý định đến nhà cậu nữa - Vì những lý do gì thì cậu
cũng biết - Và tôi lại sắp trở lại quân đội, cho nên tôi muốn mời các
bạn tối nay đến dự một buổi tiệc tiễn biệt nho nhỏ; vậy cậu đến khách
sạn Anh, khoảng mười giờ tối".
Ở nhà hát ra (Roxtov cùng đi xem kịch với gia đình Denixov), Roxtov đến
thẳng khách sạn Anh. Người ta lập tức dẫn chàng đến gian phòng đẹp nhất
mà Dolokhov đã giữ cho buổi tối hôm ấy.
Khoảng hai mươi người đang xúm quanh một cái bàn; Dolokhov ngồi trước
bàn, giữa hai cây đèn nến. Trên bàn có những cọc tiền vàng và những xếp
giấy bạc. Dolokhov đang cầm cái. Từ khi Dolokhov cầu hôn và bị Sonya từ
chối, Nikolai chưa lần nào gặp lại hắn và cảm thấy ngượng mỗi khi nghĩ
đến lúc gặp mặt hắn.
Khoé mắt sáng và lạnh của Dolokhov đón chàng ngay khi chàng mới bước qua ngưỡng cửa, như thể hắn cố ý chờ đợi chàng từ lâu.
- Lâu ngày quá - Dolokhov nói - Cảm ơn cậu đã đến dự. Cho tôi cầm cái nốt ván này đã, Ilyuska sắp đến với đoàn ca vũ đấy.
- Mình có ghé qua nhà cậu - Roxtov đỏ mặt nói.
Dolokhov không đáp.
- Cậu đặt cửa cũng được - Hắn nói.
Lúc đó, Roxtov sực nhớ đến một cuộc nói chuỵên kỳ lạ giữa chàng và
Dolokhov dạo trước. Hôm ấy Dolokhov nói: "Chỉ có những thằng ngốc thì
khi đánh bạc mới trông vào sự đỏ đen". Bây giờ hắn lại nói, dường như
đã đoán được ý nghĩ của chàng:
- Hay là cậu sợ không dám đánh với mình? - Rồi hắn mỉm cười Qua nụ cười
ấy, Roxtov nhận thấy hắn đang ở trong một tâm trạng giống như hôm dự
tiệc ở Câu lạc bộ và nói chung là giống như những lúc hắn chán ngấy
cảnh sinh hoạt hàng ngày, thấy cần phải tìm lối thoát bằng một hành vi
quái gở, thường là tàn ác.
Roxtov thấy lúng túng khó chịu; chàng cố nghĩ một câu nói đùa gì để trả
lời Dolokhov. Nhưng chưa tìm ra thì Dolokhov đã nhìn chòng chọc vào mặt
chàng và nói với chàng một cách chậm rãi và tách rời từng tiếng khiến
mọi người đều nghe thấy:
- Cậu còn nhớ đấy, một hôm chúng mình nói chuyện về cờ bạc… Chúng mình
nói rằng ai đánh bạc theo đỏ đen là ngốc, đánh bạc thì phải ăn chắc,
bây giờ tôi muốn làm thử.
"Thử đánh theo đỏ đen hay là ăn chắc", Roxtov nghĩ thầm.
- Nhưng thôi, cậu đừng đánh thì hơn - Dolokhov nói, rồi trang một bộ
bài mới bóc để trên bàn, hắn nói thêm: "Mời các vị đặt tiền".
Đẩy đống tiền ra trước mặt. Dolokhov sắp sửa chia bài, Roxtov ngồi
xuống bên cạnh hắn nhưng lúc đầu không đánh. Dolokhov chốc chốc lại
liếc mắt nhìn chàng.
- Tại sao cậu không đánh? - hắn nói.
Và lạ sao! Nikolai tự thấy bắt buộc phải cầm lấy một quân bài đặt ra một số tiền nhỏ và bắt đầu đánh.
- Tôi không mang tiền theo - chàng nói.
- Tôi cho cậu đánh chịu!
Roxtov đặt năm rúp trên một lá bài. Chàng thua. Lại đặt nữa, và thua nữa. Dolokhov được luôn mười ván.
- Thưa các vị, - Hắn nói sau khi cầm cái được ít lâu, - Tôi xin các vị đặt tiền lên trên bài, nếu không có thể tôi tính nhầm.
Một người đánh bài ngỏ ý hy vọng rằng nhà cái sẽ tin hắn mà cho hắn đánh chịu.
- Đánh chịu cũng được, nhưng tôi chỉ sợ tính nhầm, xin cứ đặt tiền trên
quân bài, - Dolokhov đáp - Riêng cậu thì cứ tự do, chúng ta sẽ tính
sau, - hắn nói thêm với Roxtov.
Canh bạc tiếp tục: một người hầu luôn tay rót rượu sâm banh.
Bài của Roxtov ván nào cũng thua và số tiền thua của chàng đã lên đến
tám trăm rúp. Chàng đã viết tiền ấy lên một quân bài, nhưng trong khi
người hầu rót sâm banh cho chàng, chàng nghĩ lại và chỉ viết số tiền
đặt bình thường là hai mươi rúp.
- Cứ để đã - Dolokhov nói, tuy làm ra vẻ không nhìn chàng - cậu sẽ gỡ
lại mau hơn. Tôi toàn chung cho người khác và toàn thu của cậu cả. Hay
là cậu sợ tôi? - Hắn nhắc lại.
Roxtov làm theo, cứ đế nguyên con số tám trăm rúp ghi trên tấm bài và
đặt xuống một con bảy cơ gãy góc mà chàng mới nhặt ở dưới đất lên mãi
về sau chàng vẫn còn nhỏ con cơ này. Chàng lấy phấn viết tám trăm rúp
bằng chữ số tròn và thẳng lên trên con bảy cơ và đưa con bài ấy ra
đánh, rồi nốc hết cốc sâm banh mà người hầu rót từ lúc nãy bây giờ đã
hết lạnh. Nghe câu nói của Dolokhov, chàng mỉm cười, và lòng hồi hộp,
chàng mong chờ một con bảy trong khi nhìn tay Dolokhov cầm bộ bài. Ăn
hay thua con bảy cơ này cũng là một việc rất quan trọng đối với chàng.
Hôm chủ nhật vừa rồi bá tước Ilya Andreyevich cho con hai nghìn rúp;
ông cụ không hay nói đến những khó khăn về tiền nong, nhưng hôm ấy ông
cụ lại phải báo trước cho chàng biết rằng đó là số tiền cuối cùng mà
ông có thể cấp cho chàng trước tháng năm và dặn chàng lần này phải dè
xẻn hơn trước. Nikolai đáp lại rằng số tiền ấy đã quá mức yêu cầu của
chàng rồi, và lấy danh dự hứa rằng từ giờ cho đến tháng năm sẽ không
xin thêm tiền của gia đình nữa. Thế mà trong cái số tiền ấy, nay chỉ
còn lại một ngàn hai trăm rúp. Cho nên, con bảy cơ không những có thể
làm cho chàng mất một ngàn sáu trăm rúp, mà còn có cơ khiến chàng, phải
lỗi lời hứa hẹn. Lòng hồi hộp, chàng nhìn hai bàn tay của Dolokhov và
nghĩ thầm: "Thôi, mau lên, chung cho tôi con bài ấy; để tôi lấy mũ về
ăn bữa khuya với Denixov, Natasa và Sonya, và nhất định từ rày không
bao giờ tôi còn mó đến quân bài nữa". Giờ phút này, cuộc sống gia đình
của chàng - những trò đùa nghịch với Peyta, những câu chuyện với Sonya
những bài song ca với Natasa, những ván Pich-kê với ông cụ và cả đến
cái giường êm ái ở phố Povarxkaya nữa - tất cả những hình ảnh ấy hiện
ra trong tâm trí chàng mạnh mẽ, rõ ràng và đầy sức quyến rũ, tựa hồ đó
là một hạnh phúc đã đi qua đã mất đi từ lâu mà trước đây chàng đã không
biết đánh giá cho đúng. Chàng không thể thừa nhận rằng một sự ngẫu
nhiên ngu xuẩn làm cho con bảy chia sang bên phải chứ không chia sang
bên trái mà lại có thế cướp mât của chàng cái hạnh phúc mà chàng mới
hiểu rò giá trị, mà có thể ném chàng xuống cái vực sâu thăm thẳm của
một nỗi bất hạnh mà chàng chưa trải qua bao giờ và hãy còn mịt mùng
trong tương lai. Không thể nào như thế được, nhưng lòng chàng cũng hồi
hộp theo dõi bàn tay của Dolokhov đang cử động. Hai bàn tay to rộng ấy
da hơi đỏ, với dám lông thòi ra ngoài ống áo sơ mi đặt bộ bài xuống cầm
lấy tẩu thuốc và cốc rượu mà người hầu vừa đưa đến.
- Này, đánh bạc với tôi mà cậu không sợ à? - Dolokhov nhắc lại và làm
như sắp kể một câu chuyện vui, hắn ngả người tựa vào lưng ghế và mỉm
cười thong thả buông từng tiếng - Vâng, thưa các vị nghe nói ở Moskva
có tin đồn tôi là một tên cờ bạc bịp, vì vậy tôi khuyên các vị đối với
tôi nên thận trọng hơn.
- Thôi chia đi! - Roxtov nói.
- Ồ mấy con mẹ ngồi lê đôi mách ở Moskva! - Dolokhov nói đoạn mỉm cười lấy bộ bài.
- À à à! - Roxtov bất giác thốt ra một tiếng, hai tay đưa lên nắm chặt mái tóc.
Con bảy mà chàng đang trông mong đã nằm ở trên cùng nó là con bài đầu
của cỗ bài mới trang. Chàng đã thua một số tiền nhiều hơn số tiền mà
chàng có thể giả. Nhưng này, cậu đừng có liều đấy nhé - Dolokhov vừa
nói vừa liếc nhìn chàng và tiếp tục tung bài.



















===================================
Phần IV

Chương - 14 -



Một tiếng rưỡi sau, phần đông những người dự cuộc chỉ còn đánh lấy lệ.
Cả canh bạc dồn hẳn vào một mình Roxtov. Bây giờ số tiền chàng nợ không
còn là một ngàn sáu trăm rúp nữa, mà là cả một cột dài những con số mà
chàng đã đếm đến số vạn, và nhẩm đoán đại khái là đã lên đến mười lăm
ngàn. Thật ra, tổng số đã lên đến hơn hai vạn rúp. Dolokhov không còn
nghe ai nói gì và cũng không kể chuyện gì nữa, hắn theo dõi từng cử
động của hai hàn tay Roxtov và chốc chốc lại đưa mắt lướt nhanh qua
hàng chữ số. Hắn đã quyết định cứ đánh mãi cho đến khi tổng số lên đến
bốn mươi ba ngàn rúp. Hắn đã chọn con số ấy vì bốn mươi ba là số tuổi
hắn và tuổi Sonya cộng lại. Roxtov hai tay ôm đầu, ngồi chống khuỷu tay
vào cái bàn ghi đầy những chữ số, loang lổ những vết rượu đổ, ngổn
ngang những quân bài. Một ấn tượng đau đớn cứ bám chặt lấy chàng: hai
bàn tay đo đỏ kia, to xương và có lông thòi ra ngoài ống tay áo, hai
bàn tay mà chàng quý mến và căm thù đang nắm cái quyền lực chi phối
chàng.
"Sáu trăm rúp, át, tớ gấp đôi, chín… Không tài nào gỡ lại được nữa? Giá
bây giờ ở nhà có phải vui bao nhiêu… Một con bồi đánh hoà… không thể
như thế được… Mà tại sao hắn lại đối xử với mình như thế…" - Roxtov
nghĩ. Một đôi khi chàng đặt cửa rất to; nhưng Dolokhov từ chối và quyết
định cho chàng đặt bao nhiêu. Nikolai ngoan ngoãn tuân theo. Có khi
chàng cầu nguyện Chúa như chàng đã từng cầu nguyện ở chiến trường, bên
cầu Amstetten; Có khi chàng lại tự nhủ rằng nếu chàng lấy một con bài
nào đó trong đống bài quăn góc ở dưới bàn mà đánh thì con bài ấy sẽ cứu
được chàng; khi thì chàng đếm những dải khuy tết ngang trên áo đôn-man
của chàng và lấy số dải khuy mà đánh theo con bài tương đương, mong
rằng sẽ gỡ lại được chỗ mình đã thua; Khi thì chàng lại nhìn những
người dự cuộc như để cầu cứu, khi thì chàng quan sát tỉ mỉ gương mặt
của Dolokhov bấy giờ đã trở lại lạnh lùng, và chàng cố gắng hiểu xem
cái gì đang diễn ra trong tâm trí hắn.
"Hắn cũng biết số tiền thua ấy đối với ta quan trọng đến như thế nào.
Chả nhẽ hắn mong cho ta nguy khốn? Hắn vốn là bạn thân của ta. Ta quý
hắn lắm cơ mà… Nhưng cũng không phải lỗi tại hắn, vận hắn cứ đỏ mãi thì
bảo hắn làm thế nào? Mà cũng chẳng phải lỗi của ta nốt - Chàng tự nhủ -
ta chẳng làm điều gì xấu xa. Ta có giết người đâu? Có nhục mạ ai đâu?
Có nguyền rủa ai đâu? Thế sao vẫn đen ghê gớm như thế? Cơ sự này bắt
đầu từ bao giờ? Mới đây thôi, ta đến cạnh cái bàn này với ý định ăn lấy
một trăm rúp để mua một cái hộp biếu mẹ nhân lễ sinh nhật, rồi thì về.
Lúc đó ta còn sung sướng, còn tự do, còn vui vẻ biết chừng nào. Vậy thì
cái hạnh phúc ấy kết thúc từ bao giờ mà cái tình trạng mới này, cái
tình trạng khủng khiếp này bắt đầu từ bao giờ? Có cái gì đánh dấu khủng
khiếp sự thay đổi ấy? Lúc đó ta cũng vẫn ngồi chỗ này, ta cũng vẫn nhìn
hai bàn tay to xương mà khéo léo kia. Vậy thì cái đó đã xảy ra lúc nào
và cái gì đã xảy ra? Ta vẫn còn khoẻ mạnh, lực lưỡng và vẫn như trước,
vẫn ngồi ở chỗ hồi nãy. Không đâu, không thể như thế được. Chắc chắn là
việc này rồi chẳng có hậu quả gì đâu".
Mặt chàng đỏ bừng, mồ hôi như tắm, mặc dầu trong phòng không nóng. Khi
ấy ai nhìn mặt chàng cũng phải thấy sợ hãi và thương tâm, nhất là vì
chàng đang cố gắng hết sức để tỏ ra bình tĩnh mà không được.
Bản tính nợ đã lên đến con số tiền định là bốn mươi ba ngàn rúp, Roxtov
đang chuẩn bị một con bài để tố gấp đôi số ba ngàn rúp chàng mới ăn,
thì Dolokhov đặt mạnh cỗ bài xuống bàn, cầm lấy viên phấn và cộng số nợ
của Roxtov với nét chữ rõ ràng, cứng cỏi của hắn, và đánh gãy viên phấn.
- Ăn bữa khuya thôi, đã đến giờ ăn khuya rồi! Bọn Di-gan đã đến kia kìa!
Quả nhiên, vừa lúc ấy có một tốp đàn ông và đàn bà tóc đen da ngăm vừa
đi ngoài lạnh bước vào vừa nói chuyện với nhau bằng cái giọng Di-gan
của họ. Nikolai biết rằng thế là hết, nhưng chàng cũng lấy giọng thản
nhiên nói:
- Thế cậu không chia bài nữa à? Tôi đã sắp sẵn một con bài rất hay. - Làm như chàng chỉ quan tâm đến cái thú đánh bài.
"Thế là xong, thế là chết! - chàng nghĩ. - Bây giờ chỉ còn cách cho một
viên đạn vào óc", - và đồng thời chàng lại nói, giọng rất vui vẻ:
- Nào, hẵng đánh một ván nữa.
- Được Dolokhov đáp, khi đã cộng xong - được! Bằng lòng đánh hai mươi
mốt rúp - hắn vừa nói vừa chỉ con số 21 ở trên sổ nợ, đó là con số lẻ,
dôi ra ngoài tổng số bốn mươi ba ngàn, và tay cầm bài, hắn sắp sửa
chia. Roxtov ngoan ngoãn vuốt góc con bài và nắn nót viết con số hai
mươi mốt thay cho số sáu ngàn rúp đã chuẩn bị sẵn.
- Ừ thì thế nào cũng được. - chàng nói - Tôi chỉ muốn biết cậu sẽ cho con mười này được hay thua.
Dolokhov lại nghiêm chỉnh chia bài. Ồ, lúc này sao Roxtov thù ghét hai
bàn tay kia lạ lùng, hai bàn tay đo đỏ, ngón ngắn, lông lá thòi ra
ngoài ống sơ mi, hai bàn tay đang nắm quyền lực chi phối chàng. Con
mười ăn.
- Bá tước nợ tôi bốn mươi ba ngàn rúp chẵn. - Dolokhov nói đoạn đứng đậy vươn vai. - Ngồi lâu mệt rồi đấy.
- Phải, tôi cũng mệt - Roxtov nói Dolokhov ngắt lời chàng, như để nhắc nhở cho chàng biết rằng lúc này chàng không nên nói đùa.
- Thưa bá tước, khi nào thì ngài cho phép tôi lĩnh số tiền.
Nikolai đỏ mặt, kéo hắn sang phòng bên cạnh.
- Tôi không thể trả hết ngay một lúc được, cậu sẽ nhận một phiếu hoàn ngân - chàng nói.
- Cậu nghe đây, Roxtov ạ - Dolokhov nói với một nụ cười tươitỉnh trong
khi nhìn thẳng vào mặt Nikolai - cậu cũng biết câu ngạn ngữ "May mắn
trong tình yêu thì rủi ro trong cờ bạc". Cô em họ của cậu yêu cậu. Tôi
biết.
"Ồ! Cảm thấy mình đang ở trong tay một con người như vậy thật là đáng
sợ, - Roxtov nghĩ. Chàng biết tin chàng thua bạc sẽ làm cho cha mẹ
chàng choáng váng đến thế nào; chàng biết rằng nếu thoát được tình cảnh
ấy thì sung sướng đến nhường nào, và hiểu rằng Dolokhov vẫn biết hắn ta
có thể trừ miễn cho chàng nỗi sỉ nhục và phiền não ấy, nhưng hắn cứ
muốn bỡn cợt chàng như mèo vờn chuột".
- Cô em họ cậu… - Dolokhov bắt đầu nói, nhưng Nikolai ngắt lời ngay. Chàng điên liết quát lên:
- Cô em họ tôi không liên quan gì đến việc này, xin đừng nói đến cô ấy làm gì.
- Thế thì bao giờ tôi nhận được tiền? - Dolokhov
- Mai! - Roxtov nói đoạn bước ra khỏi phòng.
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 EmptySat Dec 25, 2010 8:48 am

Phần IV

Chương - 15 -




Hẹn đến mai và giữ dáng diệu chững chạc không phải là việc khó,
nhưng lủi thủi trở về nhà, trông thấy mặt các em và cha mẹ, thú nhận
tội lỗi, rồi xin một món tiền mà mình không có quyền đòi hỏi sau khi đã
lấy danh dự ra hứa hẹn - việc đó thật là khủng khiếp.
Người nhà vẫn chưa đi ngủ. Bọn trẻ nhà Roxtov sau khi đi xem hát về và
đã ăn bữa khuya, đang quây quần xung quanh chiếc dương cầm. Nikolai vừa
bước vào phòng khách đã thấy mình bao phủ trong bầu không khí ái ân và
thi vị bàng bạc trong nhà suốt mùa đông năm ấy. Bây giờ, sau việc cầu
hôn của Dolokhov và buổi khiêu vũ của Yoghel, bầu không khí ấy tựa hồ
đã tụ lại dày hơn nữa xung quanh Sonya và Natasa, như khi trời trước
cơn giông. Hai cô thiếu nữ trong bộ áo màu thanh thiên mặc đi xem hát,
xinh đẹp và biết mình xinh đẹp, đang sung sướng, tươi cười đứng bên
dương cầm. Vera và Sinsin đang đánh cờ ở phòng khách. Lão bá tước phu
nhân thì trong khi chờ đợi ông chồng và cậu con, đang chơi bói bài với
một bà già quý tộc lưu trú trong nhà. Denixov ngồi trước dương cầm, hai
mắt sáng quắc, tóc rối bù, một chân co ra phía sau, đang đưa mười ngón
tay ngắn ngủi đập từng hợp âm, và, mắt đảo qua đảo lại cất giọng khàn
khàn nhưng đúng cung bậc bài hát "Đạo cô" - bài thơ anh ta mới làm và
đang tìm cách phổ nhạc.
Đạo cô ơi! Mãnh lực nào thúc đẩy
Khiến tơ đồng yên ngủ bỗng vang lên.
Nàng nhen lên trong lòng ta, rực cháy
Ngón tay ta run rẩy, chẳng sao yên?
Chàng hát với một giọng thiết tha, đôi mắt đen nhánh long lanh như mã
não bắn những tia chớp về phía Natasa, khiến nàng sợ hãi nhưng sung
sưởng.
- Hay quá! Tuyệt diệu! - nàng reo lên - Một khúc ca nữa đi anh! - nàng nói thêm, không để ý đến Nikolai.
"Đối với họ vẫn không có gì thay đổi". - Nikolai nghĩ ngợi trong khi
đưa mắt nhìn qua phòng khách và trông thấy Vera, lão bá tước phu nhân
và cụ già.
- À, anh Nikolai đã về! - Natasa chạy ra đón chàng.
- Cha có nhà không? - chàng nói.
- Anh về làm em mừng quá! - Natasa nói, không đáp lại câu hỏi của chàng
- Chúng em ở nhà vui quá anh ạ. Anh Vaxili Dimitrich ở lại thêm một
ngày vì em đấy.
- Không, cha chưa về - Sonya nói.
- Kolo, con đã về đấy ư, đi vào đây con, - tiếng bá tước phu nhân nói trong phòng khách.
Nikolai đi đến chỗ mẹ ngồi, hôn tay bà, và lặng lẽ ngồi xuống cạnh bàn,
đưa mắt nhìn theo bàn tay bà đang xếp đặt mấy quân bài. Từ bên phòng
lớn vẫn văng vẳng lại những tiếng cười và những giọng nói vùi vẻ đang
van nài Natasa.
- Thôi được rồi, được rồi - Denixov nói to - Bây giờ từ chối cũng vô ích, tiểu thư còn nợ tôi bài "đò đưa"(1), tôi van tiểu thư.
Bá tước phu nhân đưa mắt nhìn cậu con trai đang ngồi im lặng.
- Con làm sao thế? - bà hỏi chàng.
- À có sao đâu ạ - chàng nói, tựa hồ câu hỏi muôn lần như một ấy đã làm cho chàng bực mình. - Cha đã sắp về chưa?
- Có lẽ sắp về đấy.
"Ở nhà chẳng có gì thay đổi. Chưa ai hay biết gì cả. Bây giờ biết rúc
vào đâu?" - Nikolai tự nhủ và trở về gian phòng khách lớn có cây dương
cầm.
Sonya đang ngồi trước dương cầm đánh đoạn mở đầu bài "đò đưa" mà Denixov đặc biệt ưa thích. Natasa đang chuàn bị hát.
Denixov thì đang nhìn nàng với đôi mắt hân hoan. Nikolai bắt đầu đi đi lại lại trong phòng.
"Tự dưng lại bảo nó hát làm gì thế? Nó thì hát được cái gì? Chả có gì là vui thú cả" - chàng nghĩ.
Sonya dạo hợp âm thứ nhất của đoạn mở đầu.
"Trời ơi, mình là một con người bỏ đi, một con người đã mất hết danh
dự, chỉ còn việc cho một viên đạn vào óc, chứ hát với xướng gì nữa?" -
chàng tự nhủ. - Hay là đi biệt? Nhưng đi đâu? Thôi, cứ để mặc cho họ
hát!"
Nikolai vẫn tiếp tục đi đi lại lại trong phòng, vẻ mặt u uất, chốc chốc
lại liếc nhìn Denixov và hai cô thiếu nữ, đồng thời lẩn tránh mắt họ.
"Nikolenka, anh làm sao thế?" Đôi mắt của Sonya như muốn hỏi. Nàng đoán ngay được rằng chàng đã gặp một chuyện chẳng lành.
Nikolai ngoảnh mặt đi, không nhìn nàng. Natasa với các trực giác nhạy
bén của nàng cũng đã nhận thấy ngay tình trạng anh mình. Nàng có nhận
thấy, nhưng trong giờ phút này bản thân nàng đang vui vẻ, xa cách mọi
sự phiền não, mọi nỗi u buồn, mọi lời trách móc, cho nên nàng tự lừa
dối mình một cách hữu ý (thanh niên thường như thế). "Bây giờ mình vui
sướng quá, mình không muốn tiếp xúc với sự phiền não của người khác để
làm hư hỏng mất niềm vui sướng cảu mình" - đó là chân tình của nàng,
nhưng nàng lại nói với mình một cách khác - "Không đâu, chắc là mình
lầm, nhất định anh ấy cũng vui sướng như mình".
- Nào, Sonya, - nàng nói và bước ra chính giữa phòng, nơi mà nàng cho
là điều kiện âm hưởng tốt hơn cả. Nàng ngẩng đầu, buông thõng hai bàn
tay như một vũ nữ và bước mạnh ra chính giữa phòng, mỗi bước đi đều
nhấn mạnh chân chuyển từ gót giày sang mũi giày, rồi dừng lại.
Dáng vẻ của nàng như nói với hộ nàng: "Đây tôi như thế này đáy!" để đáp lại cái niềm hân hoan của Denixov đang theo dõi nàng.
"Nó vui thích cái nỗi gì thế không biết! - Nikolai nghĩ trong khi nhìn em. - Sao nó không thấy chán, không thấy ngượng nhỉ!"
Natasa đưa lên một nốt đầu tiên, cổ nàng dãn ra, ngực nàng nâng lên,
hai mắt nàng trở nên nghiêm trang. Lúc đó nàng không nghĩ đến cái gì
hết, cũng không nghĩ đến ai hết, từ đôi môi tươi cười của nàng, những
âm thanh tuôn ra, những âm thanh mà mỗi người đều có thể xướng lên theo
những âm trình như nhau, với một nhịp diệu như nhau, những âm thanh mà
một ngàn lần ta đều cảm thấy nhạt nhẽo, nhưng đến lần thứ một ngàn linh
một thì phải rung động và ứa nước mắt.
Mùa đông năm ấy, lần đầu tiên Natasa đã bắt đầu hát một cách nghiêm
túc, đặc biệt vì có Denixov say sưa thưởng thức tiếng hát của nàng. Bây
giờ nàng không hát như một đứa trẻ nữa, trong tiếng hát của nàng không
còn có sự cố gắng chăm chỉ buồn cười của trẻ con như ngày trước; Nhưng
nàng hát chưa giỏi, theo ý kiến của tất cả những người sành hát đã nghe
giọng nàng. "Giọng tốt nhưng chưa được luyện, cần phải luyện thêm", mọi
người đều nói. Nhưng người ta nói thế thường là sau khi tiếng nàng đã
im bặt từ lâu. Còn trong khi cái tiếng chưa luyện ấy đang đưa lên với
những hơi thở không đúng lúc, với những chỗ chuyển giọng khó nhọc, thì
chính những người sành hát cũng không nói gì, mà chỉ biết thưởng thức
cái giọng chưa luyện ấy và cứ muốn nghe nó lại một lần nữa. Trong giọng
hát của nàng có một cái gì trong trẻo, trinh bạch, một cái gì hồn
nhiên, không tự biết giá trị của mình, một cái gì êm dịu như nhung,
nhưng hãy còn mộc mạc, phối hợp khéo léo với những nhược điểm kỹ thuật
đến nỗi hình như chỉ thay đổi một điểm nhỏ trong giọng hát ấy cũng đủ
làm cho nó hư hỏng mất.
"Làm sao thế nhỉ? - Nikolai nghĩ thầm khi nghe giọng hát của nàng,
chàng mở to mắt - Nó có cái gì thay đổi? Hôm nay nó hát hay quá!" và
đột nhiên đối với chàng cả vũ trụ đều quay tụ lại trong phút đợi chờ
nốt nhạc theo sau, câu hát theo sau! Và mọi sự vật trong vũ trụ đều
chia làm ba phách: o miv crudele afetto "Một, hai, ba… một, hai, ba…
một… O miv crudele afetto… Một, hai, ba… một. Chà, cuộc đời chúng ta
thật là ngu xuẩn! - Nikolai nghĩ - Tất cả, nào là vận đen, nào là tiền
bạc, nào là Dolokhov, nào là oán hờn, nào là danh dự tất cả những cái
đó đều là chuyện vô nghĩa… Đây, cái này mới đáng kể này. Xem nào,
Natasa! Xem nào, em gái yêu của tôi; xem nào, cô bạn thân mến! Em tôi
sẽ đưa cái nốt si ấy như thế nào? Nó đã được rồi! Trời ơi!" - và chàng
bất giác hát bè đệm cách nốt cao một khoảng ba, để tăng cường cho cái
nốt si ấy mà cũng không biết rằng mình đang hát nữa. "Trời ơi! Hay quá!
Có thật là chính ta đã hát lên không? Sung sướng làm sao! - Chàng nghĩ.
Ôi cái hợp âm quang đãng ba ấy nó réo rắt làm sao, và những gì tốt đẹp
nhất trong lòng Roxtov đã rung động theo nó mãnh liệt đến nhường nào!
Và cái đó không dính dáng gì đến mọi sự vật ở trên đời. Kể gì thua bạc,
kể gì Dolokhov, kể gì lời hứa danh dự, và quả thật… Đó toàn là những
chuyện nhảm nhí! Có thể giết người, ăn trộm mà vẫn hạnh phúc.

Chú thích:
(1) Barcarolla (tiếng Ý).

===========================


Phần IV

Chương - 16 -



Đã lâu lắm Roxtov chưa lần nào được khoái cảm như vậy trong khi
nghe nhạc. Nhưng Natasa vừa hát xong bài hát đò đưa thì chàng lại sực
nhớ đến thực tế. Chàng lẳng lặng bỏ ra ngoài và đi về phòng riêng.
Mười lăm phút sau, lão bá tước, vui vẻ và hả hê, ở câu lạc bộ về Nikolai nghe tiếng xe ông cụ về liền đến gặp.
- Thế nào, vui chứ? - Ilya Andreyevich vừa nói vừa vui vẻ và kiêu hãnh
mỉm cười với con trai. Nikolai muốn nói "Vâng" nhưng không sao nói
được: chỉ thiếu một tí nữa chàng đã khóc nấc lên. Bá tước đang mải châm
tẩu thuốc, không nhận thđv tình trạng của con.
"Thôi, đằng nào cũng phải nói" - Nikolai suy nghĩ lần đầu tiên và cuối
cùng. Rồi đột nhiên, với một giọng nói hết sức ung dung mà chàng cũng
phải tự lấy làm xấu hổ, chàng nói với ông cụ, như khi chàng muốn xin
phép dùng xe ngựa đi phố:
- Ba ạ, con đến đây để thưa chuyện. Tí nữa thì quên mất. Con cần tiền.
- Thật à? - ông cụ nói trong lúc đang vui - thì ba đã bảo con là số tiền kia không đủ tiêu đâu mà! Con cần có nhiều không?
- Có nhiều. - Nikolai đỏ mặt nói, với một nụ cười ung dung, ngu xuẩn,
mà mãi về sau chàng vẫn không sao tha thứ cho mình được - Con có nhỡ
thua bạc một ít… nghĩa là cũng khá nhiều, rất nhiều nữa là khác, bốn
mươi ba ngàn rúp.
- Làm sao? Thua ai? Nói đùa đấy chứ - Bá tước kêu lên, cổ và gáy hốt nhiên đỏ gay vì chứng huyết áp cao của người có tuổi.
- Con đã hẹn trả nội ngày mai - Nikolai nói.
- Ấy thế - lão bá tước vừa nói vừa đang rộng hai cánh tay ra tỏ vẻ bất lực, rồi bủn rủn ngồi phịch xuống đi-văng.
- Biết làm thế nào? Ai mà chẳng trải qua một lần như thế? -
Nikolai nói với một giọng ung dung và chững chạc, nhưng trong lòng thì
tự cho mình là một thằng vô lại, một thằng khốn nạn, dù chết cũng không
thể chuộc hết tội ác. Chàng chỉ muốn đến hôn tay cha, quỳ xuống xin cha
tha tội, nhưng chàng lại nói với một giọng ung dung, thậm chí còn thô
lỗ nữa, rằng chuyện đó bắt cứ ai cũng có thể trải qua.
Bá tước Ilya Andreyevich, nghe câu trả lời của con thì cúi nhìn xuống đất rồi loay hoay một lúc như muốn tìm cái gì.
- Phải, phải, - Ông cụ nói, - Khó đấy, cha e rằng khó mà kiếm được số
tiển ấy, chuyện ấy ai mà chẳng có lần trải qua! Phải, thật thế… - Và bá
tước đưa mắt nhìn lướt qua mặt con rồi đi ra phía cửa… Nikolai vốn đã
liệu trước là có thể bị cự tuyệt, nhưng không hề ngờ sự tình sẽ như vậy.
- Ba ơi! Ba, ba! - Chàng nghẹn ngào gọi với theo ép chặt môi lên đấy và khóc nức nở.
Trong khi bá tước và cậu con trai giãi bày với nhau như vậy thì một
cuộc nói chuyện không kém phần quan trọng cũng diễn ra giữa bá tước phu
nhân và cô gái. Natasa hớt hơ hớt hải chạy đến phòng mẹ.
- Mẹ ơi! Mẹ ơi!… Anh ấy đã…
- Cái gì thế?
- Anh ấy đã… anh ấy đã ngỏ lời với con. Mẹ ơi! Mẹ ơi! - nàng kêu lên.
B á tước phu nhân không dám tin ở tai mình nữa. Denixov đã ngỏ lời.
Nhưng ngỏ lời với ai? Với cái con bé oắt Natasa kia, mới đây còn hơi
búp bê, bây giờ còn phải học bài ư!
- Thôi đi Natasa, chỉ vớ vẩn! - bà cụ nói, trong lòng hy vọng rằng câu chuyện chỉ là một trò đùa.
- Vớ vẩn đâu! Con nói thật đấy, mẹ ạ - Natasa nói với một giọng hờn dỗi
- Con vào hỏi mẹ xem nên như thế nào, mẹ lại bảo là vớ vẩn.
Bá tước phu nhân nhún vai.
- Nếu quả thật me-xừ Denixov xin kết hôn với mày, thì mày bảo cho ông ta biết rằng ông ta là một thằng ngốc.
- Không, không phải là thằng ngốc - Natasa nói, vẻ tức giận và nghiêm trang.
- Thế thì mày muốn cái gì? Bọn chúng mày bây giờ đứa nào cũng nghĩ đến
chuyện yêu đương cả. Nếu mày phải lòng anh ta thì mày cứ lấy đi - bá
tước phu nhân cười bực dọc - Lạy Chúa!
- Mẹ ơi, không phải, con không phải lòng anh ấy đâu! Chắc không phải đâu?
- Không, nhưng cô bạn của tôi muốn gì nào? Thôi để mẹ ra nói với anh ấy cho, - bá tước phu nhân mỉm cười nói.
- Không, mẹ để con đi, nhưng mẹ bảo con biết con phải làm như thế nào.
Mẹ thì cái gì cũng tưởng dễ lắm - nàng nói thêm để đáp lại nụ cười của
phu nhân. - Nhưng mẹ có biết đâu anh ấy nói với con như thế nào! Con
biết, anh ấy không muốn nói, nhưng không hiểu sao buột miệng mà nói ra
đấy thôi.
- Thì đằng nào cũng vẫn phải từ chối.
- Không, không nên. Con thấy anh ấy tội nghiệp lắm. Anh ấy dễ thương lắm cơ.
- Thế thì nhận lời đi! Vả lại mày cũng đến lúc phải lấy chồng rồi đấy, - bà mẹ nói, giọng bực tức và m**** mai.
- Mẹ ơi, con thấy anh ấy tội nghiệp quá. Con không biết nói với anh ấy thế nào.
- Nhưng mày không nói gì cả, để tao nói cho. - Bá tước phu nhân đáp,
bực tức vì người ta dám coi con bé Natasa của mình như một người lớn.
- Không, muôn vàn xin mẹ đừng nói, để con nói lấy, còn mẹ cứ đứng ngoài
cửa mà nghe. - Nói xong Natasa tạt qua phòng khách chạy vào phòng khiêu
vũ: Denixov vẫn ngồi nguyên trên ghế như trước, cạnh chiếc giương cầm,
hai tay ôm đầu. Chàng vụt đứng dậy khi nghe tiếng bước nhẹ nhàng của
nàng.
- Cô Natali - chàng vừa nói vừa đi nhanh đến trước mặt nàng, - Xin cô định doạt số phận của tôi. Nó ở trong tay cô.
- Anh Vaxili Dmitrich, em ái ngại cho anh quá. Không, nhưng… Anh thật
dễ thương… nhưng, có điều là không nên, cứ như thế này thì em sẽ yêu
anh mãi mãi.
Denixov cúi nhìn xuống sát tay nàng và nàng nghe thấy những âm thanh lạ
lùng mà nàng không hiểu. Nàng đặt một chiếc hôn trên mớ tóc quăn, đen
nhánh và rối bù của chàng. Vừa lúc ấy, nghe có tiếng áo sột soạt vội vã
của bá tước phu nhân. Phu nhân đến gần chỗ hai người.
- Anh Vaxili Dmitrich, tôi xin cảm ơn anh về điều vinh dự ấy - bà nói
với một giọng ngượng nghịu, nhưng Denixov lại có cảm tưởng là nghiêm
khắc - Nhưng con gái tôi còn non dại quá và tôi thiết tưởng với tư cách
là bạn thân của con trai tôi thì lẽ ra anh nên nói với tôi trước. Giá
được như thế, thì đã không đến nỗi bắt buộc tôi phải từ chối.
- Thưa bá tước phu nhân… - Denixov vừa đáp, hai mắt nhìn xuống đất, vẻ
ân hận, chàng muốn nói thêm câu gì nữa nhưng lưỡi cứ líu lại. Natasa
không thể không mủi lòng khi thấy chàng khổ sở như vậy Nàng bắt đầu
khóc to lên.
- Thưa bá tước phu nhân, tôi thật có lỗi với phu nhân - Denixov nói
tiếp, giọng đứt quãng, - Nhưng xin phu nhân biết cho rằng tôi sùng mộ
tiểu thư và gia đình đến nỗi tôi có thể dâng đời sống của tôi hai lần…
- Chàng ngước nhìn lên bá tước phu nhân và nhận thấy vẻ mặt nghiêm khắc
của bà… - Thôi, xin từ biệt phu nhân - Chàng nói và hôn tay bá tước phu
nhân, rồi không nhìn Natasa, chàng bước quả quyết ra khỏi phòng.
Hôm sau, Roxtov tiễn Denixov ra đi, vì Denixov đã quyết định không ở
thêm một ngày nào ở Moskva nữa. Bạn bè của chàng đặt tiệc tiễn chàng ở
nhà bọn Di-gan, sau đó chàng không còn biết họ đặt chàng vào xe trượt
tuyết như thế nào mà không còn nhớ gì về ba trạm đầu tiên của cuộc hành
trình.
Sau khi Denixov đi, Roxtov còn phải chờ số tiền trả nợ, vì lão bá tước
không thể chạy được trong một lúc, và phải lưu lại mười lăm ngày ở
Moskva, nhưng không ra khỏi nhà, và phần lớn thời gian chỉ lẩn quẩn
trong phòng các cô thiếu nữ.
Sonya lại càng âu yếm và tận tuỵ với chàng hơn bao giờ hết. Nàng có vẻ
muốn tỏ ra cho chàng biết rằng việc chàng thua bạc là một kỳ công,
khiến nàng càng yêu chàng hơn trước. Nikolai thì tự cho mình là không
xứng đáng với nàng nữa.
Chàng chép nào thơ nào nhạc dầy cả các tập an-bom của hai cô thiếu nữ,
và sau khi đã gửi đủ số tiền bốn mươi ba ngàn rúp và đã nhận được biên
lại của Dolokhov, không từ biệt một người nào, chàng khởi hành vào cuối
tháng mười một để đuổi theo binh đoàn của mình bấy giờ đã ở Ba Lan.


Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 EmptySat Dec 25, 2010 8:49 am


PHẦN V - Chương -1-





Sau trận cãi nhau với vợ, Piotr lên đường đi
Petersburg. Ở trạm Torzok không có ngựa, hoặc giả người trạm trưởng
không muốn cấp ngựa cho chàng. Chàng đành phải nán đợi. Chàng giữ
nguyên quần áo, nằm dài trên chiếc đi-văng da sau chiếc bàn tròn, ghếch
đôi chân to tướng đi ủng lót nỉ lên bàn và bắt đầu suy nghĩ miên man.
- Thưa ngài, có phải đem va li vào không ạ? Có cần dọn giường, pha trà không ạ? - Người hầu phòng hỏi.
Piotr không đáp, vì bây giờ chàng chẳng nghe thấy gì và chẳng trông
thấy gì hết. Ở trạm trước, chàng đã bắt đầu suy nghĩ và vẫn cứ suy đi
nghĩ lại về một việc gì ấy - việc ấy quan trọng đến nỗi chàng chẳng
buồn đề ý đến những điều xảy ra quanh mình. Không những chàng không hề
quan tâm đến vấn đề mình đến Petersburg sớm hay muộn, ở trạm này có chỗ
nghỉ hay không, mà hơn nữa so với những điều đang khiến chàng bắn khoăn
suy nghĩ thì có ở đây một vài giờ hay sẽ ở suốt đời cũng chẳng có gì
quan trọng.
Hai vợ chồng trạm trưởng, người hầu phòng, một bà bán đồ thêu Torzok
bước vào phòng để đợi chàng sai bảo. Piotr chẳng buồn nhúc nhích, cứ để
nguyên cặp chân trên bàn. Chàng nhìn họ qua đôi kính trắng, không hiểu
họ cần gì và tại sao tất cả những người này không cần phải giải quyết
những vấn đề đang bắt chàng bận tâm suy nghĩ mà cứ sống được như
thường. Chung quy cũng vẫn là những vấn đề đã luôn luôn khiến chàng suy
nghĩ kể từ ngày đi đấu súng ở Sokolniki về, và qua cái đêm trằn trọc
mất ngủ đầu tiên; chỉ có điều là bây giờ, trong cảnh đi đường cô độc,
chàng vẫn cứ phải quay trở lại những vấn đề ấy mà chàng không tài nào
giải quyết được nhưng cũng không thể thôi không không đặt ra cho mình
được. Hình như cái đinh ốc chính trong đầu chàng, cái đinh ốc trước đây
vẫn giữ vững tất cả cuộc sống của chàng, nay đã mòn đi. Cái đinh ốc này
không vào sâu hơn nữa, nó không bật ra ngoài, mà lại cứ quay tại chỗ,
không khớp vào đâu cả, quay mãi ở một nấc, mà cũng không thể nào làm
cho nó ngừng quay được.
Người trạm trưởng bước vào, kính cẩn:
- Xin đại nhân nán đợi lấy hai giờ đồng hồ ngắn ngủi nữa thôi, rồi sau đó thế nào hắn cũng sẽ cung cấp ngựa trạm cho đại nhân.
Hẳn là hắn nói dối và chỉ tìm cách bòn thêm tiền hành khách: "Hắn làm
như vậy là tốt hay xấu? - Piotr tự hỏi. - Riêng đối với ta thì tốt,
nhưng đối với một hành khách khác thì xấu, còn đối với bản thân hắn thì
lại là tất yếu, vì hắn không có gì ăn: hắn có bảo là một sĩ quan đã
đánh hắn vì chuyện này. Mà sở dĩ viên sĩ quan kia đánh hắn là vì đang
cần đi gấp. Còn ta, ta đã bắn Dolokhov bởi vì ta cảm thấy mình bị sỉ
nhục. Louis XVI đã bị giết bởi vì người ta cho rằng ông ta phạm tội,
rồi một năm sau, người ta lại giết kẻ đã giết ông ta, cũng lại vì một
lý do đó. Cái gì là xấu? Cái gì là tốt? Nên yêu cái gì, nên ghét cái
gì? Sống để làm gì, và ta là cái gì? Cuộc sống là gì? Cái chết là gì?
Sức mạnh nào chi phối tất cả?" - Chàng tự hỏi. Và trong số những câu
hỏi này không có lấy được một câu nào có lời giải đáp: nếu không phải
là lời giải đáp sau đây, một lời giải đáp phi lý, hoàn toàn không trả
lời vào câu hỏi: "Người sẽ chết và tất cả sẽ hết. Người sẽ chết và
người sẽ biết tất cả hoặc người sẽ không còn phải hỏi han gì nữa".
Nhưng cái chết cũng là một điều đáng sợ. Bà bán hàng ở Torzok lanh lảnh
cất tiếng chào mời, đặc biệt mời mua những đôi giày da dê. "Ta hiện có
mấy trăm rúp mà ta chẳng dùng làm gì, còn cái bà mặc áo khoác lách kia
thì lại đang đứng nhìn ta một cách rụt rè - Piotr suy nghĩ. - Vả chăng
bà ta cần tiền đế làm gì mới được chứ? Tiền có đem lại cho bà ta thêm
một mảy may hạnh phúc nào đâu, có làm cho tâm hồn bà ta yên tĩnh thêm
một chút nào đâu? Ở trên thế gian này có cái gì có thể làm cho ta và bà
ấy bớt lệ thuộc vào tội ác, vào cái chết hay không? Cái chết sẽ là chấm
dút tất cả và nhất định sẽ đến, hôm nay hay ngày mai cũng thế thôi, bởi
vì so với vĩnh viễn thì cuộc đời cũng chỉ là một khoảnh khắc". Và chàng
lại tìm cách vặn cái đinh ốc kia, cái đinh ốc đang quay tít mà chẳng
khớp vào đâu cả mãi mãi vẫn cứ quay ở một nấc.
Người đày tớ đưa cho chàng một quyển tiểu thuyết băng thư của bà Xuza
đã rọc một nửa. Chàng bắt đầu theo dõi trong quyển truyện những nỗi đau
khổ và cuộc dấu tranh để theo đức hạnh của một cô Amélie de Mansfeld
(1) nào đó. Chàng tự hỏi: "Tại sao nàng lại phải cố cưỡng lại người
quyến rũ mình một khi nàng yêu người ấy? Thượng đế không thể đặt vào
lòng nàng những khao khát trái với ý muốn của Người. Người vợ trước đây
của ta không hề cưỡng lại dục vọng và có lẽ nó làm như thế là phải.
Người ta chẳng phát hiện được gì mà cũng chẳng nghĩ thêm được điều gì
cả. - Piotr nói một mình - Chúng ta chỉ biết một điều là chúng ta không
biết gì hết. Đó là trình độ trí tuệ cao nhất của nhân loại".
Chàng cảm thấy trong lòng chàng và chung quanh chàng tất cả đều hỗn
loạn, vô nghĩa và đáng ghét. Nhưng ngay trong sự chán ghét đối với mọi
vật chung quanh, chàng vẫn thấy có một khoái cảm riêng có sức khích
động.
- Xin đại nhân làm ơn ngồi nhích tí chút để dành chỗ cho vị này - người
trạm trưởng bước vào giới thiệu với chàng một người hành khách khác,
cũng phải dừng lại đây vì thiếu ngựa. Người khách này là ông già người
thấp, vai rộng, nước da vàng võ, mặt nhăn nheo, có đôi lông mày bạc
trắng nhô ra trên đôi mắt sáng màu xám nhờ nhờ.
Piotr bỏ chân ở trên bàn xuống, đứng dậy và đến nằm trên cái giường mà
người ta đã dọn cho chàng, chốc chốc lại đưa mắt liếc nhìn người mới
đến. Người này, vẻ mặt cau có và mỏi mệt, mắt không nhìn chàng, đang
cởi áo ngoài một cách khó nhọc với sự giúp đỡ của người đầy tớ. Khi chỉ
còn cái áo tu-lúp đã cũ, bên ngoài phủ lụa Nam kinh, phủ lên cặp chân
xương xẩu đi ủng da, người khách ngồi xuống đi-văng, dựa cái đầu to
tướng với đôi thái dương rộng, tóc cắt ngắn, vào lưng đi-văng, và đưa
mắt nhìn Bezukhov. Vẻ khắc khổ, thông minh và sâu sắc trong cái nhìn
này khiến Piotr chú ý. Chàng muốn nói chuyện với người khách, và đã
toan hỏi ông ta về cuộc hành trình, thì ông già đã nhắm mắt và khoanh
hai bàn tay nhăn nheo lại. Piotr nhận thấy trên một ngón tay ông ta có
đeo một chiếc nhẫn bằng gang to tướng khắc hình sọ Adam(2). Ông ta ngồi
yên không biết là đang nghĩ ngợi hay đang trầm tư mặc tưởng về một điều
gì. Người đày tớ cũng là một ông già nhỏ nhắn, mặ vàng và nhăn nheo,
râu ria chẳng thấy, chắc không phải vì ông ta cạo mà vì ông ta vốn
không râu. Người đày tớ già nhanh nhẹn mở cái hộp đựng đồ đi đường lấy
đồ trà ra sắp lên bàn và mang lên một chiếc xamova nước xôi sùng sục.
Khi mọi việc đã xong xuôi đâu vào đấy, người hành khách mở mắt, lại gần
bàn rót cho mình một cốc nước trà, rót một cốc nữa cho ông già thấp bé
không râu kia rồi đưa cho ông ta. Piotr bắt đầu bứt rứt, cảm thấy cần
nói chuyện và thậm chí nhất định phải nói chuyện với người khách kia.
Người đày tớ uống xong đem cốc đặt úp trên đĩa trà(3) với miếng đường
đã gặm dở, và hỏi xem ông chủ có cần gì không.
- Không, không cần gì hết, ông đưa cho tôi quyển sách - người khách
nói. - Người đày tớ đem quyển sách lại. Piotr thấy hình như đó là một
quyển sách tôn giáo. Người khách bắt đầu đọc say sưa. Piotr nhìn ông
ta. Đột nhiên người khách đọc sách một bên đánh dấu trang sách, nhắm
mắt lại rồi lại dựa vào lưng ghế, ngồi với tư thế như lúc nãy. Piotr
vẫn cứ nhìn ông ta. Chàng chưa kịp ngoảnh mặt đi thì ông gì đã lại mở
mắt ra và cái nhìn cương nghị và nghiêm khắc cua ông ta đã dán chặt vào
chàng.
Piotr cảm thấy khó chịu muốn tránh cái nhìn ấy, nhưng đôi mắt sáng quắc kia vẫn cứ thu hút chàng không sao cưỡng lại được.


Chú thích:
(1) Amélie de Mansfeld (1803) là tiểu thuyết của bà Cotin chứ không phải của bà Xuza - Ở đây tác giả nhớ lầm.
(2) Hình sọ người có hai cái xương chéo nhau ở dưới.
(3) Nông dân Nga thường úp chén lại để tỏ ràng mình không uống nữa. Người Nga khi uống trà thường không bỏ đường vào chén.

=====================================
Phần V

Chương - 2 -




- Tôi được hân hạnh hầu chuyện bá tước Bezukhov thì phải? - Người khách nói thong thả giọng sang sảng.
Piotr im lặng, đưa mắt nhìn người khách qua cặp kính trắng có ý dò hỏi. Người khách nói tiếp:
- Tôi có nghe nói đến ngài và điều bất hạnh mà ngài đã gặp - Ông ta
nhấn mạnh chữ "bất hạnh", dường như có ý nói: Đúng là bất hạnh rồi, ông
muốn gọi nó như thế nào là tuỳ ông, nhưng tôi biết rằng việc xảy ra ở
Moskva là một điều bất hạnh. - Thưa ngài, tôi rất thông cảm với ngài về
việc ấy.
Piotr đỏ bừng mặt, vội vàng bỏ chân xuống, cúi nhìn về phía ông già, miệng mỉm cười bẽn lẽn, gượng gạo.
- Tôi nhắc đến việc ấy không phải vì tính tôi tò mò, mà vì có những lý
do quan trọng hơn. - Ông ta im lặng một lát, mắt vẫn không rời khỏi
Piotr và ngồi xích ra để một chỗ trống trên đi-văng ngụ ý muốn mời
Piotr lại ngồi bên cạnh, Piotr thấy chẳng thích nói chuyện với ông già
này chút nào, nhưng vẫn bất giác chiều theo ý ông ta đến ngồi bên cạnh.
- Ngài đang đau khổ - Ông già nói tiếp - Ngài còn trẻ, tôi thì đã già. Tôi muốn hết lòng giúp đỡ ngài.
Piotr mỉm cười gượng gạo, nói:
- Ồ cảm ơn ông… Cảm ơn ông lắm. Xin ông cho biết ông từ đâu qua đây?
Mặt người khách không có vé gì dịu dàng, thậm chí lại còn khắc khổ và
lạnh lùng nữa là khác, những lời nói và vẻ mặt của người mới quen biết
đối với Piotr vẫn có một sức hấp dẫn mãnh liệt.
- Nhưng nếu vì một lý lẽ gì, ngài không thích nói chuyện với tôi thì
xin ngài cứ nói thật cho. - Và ông ta đột nhiên mỉm cười, nụ cười âu
yếm của một người cha.
- Ồ hoàn toàn không phải thế, trái lại, tôi rất vui mừng được làm quen
với ông. - Piotr nói và liếc mắt nhìn lại bàn tay của người mới quen
một lần nữa. Chàng nhìn kỹ chiếc nhẫn; trên mặt nhẫn có chạm một hình
sọ Adam. Đó là dấu hiệu của hội Tam điểm(1). Piotr hỏi:
- Ông cho phép tôi hỏi: ông là hội viên hội Tam điểm phải không ạ?
- Vâng, tôi thuộc hiệp hội những người thợ nghề tự do - người khách
nói, mắt mỗi lúc một nhìn sâu hơn, chăm chú hơn vào mắt Piotr. Nhân
danh tôi, cũng như nhân danh họ, tôi xin ngài vui lòng đón lấy bàn tay
thân ái của một người anh em.
- Tôi e… - Piotr cười nói, phân vân giữa niềm tin cậy và nhân cách của
người hội viên Tam điểm đã gây nên trong lòng chàng, và một ý chế nhạo
mà xưa nay chàng vẫn quen có đối với những tín ngưỡng của các hội viên
Tam điểm. - Tôi e rằng tôi khó lòng hiểu được biết nói thế nào đây, tôi
e rằng quan niệm của tôi về thế giới quá trái ngược với quan niệm của
các ông cho nên chúng ta khó lòng có thể hiểu nhau được.
- Tôi có biết quan niệm của ông - người "Thợ nề tự do" nói - cái lối
quan niệm mà ông vừa nhắc đến, cái lối quan niệm mà ông cho là kết quả
của công trình suy nghĩ của mình, chính là lối quan niệm của phần đông,
và cũng là kết quả tất nhiên của tính kiêu ngạo, của thói lười biếng và
tình trạng ngu dốt. Ông thứ lỗi cho, nếu tôi không biết rõ như vậy thì
tôi đã không nói với ông. Quan niệm của ông là một sai lầm thảm hại.
Piotr khẽ nhếch mép mỉm cười:
- Tôi cũng có thể nói hệt như vậy và cũng có thể cho là chính ông đang sai lầm.
- Tôi không bao giờ dám nói rằng mình biết được chân lý, - người hội
viên Tam điểm nói, lời lẽ minh xác và rắn rỏi của ông ta mỗi lúc một
lôi cuốn Piotr mạnh mẽ hơn. - Không ai có thể một mình đạt tới chân lý.
Chỉ có cách xây từng viên đá một, với sự góp sức của mọi người, qua
hàng triệu thế hệ, từ thời thuỷ tổ Adam cho đến ngày naỳ mới có thể
dựng lên ngôi đền xứng đáng để phụng thờ Thượng đế vĩ đại, Người Tam
điểm nói đoạn nhắm mắt lại.
- Tôi phải thú thực với ông rằng tôi không tin… không tin Thượng đế -
Piotr nói một cách khó nhọc và có ý hối tiếc, cảm thấy mình thế nào
cũng phải nói hết sự thực ra.
Người Tam điểm chăm chú nhìn Piotr mỉm cười như một người giàu có,
trong tay có bạc triệu, đang mỉm cười với một người nghèo khi người này
nói với ông ta rằng mình đang thiếu năm rúp và chỉ cần số tiền đó cũng
đủ đem lại hạnh phúc cho mình. Người Tam điểm nói:
- Phải, ông không biết Thượng đế. Ông không thể biết Người được ông không biết Người cho nên ông mới đau khổ như vậy.
- Phải, phải, tôi rất khổ - Piotr xác nhận - Nhưng tôi không biết làm thế nào bây giờ?
- Thưa ông, ông không biết Người cho nên ông rất khổ. Ông không biết
Người, thế nhưng chình Người đang ở đây. Người đang ở trong tôi, trong
những lời nói của tôi. Người ở trong lòng, cả trong những báng bổ mà
ông vừa nói ra - người Tam điểm nói, giọng run run và nghiêm nghị.
Ông cụ im bặt và thở dài, có vẻ như đang cố trấn tĩnh.
- Nếu Người không tồn tại, - Ông nhẹ nhàng nói tiếp - thì tôi và ông đã
chẳng nói đến Người, ông ạ. Chúng ta vừa nói về cái gì, về ai? Anh phủ
nhận ai? - Ông ta nói, giọng bỗng trang nghiêm và oai vệ hẳn lên. Nếu
Người không tồn tại thì ai đặt ra Người chứ? Tại sao anh có ý nghĩ rằng
có sự tồn tại của một đấng không thể hiểu được như vậy? Tại sao anh và
cả thiên hạ đều cho rằng một đấng không thể hiểu được, một dấng vạn
năng, vĩnh viễn và vô hạn về tất cả mọi mặt? - Ông ta dừng lại và im
lặng hồi lâu.
Piotr không thể và cũng không muốn phá vỡ sự im lặng ấy.
- Người tồn tại, nhưng muốn hiểu Người thì khó lắm - người hội viên Tam
điểm nói tiếp, không nhìn vào mặt Piotr mà lại nhìn, thẳng về phía
trước; vì trong lòng đang xúc động, nên hai bàn tay già nua không thể
nào để yên được, cứ lật đi lật lại các trang sách - Nếu đây là một con
người mà ông chưa tin là có tồn tại, thì tôi sẽ dắt tay người ấy đến
trước mặt ông và chỉ cho ông thấy. Nhưng con người trần tục hèn kém như
tôi thì làm sao có thể chỉ rõ tất cả cái toàn năng, cái vĩnh viễn, cái
hoàn thiện của Người cho một kẻ đui mù hay một kẻ cứ nhắm nghiền mắt
lại để đừng nhìn thấy Người, đừng hiểu Người và để đừng nhìn thấy, đừng
hiểu tất cả sự hèn hạ và xấu xa của bản thân mình? - Ông ta im lặng một
lát. - Anh là ai? Anh là cái gì? Anh tưởng mình là một người sáng suốt
bởi vì anh dám thốt ra những lời báng bổ như thế, - người hội viên Tam
điểm nói tiếp với một nụ cười khinh bỉ, - Anh còn ngu ngốc, còn dại dột
hơn đứa trẻ chơi với những bộ phận tinh vi của chiếc đồng hồ, rồi lại
không hiểu cái đồng hồ kia dùng để làm gì cho nên dám cả gan nói rằng
mình không tin là có thợ đã làm ra nó. Hiểu Người rất khó. Đã bao thế
kỷ nay, từ thuỷ tổ chúng ta là Adam cho đến ngày nay, chúng ta đã phí
bao tâm lực để nhận thức về Người, mà vẫn còn cách xa mục đích vô cùng;
nhưng việc chúng ta không hiểu biết được Người thì chứng tỏ chúng ta
yếu đuối và Người vĩ đại biết chừng nào.
Piotr lòng hồi hộp, hai mắt sáng long lanh nhìn vào mắt người hội viên
Tam điểm, lắng nghe ông ta nói, không ngắt lời, không hỏi, thành tâm
tin vào những điều mà người lạ mặt này đang nói với chàng. Phải chăng
chàng tin vì cách suy luận hợp lý trong lời nói của người Tam điểm, hay
chàng tin như trẻ con vẫn thường tin vì giọng nói chân thành, quả
quyết, cái giọng run run, thỉnh thoảng gần như ngắc ngứ ấy, hay là tin
vì nhìn thấy cặp mắt già nua và sáng ngời kia đã bao năm nhìn cuộc sống
với niềm tin tưởng này, hay là tin vì thấy cái vẻ điềm tĩnh, kiên quyết
và biết rõ nhiệm vụ của mình toát ra từ tất cả con người ông cụ, nó
khiến chàng đặc biệt kinh ngạc khi so sánh với tâm trạng sống buông
xuôi và tuyệt vọng của mình. Nhưng dù thế nào đi nữa, chàng vẫn muốn
tin với tất cả tâm hồn mình, và chàng tin thật sự, chàng vui mừng cảm
thấy lòng mình yên tĩnh lại, thấy mình đang hồi sinh và quay trở về với
cuộc sống. Người Tam điểm nói:
- Không thể hiểu được Người bằng lý trí, chỉ có thể hiểu được Người qua cuộc sống.
- Tôi không hiểu, - Piotr nói và sợ hãi cảm thấy nỗi ngờ vực nổi dậy
trong lòng. Chàng sợ ông ta lý luận mơ hồ và lỏng lẻo, chàng sợ mình
không tin ông ta. Chàng nhắc lại - Tôi không hiểu tại sao lý trí con
người lại không thể đạt đến sự hiểu biết mà ông nói.
Người Tam điểm mỉm cười, nụ cười dịu dàng của một người cha, và nói:
- Trí tuệ tối cao và chân lý cũng như chất nước tinh khiết nhất, mà
chúng ta muốn hấp thụ vào người. Tôi có thể hứng thứ nước tinh khiết
kia vào cái bình dơ bẩn của tôi rồi phê phán về sự tinh khiết của nó
không? Chỉ có cách làm cho bản thân tôi trong sạch, tôi mới có thể làm
nước hứng được trong sạch tới một mức độ nào đó.
- Phải rồi, phải rồi, đúng như thế - Piotr vui vẻ nói.
- Trí tuệ tối cao không phải chỉ xây dựng trên lý trí mà thôi, nó không
phải xây dựng trên những khoa học trần thế như vật lý học, sử học, hoá
học, v.v… là những ngành nhận thức lý tính. Trí tuệ tối cao là duy
nhất, trí tuệ tối cao chỉ có một khoa học, cái khoa học của toàn cục,
cái khoa học cắt nghĩa tất cả vũ trụ và địa vị của con người trong vũ
trụ. Muốn tự mình hấp thụ được cái khoa học ấy thì nhất thiết phải làm
cho lòng mình trong sạch và đôỉ mới, cho nên trước khi biết cần phải
tin và tu sửa mình. Và chính để đạt mục đích ấy nên trong tâm hồn chúng
ta mới có cái ánh sáng thiêng liêng mà chúng ta gọi là lương tâm.
- Phải rồi, phải rồi - Piotr tán thành.
- Ta hãy dùng con mắt tinh thần nhìn vào nội tâm của ta và thử hỏi xem
ta có bằng lòng mình không. Bấy lâu đi theo lý trí đơn thuần, ta đã đạt
được những gì? Mình là người thế nào? Thưa ông, ông còn trẻ, ông giàu
có, ông thông minh, ông có học thức. Với tất cả những thứ quý báu ấy mà
Thượng đế đã ban cho ông, ông đã làm gì? Ông có thoả mãn về bản thân
ông và về cuộc sống của ông không?
- Không, tôi căm ghét cuộc sống của tôi. - Piotr cau mày đáp.
- Mình đã căm ghét nó, thì hãy thay đổi nó đi, hãy làm cho mình trong
sạch thì mình càng có được sự thông tuệ. Thưa ông, ông hãy nhìn cuộc
sống của ông mà xem. Ông đã sống nó như thế nào? Toàn là những cuộc
truy hoan cuồng đãng, những cảnh truỵ lạc, ông nhận ở xã hội đủ mọi thứ
nhưng không trả lại cho nó một tý gì. Ông đã được giàu có. Ông đã dùng
của cải của ông như thế nào? Ông đã làm gì cho đồng loại? Ông có nghĩ
đến hàng vạn nô lệ của ông, ông có giúp đỡ họ về vật chất và tinh thần
hay không? Không, ông đã lợi dụng sức lao động của họ để sống một cuộc
đời phóng đãng. Đấy ông đã làm như thế đấy. Ông có chọn một công việc
cố thể giúp ích cho đồng loại của mình không? Không, ông sống một cuộc
đời nhàn rỗi. Rồi ông lấy vợ, thưa ông, ông đã đảm đương lấy trách
nhiệm dìu dắt của một người thiếu phụ, thế rồi ông đã làm gì? Thưa ông,
ông không giúp đỡ cho người ta tìm thấy con đường đi đến chân lý; trái
lại ông đã đẩy người ta vào vực thẳm của dối trá và bất hạnh. Một người
đã làm nhục ông và ông giết người ta, thế rồi ông bảo rằng ông không
biết đến Thượng đế và ông căm ghét cuộc sống của ông. Thưa ông, điều đó
chẳng có gì là lạ hết.
Nói đoạn, người Tam điểm tựa hồ như đã mệt vì phải nói một hơi dài, lại
tựa khuỷu tay vào lưng đi-văng và nhắm mắt lại. Piotr nhìn khuôn mặt
khắc khổ, im lìm, già nua, gần như chết cứng ấy, và mấp máy đôi môi
nhưng không nói lên thành tiếng. Chàng muốn nói: Phải, đó là một cuộc
sống đê tiện, nhàn rỗi, truỵ lạc; nhưng chàng vẫn không dám phá vỡ sự
yên lặng.
Người Tam điểm ho lên mấy tiếng khàn khàn, tiếng ho của những người già cả, và gòi người đầy tớ:
- Thế nào? đã có ngựa chưa? - Ông ta hỏi, mắt không nhìn Piotr.
- Họ đã đưa ngựa trạm đến, - người đầy tớ đáp. - Ngài không nghỉ à?
- Không, bảo thắng ngựa đi.
Piotr đứng lên, đầu cúi gầm đi đi lại lại trong phòng, chốc chốc lại
liếc mắt nhìn người Tam điểm. Chàng thầm nghĩ: "Lẽ nào ông ta ra đi và
bỏ ta lại một mình, không nói cho ta biết tất cả những điều ông ta cần
phải nói, cũng không hề hứa hẹn giúp đỡ ta? Ừ phải, ta chưa bao giờ
nghĩ đến điều đó, ta đã sống một cuộc đời truỵ lạc đáng khinh, nhưng ta
có ưa thích gì nó đâu, ta có muốn thế đâu. - Piotr suy nghĩ. - Người
này biết được chân lý, - Piotr muốn nói với người Tam điểm nhưng lại
không dám. Người khách sắp xếp hành lý với đôi bàn tay già nua mà thành
thạo cài lại cúc áo da lông, rồi quay sang nói với Bezukhov, giọng lãnh
đạm và khách khí:
- Ngài làm ơn cho biết bây giờ ngài đi đâu?
- Tôi ư" Tôi đi Petersburg - Piotr đáp, giọng ngập ngừng như giọng trẻ
con. - Cảm ơn ông. Tôi hoàn toàn đồng ý với ông. Nhưng xin ông đừng
nghĩ rằng tôi xấu xa đến thế. Tôi tha thiết mong trở thành con người
như ông muốn, nhưng xưa nay chưa bao giờ tôi được ai giúp đỡ… Vả chăng,
tất cả đều là lỗi của tôi trước tiên. Xin ông hãy giúp tôi, giáo dục
tôi và may ra tôi sẽ… - Piotr không thể nói thêm nữa, chàng khịt mũi
mấy cái rồi lại quay đi.
Người Tam điểm im lặng một hồi lâu, có vẻ như đang suy tính điều gì.
- Chỉ có Thượng đế mới có thể giúp đỡ được, nhưng Hội của chúng tôi sẽ
giúp ông trong phạm vi nó có thế làm được. Ông đến Petersburg, vậy ông
hãy đưa cái này cho bá tước Villarxki (ông ta rút ví lấy một tờ giấy
lớn gấp tư lại và viết lên đấy mấy chữ). Ông cho phép tôi khuyên ông
một câu. Khi về đến thủ đô, trong những ngày đầu, ông hãy rút vào cảnh
cô độc, tự phản tỉnh và đừng đi theo con đường cũ nữa. Bây giờ xin chúc
ông lên đường bình an - Ông ta kết luận khi thấy người đầy tớ bước vào
- và chúc ông thành công.
Căn cứ vào quyển sổ của trạm trưởng, Piotr biết rằng người khách là
Ioxif Alekxeyevich Bazdeyev là một người Tam điểm và một người
Martimx(2) nổi tiếng vào bậc nhất ngay từ thời Novikov(3).
Ông ta đi đã được một hồi lâu mà Piotr vẫn không đi ngủ, cũng không bảo
đem ngựa đến, cứ đi đi lại lại trong gian phòng của nhà trạm, trầm ngâm
suy nghĩ đến cái dĩ vãng hư hỏng của mình, và với tâm trạng say sưa của
một người vừa tái sinh, chàng hình dung cái tương lai hạnh phúc, lương
thiện, hoàn hảo của mình mà chàng cảm thấy rất dễ thực hiện. Chàng có
cảm tưởng rằng sở dĩ trước kia chàng hư hỏng chỉ là vì chàng đã ngẫu
nhiên quên mất rằng làm con người có đạo đức thì sung sướng biết chừng
nào. Trong lòng chàng chẳng còn dấu vết gì của những điều hoài nghi
trước đây.
Chàng tin chắc rằng con người có thể thương yêu nhau, liên kết với nhau
để giúp đỡ nhau trên con đường đạo đức, và chàng hình dung hội Tam điểm
là như vậy.

Chú thích:
(1) Một hội kín có tính chất vừa tôn giáo vừa chính trị. Cũng gọi là "Hội thợ nề tự do".
(2) Người Maninixt: Người Tam điểm theo lý thuyết của Claude Saint
Martiniste. Trong những người Tam điểm Nga có nhiều người Martiniste.
(3) Novikov (1744 - 1818): Một nhà giáo dục Nga xuất sắc ở thế kỷ 18, hội viên Hội Tam điểm.
================================

Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 EmptySat Dec 25, 2010 8:50 am

Phần V

Chương - 3 -




Về đến Petersburg, Piotr không báo tin cho ai biết mình đã về,
chàng không đi đâu cả và luôn mấy ngày chỉ đọc quyển sách của Thomas a
Kempit (1) mà không hiết ai đã gửi cho chàng. Chàng chỉ hiểu một điều,
và một điều duy nhất khi đọc quyển sách này đó là một niềm vui xưa nay
chưa hề biết: tin tưởng rằng người ta có thể đạt đến chỗ chí thiện, và
có thể thực hiện tình hữu ái tích cực giữa người với người như Ioxif
Alekxeyevich đã giác ngộ cho chàng.
Chàng về được một tuần thì một buổi chiều bá tước Villarxki, một người
Ba Lan trẻ tuổi mà Piotr có quen biết qua loa trong giới giao tế ở
Petersburg, đến phòng chàng, vẻ mặt trang trọng như người làm nhân
chứng cho Dolokhov trước đây khi đến nhà chàng. Sau khi đóng cửa và yên
chí rằng ngoài mình và Piotr ra trong phòng không còn ai nữa, ông ta
nói với chàng:
- Thưa bá tước, tôi đến tìm bá tước để làm tròn một nhiệm vụ uỷ thác và
bàn với bá tước một điều - Ông ta nói với chàng, không ngồi xuống ghế -
Có một người ở địa vị rất cao ở trong hội chúng tôi yêu cầu cho phép
ông được gia nhập hội sớm hơn thời hạn quy định và đề nghị tôi làm
người bảo lãnh cho ông. Tôi xem việc thực hiện ý muốn của người ấy là
một bổn phận thiêng liêng. Vậy ông có muốn gia nhập Hội Tam điểm với sự
bảo lãnh của tôi không?
Giọng nói lạnh lùng và nghiêm nghị của con người mà hầu như bao giờ
chàng cũng gặp trong những buổi khiêu vũ với vẻ mặt tươi tắn ân cần,
giữa những người đàn bà kiều diễm và sang trọng nhất, làm Piotr ngạc
nhiên. Chàng nói:
- Vâng, tôi muốn vào.
Villarxki gật đầu.
- Còn một câu hỏi nữa mà tôi yêu cầu bá tước trả lời tôi hết sức thành
thực, không phải với tư cách một hội viên tương lai của hội Tam điểm mà
là tư cách một chính nhân quân tử (galant homme): Ông đã từ bỏ những
quan niệm trước đây của ông chưa? Ông có tin Thượng đế không?
Piotr trầm ngâm.
- Vâng… vâng… Tôi tin Thượng đế - chàng nói.
- Nếu vậy - Villarxki bắt đầu nói, nhưng Piotr đã ngắt lời ông ta, nhắc lại một lần nữa:
- Vâng, tôi tin Thượng đế.
- Nếu vậy thì chúng ta có thể ra đi, - Villarxki nói. Ông cứ dùng xe ngựa của tôi.
Trên suốt đoạn đường, Villarxki vẫn nằm im. Khi Piotr hỏi chàng sẽ phải
làm gì và phải trả lời như thế nào thì Villarxki chỉ đáp lại rằng những
hội hữu có tư cách hơn ông ta sẽ thử thách chàng và chàng chỉ cần nói
thật là được.
Sau khi đã đi qua cổng lớn của ngôi nhà dùng làm hội hộ sở và bước lên
một cầu thang gác tối om, họ vào một căn phòng ngoài nhỏ có thắp đèn
sáng, và tự cởi áo khoác, không có người hầu nào cởi hộ. Họ rời khỏi
phòng áo và bước vào một phòng khác. Một người phục sức kỳ dị xuất hiện
ở cửa. Villarxki đến nói thầm thì bằng mấy câu bằng tiếng Pháp với
người đó rồi đến gần một cái tủ nhỏ, Piotr nhận thấy trong tủ có những
thứ quần áo mà chàng chưa bao giờ trông thấy. Villarxki lấy ở trong tủ
ra một cái khăn tay, bịt mắt Piotr và thắt nút ở sau gáy, tóc của chàng
cũng bị buộc vào trong nút khiến chàng thấy đau nhói. Rồi ông ta kéo
chàng về phía mình, hôn chàng và nắm tay chàng dắt đi. Tóc chàng bị cái
nút thắt lại rất đau, chàng nhăn mặt và đồng thời mỉm cười vì cảm thấy
xấu hổ thế nào ấy. Thân hình to lớn, hai tay buông thõng, khuôn mặt
nhăn nhó và tươi cười Piotr rụt rè lần bước theo Villarxki.
Sau khi đưa chàng đi được mươi bước, Villarxki dừng lại nói:
- Dù có gặp điều gì ông cũng phải dũng cảm chịu đựng, nếu quả ông đã quyết tâm vào hội chúng tôi.
Piotr gật đầu ưng thuận.
Villarxki nói thêm:
- Khi nghe có tiếng gõ ngoài cửa, ông hãy cất khăn bịt mặt đi. Tôi chúc ông can đảm và may mắn.
Rồi Villarxki bắt tay Piotr và đi ra.
Piotr ở lại một mình, vẫn mỉm cười như lúc nẫy. Đã hai lần chàng nhún
vai, giơ tay lên sờ cái khăn như muốn cất nó đi, nhưng rồi lại buông
tay xuống. Năm phút chàng trải qua trong khi bị bịt mắt đối với chàng
dài như cả một tiếng đồng hồ. Tay chàng tê đi, chân chàng không đứng
vững; Chàng có cảm tưởng như mình mệt mỏi lắm. Chàng có cảm giác hết
sức phức tạp và khác nhau. Chàng sợ những việc sắp xảy ra, nhưng còn có
một điều chàng sợ hơn nữa là để cho người ta thấy mình sợ hãi. Chàng tò
mò muốn biết những việc mình sắp chứng kiến và những điều người ta sẽ
cho chàng biết, nhưng điều làm cho chàng hào hứng hơn cả là giờ phút
bước lên con đường hồi sinh, sống cuộc đời lương thiện, tích cực đã
đến, điều mà chàng vẫn mơ ước từ khi gặp Ioxif Alekxeyevich. Có tiếng
gõ mạnh ở ngoài cửa, Piotr cất khăn và đưa mắt nhìn quanh. Trong phòng
tối om, ở một góc phòng chỉ có một ngọn đèn nhỏ leo lét cháy trong một
vật gì trăng trắng. Piotr đến gần hơn và thấy ngọn đèn đặt trên một cái
bàn đen, trên bàn có một quyển sách mở rộng: đó là quyển Phúc âm, còn
cái vật trăng trắng trong đó ngọn đèn cháy leo lét là một cái sọ người,
hốc mắt sâu hoắm và răng nhe ra. Sau khi đọc dòng chữ đầu tiên trong
quyển Phúc âm: "Thoạt kỳ thuỷ là Đạo và Đạo là Thượng đế", Piotr đi
quanh cái bàn và thấy một cái hòm gỗ lớn mở nắp đựng đầy một thứ gì
không rõ. Đó là một cỗ quan tài đựng xương người. Những thứ chàng trông
thấy không làm cho chàng ngạc nhiên. Hy vọng bước vào một cuộc đời hoàn
toàn mới mẻ, hoàn toàn khác cuộc sống cũ, chàng sẵn sàng đón chờ những
việc kỳ lạ, còn kỳ lạ hơn những cái chàng vừa trông thấy.
Chiếc sọ người, cỗ quan tài, quyển Phúc âm đối với chàng hầu như là
những thứ chàng đã chờ đợi từ trước, và chàng còn chờ đợi những việc kỳ
dị hơn nữa. Cố sức làm cho tình cảm sùng đạo nảy sinh trong lòng mình,
chàng đưa mắt nhìn quanh, "Thượng đế, cái chết, tình yêu, tình hữu ái
huynh đệ giữa người với người" - Chàng vừa tự nhủ vừa liên hệ những chữ
này với những hình ảnh mơ hồ nhưng phấn khởi. Cánh cửa bỗng mở ra và
một người bước vào.
Dưới ánh sáng leo lét mà Piotr đã quen nhìn, chàng trông thấy một người
thâm thấp. Hình như người này vừa từ một nơi có ánh sáng bước vào chỗ
tối nén phải dừng lại một lát; rồi người đó thận trọng bước tới cạnh
bàn và đặt lên đó đôi bàn tay nhỏ đeo găng da.
Người thấp nhỏ này mặc một cái áo tạp dề bằng da trắng, che cả ngực và
một phần chân, ở cổ đeo một thứ vòng, ở dưới chiếc vòng nổi bật lên một
cái nềm viền cổ trắng, cao đóng khung khuôn mặt dài được chiếu sáng từ
phía dưới lên. Nghe tiếng động khẽ của Piotr, người mới vào liền quay
về phía chàng, hỏi:
- Anh đến đây làm gì? Tại sao một người không tin vào ánh sáng của chân
lý và không nhìn thấy ánh sáng ấy như anh lại đến đây làm gì? Anh muốn
gì ở chúng tôi? Có phải anh muốn sự thông tuệ đạo đức và ánh sáng không?
Ngay từ khi cánh cửa lớn mở ra và người lạ mặt kia bước vào, Piotr có
một cảm giác sợ hãi và tôn kính giống như cảm giác hồi còn nhỏ mỗi lần
đi xưng tội. Chàng cảm thấy mình đang mặt giáp mặt với một người hoàn
toàn xa lạ trong đời sống hàng ngày, nhưng gần gũi vì tình hữu ái của
nhân loại. Tim đập mạnh đến nỗi không thở được nữa, chàng đến gần
thuyết sư (trong hội Tam điểm, người hội hữu chuẩn bị cho người đi
tìm(2) gia nhập hội được gọi là thuyết sư).
Khi đến gần hơn, Piotr nhận ra người thuyết sư là một người chàng có
quen, tên là Xmiliamkov, nhưng chàng cảm thấy khó chịu khi nghĩ rằng
người vừa bước vào là một người quen: chàng chỉ muốn coi người ấy như
một hội hữu và một thuyết sư có đạo đức. Piotr một hồi lâu không nói
được một lời nào, khiến người thuyết sư phải nhắc lại câu hỏi hồi nãy.
Chàng ấp úng:
- Vâng, tôi… tôi… tôi muốn tự đổi mới.
- Tốt lắm - Xmôlianikov nói.
- Tôi muốn quan niệm rằng hội "Tam điểm" là tình huynh đệ và bình đẳng
giữa mọi người nhằm những mục đích đạo đức - Piotr nói và thấy xấu hổ
vì cho rằng những lời nói của mình không ăn khớp với tính chất trang
trọng của giờ phút này - tôi cho rằng…
- Tốt lắm - người thuyết sư vội vã nói, hẳn là ông ta hoàn toàn hài
lòng về câu trả, lời, - trước đây anh có tìm ở trong tôn giáo những
biện pháp để đạt đến mục đích của mình không?
- Không. Trước đây tôi cho rằng tôn giáo là một sai lầm, và tôi không
theo, - Piotr nói khẽ đến nỗi người thuyết sư không nghe ra, phải hỏi
lại xem chàng nói gì. Piotr đáp - Trước đây tôi là người vô thần…
- Anh tìm chân lý để sống theo những quy tắc của chân lý; cho nên anh
tìm thông tuệ và đạo đức, có phải thế không? - Người thuyết sư nói sau
một lát im lặng.
- Vâng, vâng. - Piotr xác nhận.
Người thuyết sư đằng hắng một tiếng, đặt hai bàn tay đeo găng lên ngực và bắt đầu nói:
- Bây giờ tôi phải tuyên bố cho anh biết mục đích chính của hội chúng
tôi, và nếu mục đích ấy trùng với mục đích của anh thì anh vào hội
chúng tôi là có lợi. Mục đích đầu tiên, chủ yếu nhất, đồng thời là cơ
sở của hội chúng tôi, trên đó hội chúng tôi được xây dựng, và không một
lực lượng nào của loài người có thể lật đổ được, đó là bảo vệ và lưu
truyền cho hậu thế một điều bí mật quan trọng… được truyền tới ngày nay
từ thời xa xăm nhất, mãi từ thời con người đầu tiên cho đến chúng ta,
và có lẽ vận mệnh của nhân loại cũng lệ thuộc vào điều bí mật đó. Nhưng
vì điều bí mật đó không ai có thể biết được và sử dụng được nếu như bản
thân mình không được chuẩn bị từ trước bằng cách tu thân lâu dài và
kiên nhẫn; cho nên không phải người nào cũng có thể hy vọng nắm được nó
một cách nhanh chóng. Vì vậy, chúng tôi có một mục đích thứ hai là
chuẩn bị các hội viên chúng tôi cho thật chu đáo để đổi mới tâm hồn họ,
làm cho lòng họ trong sạch và soi sáng lý trí của họ bằng những biện
pháp mà những con người đã nỗ lực tìm hiểu điều bí mật ấy đã truyền lại
cho chúng tôi, và chính những biện pháp này sẽ khiến họ nám được điều
bí mật mà tôi đã nói. Thứ ba, trong khi tu sửa và làm cho các hội viên
chúng tôi được trong sạch, chúng tôi cố gắng cải tạo tất cả loài người
bằng những tấm gương sùng tín và đạo đức trong các hội viên chúng tôi
và cố hết sức dùng cách đó để chống lại cái ác đang thống trị thế giới.
Anh hãy suy nghĩ kỹ về việc đó đi và tôi sẽ gặp lại anh - Ông ta nói
đoạn bước ra khỏi phòng.
- Chống lại cái ác đang thống trì thế giới… - Piotr nhắc lại và hình
dung hoạt động sau này của mình trong lĩnh vực này. Chàng hình dung
những con người như chàng cách đây hai tuần lễ, và trong trí tưởng
tượng chàng nói với họ những lời dạy dỗ khuyên răn. Chàng hình dung
những con người hư hỏng và bất hạnh mà chàng sẽ giúp đỡ bằng lời nói và
việc làm, chàng tưởng tượng mình đang cứu những người khốn khổ thoát
khỏi bàn tay những kẻ áp bức họ. Trong ba mục đích mà người thuyết sư
kể cho chàng nghe thì mục đích cuối cùng, mục đích cải tạo nhân loại là
đặc biệt gần gũi với chàng. Điều bí mật quan trọng gì đấy mà người
thuyết sư nhắc đến tuy có khêu gợi trí tò mò của chàng, nhưng đối với
chàng không phải là điều chủ yếu; còn mục đích thứ hai là tu sửa mình
và làm cho mình trong sạch thì chàng ít quan tâm đến, bởi vì trong giờ
phút này chàng khoan khoái cảm thấy mình đã hoàn toàn từ bỏ được những
tật xấu ngày trước và sẵn sàng chỉ làm điều thiện mà thôi.
Nửa giờ sau, người thuyết sư quay lại nói cho người tìm hiểu biết bảy
đức tính tương ứng với bảy bậc thềm của thần miếu Salomon(3), mà mỗi
người Tam điểm đều phải trau dồi cho mình.
Những đức tính ấy là:
1. Kín đáo, tôn trọng những bí mật của hội.
2. Phục tùng các hội viên thượng cấp của hội,
3. Sống đạo đức,
4. Yêu nhân loại,
5. Dũng cảm,
6. Đại lượng
7. Yêu cái chết.
Thứ bảy, - người thuyết sư nói - Anh phải cố gắng thường nghĩ đến cái
chết để tiến tới chỗ không coi nó là một kẻ thù ghê sợ nữa, mà là một
người bạn… giải thoát linh hồn đã mệt mỏi vì những việc hiện ra khỏi
cuộc sống này và đưa nó lên nơi cực lạc, nghỉ ngơi.
"Phải rồi, phải như thế mới được - Piotr ngẫm nghĩ khi người thuyết sư
lại lui ra sau những lời này và để chàng ngồi một mình trầm ngâm suy
nghĩ. - Phải rồi, phải như vậy mới được, nhưng ta còn yếu đuối đến nỗi
vẫn ham chuộng cuộc sống của ta mà mãi đến nay ý nghĩa mới dần dần hiện
rõ trước mắt ta". Còn năm đức tính kia, - chàng tính đốt ngón tay nhớ
lại, chàng cảm thấy mình đều có: (dũng cảm, đại lượng, sống đạo đức,
tình yêu nhân loại, và đặc biệt là sự phục tùng), cái này đối với chàng
thậm chí không phải là một đức tính mà là một nguồn hạnh phúc (chàng
vui sướng làm sao khi được thoát khỏi cái tự do phán đoán của mình và ý
chí mình phải phục tùng những người nắm được cái chân lý hiển nhiên).
Còn về đức tính thứ bảy thì Piotr đã quên khuấy đi mất, không tài nào
nhớ lại được.
Lần thứ ba người thuyết sư quay trở lại nhanh hơn những lần trước và
hỏi Piotr xem chàng có giữ vững ý định không và có quyết tâm tuân theo
tất cả những điều người ta đòi hỏi ở chàng không.
- Tôi sẵn sàng làm tất cả - Piotr nói.
- Tôi còn phải nói cho anh biết một điều - người thuyết sư nói - Hội
chúng tôi truyền đạt giáo lý của mình không phải chỉ bằng lời nói mà
còn bằng những biện pháp khác có tác dụng đến con người đi tìm sự thông
tuệ và đạo đức có lẽ còn mạnh hơn những lời đã giải thích. Ngôi đền
này, với cách trần thiết mà anh đã nhìn thấy, chắc đã nói được với lòng
anh nhiều hơn là những lời nói, nếu lòng anh thành thực; và có lẽ trong
nghi thức nhập hội sắp đến anh sẽ thấy một phương thức truyền đạt tương
tự. Hội chúng tôi bắt chước những hội thời cổ đại, biểu hiện học thuyết
của mình bằng những chữ tượng hình. Chữ tượng hình - người thuyết sư
nói - là sự biểu hiện một cái gì không cảm giác được và cái này có
những tính chất tương tự với vật được biểu hiện.
Piotr biết rất rõ chữ tượng hình là gì nhưng chàng không dám nói. Chàng
im lặng lắng nghe người thuyết sư: Qua tất cả những điều đã thấy được,
chàng cảm thấy cuộc thử thách sắp sửa bắt đầu.
- Nếu anh quyết tâm, thì tôi phải làm lễ nhập hội cho anh - người hướng
dẫn nói trong khi đến gần Piotr hơn. - Để biểu lộ lòng đại lượng của
anh, tôi xin anh đưa cho tôi tất cả những vật quý mà anh có.
- Nhưng tôi có mang gì trong người đâu - Piotr nói, vì chàng tưởng
người ta bảo chàng trao lại tất cả của cải hiện có của chàng. Nghĩa là
những thứ anh hiện có trên người: đồng hồ, tiền bạc, nhẫn…
Piotr vội vã đưa túi tiền, đồng hồ và một hồi lâu loay hoay mãi mới rút
được chiếc nhẫn cưới ra khỏi ngón tay múp míp. Khi chàng đã làm xong,
người thuyết sư nói:
- Để tỏ lòng phục tùng của anh, tôi yêu cầu anh cởi quần áo.
Piotr cởi áo gi-lê và tháo giày ở chân trái theo lời chỉ dẫn của người
thuyết sư. Người Tam điểm cởi khuy áo sơ mi của chàng, phanh hở phía
bên trái ngực và cúi xuống kéo ống quần bên trái của chàng lên quá đầu
gối. Piotr vội vã toan tháo luôn cả chiếc giày bên chân phải và xắn ống
quần bên phải lên để cho người lạ mặt đỡ mất công, nhưng người Tam điểm
bảo chàng không cần phải làm như thế và đưa cho chàng một chiếc giày
vải để xỏ vào chân trái. Với một nụ cười trẻ con thẹn thùng, ngờ vực và
tư thế nhạo hiện rõ trên môi mặc dầu chàng không muốn, hai tay buông
thõng, hai chân chạng ra, Piotr đứng trước mặt người hội hữu thuyết sư
đợi những mệnh lệnh mới, và cuối cùng để biểu lộ lòng thành thực: tôi
yêu cầu anh cho biết dục vọng chính của anh.
- Dục vọng của tôi ư! Trước kia tôi có nhiều lắm - Piotr nói.
- Dục vọng nào làm cho anh vấp ngã nhiều nhất trên con đường đạo đức? - người Tam điểm nói.
Piotr im lặng, bắn khoăn. "Rượu? Ăn phàm? Nhàn rỗi? Lười biếng? Nóng
nảy? Thù hằn? Gái?" - Chàng nhẩm điểm lại trong tâm trí những tật xấu
của mình cân nhắc mình không biết nên dành ưu tiên cho tật xấu nào.
- Gái - chàng nói rất khẽ, chỉ thoáng nghe được mà thôi. Sau câu trả lời ấy, người Tam điểm đứng yên không nói một hồi lâu.
Cuối cùng ông ta đến gần Piotr, lấy cái khăn tay ở trên bàn rồi lại bịt mắt chàng.
- Lần cuối cùng tôi nói với anh: Anh phải tập trung tất cả tâm trí vào
bản thân mình, phải kiềm chế các cảm giác và tìm hạnh phúc không phải ở
những dục vọng mà ở trong tim mình. Nguồn gốc của hạnh phúc không phải
ở ngoài ta mà ở trong ta.
Piotr đã bắt đầu cảm thấy nguồn hạnh phúc mát mẻ kia tuôn chảy trong
lòng chàng, làm cho tâm hồn chàng giờ đây tràn dầy một niềm vui và một
nỗi xúc động êm dịu khác thường.

Chú thích:
(1) Thomas Kempit (1379 - 1471): Tu sĩ Cơ đốc giáo, người Đức, nhà văn
tôn giáo. Quyển sách nói đây là quyển bắt chước Giê - su Cơ đốc.
(2) Tức người muốn vào hội Tam điểm để đi tìm chân lý.
(3) Salomon, vua nước Israel và là người đã dựng lên ngôi đền
Jerusalem. Salomon được các dân tộc Cận Đông cho là một bậc anh quân và
là một nhà hiền triết.
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 EmptySat Dec 25, 2010 8:50 am

Phần V

Chương - 4 -




Một lát sau có người đến tìm Piotr trong gian phòng tối. Lần này
không phải người thuyết sư hồi nãy, mà là Villarxki, người bảo lãnh của
chàng mà chàng nhận ra nhờ giọng nói. Khi Villarxki hỏi lại xem chàng
có quyết tâm không thì chàng đáp:
- Vâng, vâng, tôi bằng lòng. - Rồi chàng nở một nụ cười rạng rỡ của trẻ
con và cứ để hở cái ngực trần béo đẫy, một chân đi giày một chân không,
chàng bước đi dè dặt, vụng về trong khi Villarxki dí một thanh kiếm vào
giữa vào khoảng ngực để trần của chàng. Người ta đưa chàng ra khỏi
phòng, đi qua những dãy hành lang quanh co và cuối cùng đến cửa hội sở.
Villarxki đằng hắng một tiếng. Tức thì có tiếng dùi vồ gõ mấy cái đáp
lại theo lối Tam điểm. Một giọng trầm mà chàng không biết là của ai -
vì mắt chàng vẫn bị bịt kín - hỏi chàng là ai, ở nơi nào, sinh năm nào,
v.v… sau đó, người ta lại đưa chàng đến một chỗ khác trong khi chàng
vẫn bị bịt mắt, và trong lúc đi người ta dùng những hình ảnh phúng dụ
để nói với chàng về những nỗi gian khổ của cuộc hành trình chàng sẽ đi,
về tình hữu ái thiêng liêng, về đấng vĩnh viễn đã sáng tạo ra thế giới,
về tinh thần dũng cảm mà chàng phải có trong khi chịu đựng những gian
khổ hiểm nguy. Trong lúc đi như vậy, Piotr nhận thấy người ta gọi chàng
khi thì là kẻ đi tìm, khi thì là kẻ đau khổ khi thì lại gọi là kẻ yêu
cầu và trong khi gọi như vậy họ lại lấy dùi vồ và kiếm gõ mỗi lần một
khác. Trong lúc họ đưa chàng đến gần một vật gì không rõ, chàng nhận
thấy giữa những người dẫn đường có sự phân vân và lúng túng. Chàng nghe
những người xung quanh chàng bàn tán thì thào, và có một người yêu cầu
phải đưa chàng đặt lên một vật gì, đoạn ra lệnh cho chàng lấy tay trái
dí một cái com-pa vào vú bên trái và bắt chàng nhắc lại những lời thề
trung thành với các luật lệ của hội, do một người khác đọc lên. Sau đó,
họ tắt nến, đốt rượu cồn lên - Piotr đoán như vậy vì ngửi thấy mùi cồn
- và họ nói rằng chàng sẽ được thấy ánh sáng nhỏ. Họ cởi khăn bịt mắt
và Piotr thấy như trong giấc mơ, trong ánh lửa leo lét của rượu cồn có
một vài người cũng mặc thứ tạp dề như người thuyết sư, đứng trước mặt
chàng và giơ kiếm chĩa vào ngực chàng. Trong số này, có một người mặc
một chiếc áo sơ mi vấy máu.
Trông thấy thế, Piotr ưỡn ngực về phía những thanh kiếm, hy vọng rằng
những thanh kiếm kia sẽ đâm suốt ngực mình. Nhưng người ta lập tức thu
kiếm lại và bịt mắt chàng lại như cũ.
- Bây giờ anh đã được thấy ánh sáng nhỏ - một người nào đó nói với
chàng. Đoạn người ta lại thắp nến lên, và bảo chàng cần phải nhìn thấy
ánh sáng lớn. Người ta lại cất khăn bịt mắt đi và hơn mười người đồng
thanh nói: Sic transit gioria Mundil(1).
Piotr dần dân định thân và đưa mắt nhìn gian phòng trong đó chàng đứng,
cùng những người có mặt ở đấy. Có người ngôi xung quanh một cái bàn dài
phủ vải đến, tất cả đều ăn mặc như những người chàng thấy từ lúc nãy.
Chàng nhận ra một vài người mà chàng đã gặp trong giới xã giao
Petersburg. Một người trẻ tuổi lạ mặt ngồi ghế chủ toạ, trên cổ đeo một
cây thập tự đặc biệt. Ở bên trái ông ta, là vị giáo sư ý mà Piotr đã
gặp cách đây hai năm ở nhà Anna Pavlovna. Ở đây lại có một viên đại
thần rất trọng yếu và một gia sư người Thuỵ Sĩ trước đây đã sống ở nhà
gia đình Kuraghin.
Tất cả đều im lặng trang nghiêm lắng nghe vị chủ toạ cầm dùi vồ.
Trên tường gắn một ngôi sao sáng rực. Ở một bên bàn là một cái thảm nhỏ
có vẽ nhiều hình tượng trưng khác nhau; và ở bên kia bàn là một thứ bàn
thờ với một quyển Phúc âm và một cái sọ người.
Xung quanh bàn có bảy cái cây đèn nến lớn như loại cây đèn nến ở trong
nhà thờ. Hai người hội hữu dẫn Piotr đến bàn thờ, bắt chàng quỳ xuống,
hai chân làm thành một góc vuông, và ra lệnh cho chàng phải nằm xuống
đất, nói rằng chàng đang phục trước cửa thần miếu. Một người thì thào:
- Trước tiên phải cho anh ta nhận cái bay đã.
Một người khác nói:
- Ô thôi, xin im đi cho.
Piotr không phục xuống như người ta đã yêu cầu chàng đưa cặp mắt cận
thị ngơ ngác nhìn quanh, và đột nhiên chàng đâm hoài nghi: "Ta ở nơi
nào đây?" Ta đang làm gì thế này? Có phải họ đang chế nhạo ta không? Về
sau khi nhớ đến điều này, ta có xấu hổ không?" Nhưng ngờ vực này chỉ
thoáng qua trong khoảnh khắc. Piotr đưa mắt nhìn gương mặt nghiêm trang
của mấy người đứng xung quanh, sực nhớ lại tất cả những điều chàng đã
trải qua, và hiểu ràng không thể nào dừng lại ở giữa chừng được. Chàng
hoảng sợ vì mình đã hoài nghi, và cố gắng gây lại trong lòng mình niềm
cảm kích hồi nãy, chàng phủ phục xuống trước cửa thần miếu. Và quả
nhiên niềm cảm kích lại tràn vào tâm hồn chàng, lần này còn mãnh liệt
hơn lần trước nữa. Chàng phù phục như vậy được một lúc thì họ ra lệnh
cho chàng đứng dậy và mặc cho chàng một cái áo bay và ba đói găng, rồi
vị đại sư quay về phía chàng. Ông ta nói với chàng rằng chàng phải cố
gắng làm sao dừng làm bẩn màu trắng của cái tạp dề này vốn được tượng
trưng cho sự trong sạch và vững chắc.
Đoạn ông ta nói đến cái bay mà chàng chưa hiểu ý nghĩa, giải thích rằng
chàng phải cố gắng dùng cái bay này gạt bỏ những tật xấu, để làm cho
con tim của mình được trong sạch và san phẳng một cách rộng lượng con
tim của đồng loại. Còn về đoi găng thứ nhất, một đôi găng đàn ông, thì
ông ta nói rằng chàng không thể hiểu được ý nghĩa của nó nhưng phải gìn
giữ nó; về đôi găng thứ hai thì ông ta nói rằng chàng phải mang nó
trong các buổi họp, và cuối cùng, về đôi găng tay thứ ba, một đôi găng
phụ nữ, thì ông ta bảo: Hội hữu thân mến, đôi găng phụ nữ này được
trang bị cho hội hữu. Hội hữu sẽ trao nó cho người đàn bà mà hội hữu
kính trọng hơn hết. Cái quà tặng này sẽ chứng tỏ tấm lòng trong sạch
của bạn và con người mà bạn chọn làm một nữ hội viên Tam điểm xứng
đáng. Ông ta im lặng một lát rồi nói thêm: Nhưng hội hữu ạ, hội hữu
phải cẩn thận chớ để cho đôi găng này tô điểm những bàn tay ô uế!
Trong lúc vị đại sư nói câu cuối cùng này Piotr có cảm tưởng rằng ông
ta bối rối. Piotr còn bối rối hơn nữa, chàng đỏ bừng mặt đến nỗi nước
mắt rưng rưng như khi trẻ con đỏ mặt, đưa mắt lo lắng nhìn quanh. Một
phút im lặng ngượng ngùng trôi qua.
Phút im lặng này được một người hội hữu chấm dứt, người ấy đưa Piotr
đến cái thảm và bắt đầu đọc ở trong một quyển vở những lời giải thích
tất cả những ảnh hưởng trên thảm: Mặt trời, mặt trăng, cái dùi vồ, sợi
dây dọì, cái bay, hòn đá hoang đã hình khối vuông, cái cột trụ ba cái
cửa sổ, v.v… đoạn ông ta chỉ chỗ cho Piotr đứng, mách cho chàng biết
những ám hiệu của hội, khẩu lệnh vào cửa và cuối cùng cho phép chàng
ngồi xuống. Vị đại sư bắt đầu đọc điều lệ. Điều lệ rất dài, và Piotr vì
quá sung sướng, xúc động và xấu hổ nên không sao hiểu được những điều
ông ta đọc. Chàng chỉ nghe những lời cuối cùng và nhớ lấy những điều ấy.
- Trong hội chúng ta, chúng ta không biết đến những cấp bậc nào khác
ngoài sự phân biệt giữa đạo đức và tội lỗi. Hãy tránh gây nên những sự
phân biệt nào khác có thể vi phạm quyền bình đẳng.
Hãy lao mình đến cứu người hội hữu, bất cứ là ai, hãy soi sáng kẻ lạc
đường, hãy đỡ người sa ngã trở dậy và đừng bao giờ đem lòng thù hằn hay
chống đối hội hữu của mình. Hãy hiên hoà và niềm nở.
Hãy nhen lên trong lòng mọi người ngọn lửa của đạo đức, hãy chia sẻ
hạnh phúc của mình với đồng loại và dừng bao giờ để lòng ghen ghét làm
vẩn dục niềm lạc thú trong sạch này.
Hãy tha thứ cho kẻ thù, đừng trả thù họ trừ phi bằng cách làm điều
thiện đối với họ. Thực hiện được các quy tắc tối cao như vậy người sẽ
tìm thấy lại, những dấu vết của sự cao quý xưa kia của người nay đã mất…
Vị đại sư kết thúc và đứng dậy ôm hôn Piotr.
Piotr nhìn quanh, mắt rưng rưng những giọt lệ vui mừng, không biết nói
gì đề đáp lại những người xung quanh đang đến chúc mừng chàng và muốn
nối lại tình quen biết ngày xưa. Chàng không muốn nhận ra người quen
nào hết, trong số tất cả những người này, chàng chỉ thấy những người
hội hữu mà chàng nóng lòng mong muốn cùng nhau bắt tay vào cộng việc.
Vị đại sư gõ dùi vồ một cái, mọi người ngồi vào chỗ, và một hội hữu bắt
đầu đọc lời giáo huấn về sự cần thiết của tính khiêm nhường.
Vị đại sư đề nghị làm nhiệm vụ cuối cùng, và viên đại thần đảm nhận
việc quyên tiền bắt đầu đi vòng một lượt qua các hội hữu. Piotr muốn
ghi vào tờ giấy quyên tiền tất cả số tiền chàng hiện có nhưng sợ làm
như thế là tỏ ra kiêu ngạo, nên chỉ ghi một số tiền như những người
khác.
Buổi họp đã xong, và khi trở về nhà, Piotr có cảm tưởng như mình vừa đi
một cuộc du lịch xa xôi nào, kéo dài hàng chục năm, trong thời gian đó
chàng đã hoàn toàn thay đổi đã đoạn tuyệt với lối sống cũng như những
tập quán cũ của mình.

Chú thích:
(1) Vinh quang trần thế trôi qua như thế đấy! (tiếng La tinh)
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 EmptySat Dec 25, 2010 8:52 am

Phần V

Chương - 5 -




Ngày hôm sau, Piotr ngồi ở nhà đọc và cố gắng đi sâu vào ý nghĩa
của cái hình vuông trong đó một cạnh tượng trưng cho Thượng đế, cạnh
thứ hai cho đạo đức, cạnh thứ ba cho vật chất và cạnh thứ tư cho sự hỗn
hợp của vật chất và đạo đức. Chốc chốc, chàng lại rời quyển sách và cái
hình vuông, và tự đặt ra cho mình trong trí tưởng tượng một kế hoạch
sống mới. Hôm qua ở hội sở người ta đã mách chàng rằng những tin đồn về
cuộc đấu súng đã đến tai nhà vua và tốt nhất là chàng nên đi xa
Petersburg, Piotr dự định sẽ về các điền trang miền Nam và săn sóc tới
nông dân của chàng ở đấy. Chàng đang sung sưởng nghĩ đến cuộc sống mới
mẻ thì bỗng công tước Vaxili lù lù bước vào phòng.
- Này anh bạn, anh đã làm gì ở Moskva mà ghê thế? Anh bạn, tại sao anh
lại xích mích với Lelya(1). Anh lầm rồi. - Vaxili vừa bước vào phòng
vừa nói - Tôi biết hết rồi, tôi có thể cam doan với anh rằng Elen không
có lỗi gì với anh như chúa Cơ đốc không có lỗi gì với người Do thái vậy.
Piotr muốn đáp lại, nhưng ông ta đã ngắt lời chàng:
- Tại sao anh không nói thẳng với tôi một cách tự nhiên như nói với một
người bạn, thế chẳng hơn sao? Tôi biết hết, tôi hiểu hết rồi - Ông ta
nói - Anh đã hành động như một người đứng đắn biết tôn trọng danh dự,
có lẽ anh quá hấp tấp, nhưng ta sẽ không bàn đến. Chỉ xin anh nhớ cho
một điều là anh đã đặt tôi và Elen vào một tình trạng khó xử như thế
nào trước mặt mọi người, và thậm chí trước mặt triều đình nữa - Ông ta
hạ thấp giọng nói thêm - nó ở Moskva còn anh thì lại ở đây. Này anh
bạn, anh nhớ cho. - Ông ta nắm lấy tay chàng và kéo thấp xuống - Đây
chỉ là sự hiểu lầm mà thôi; tôi thiết tưởng chính bản thân anh cũng cảm
thấy thế. Bây giờ anh viết ngay cho tôi một bức thư gửi cho nó đi. Nó
sẽ đến đây và mọi việc sẽ được làm rõ ràng minh bạch, nếu không, tôi
nói cho anh biết, anh có thể rất dễ dàng gặp phải những chuyện không
hay đấy, anh ạ.
Công tước Vaxili nhìn Piotr một cách nhiều ý nghĩa.
- Tôi có những nguồn tin chắc chắn cho biết rằng hoàng thái hậu rất để tâm đến việc này. Chắc anh cũng biết Người rất quý Elen.
Đã mấy lần Piotr định nói nhưng một mặt công tước Vaxili không để cho
chàng nói, mặt khác bản thân chàng cũng chưa dám dùng ngay từ đầu cái
giọng cự tuyệt và chống đối quyết liệt mà chàng đã định dùng để trả lời
bố vợ. Hơn nữa, chàng lại nhớ đến điều lệ hội Tam điểm: "Phải hiền hoà
và niềm nở". Chàng nhăn nhó, đỏ bừng mặt, đứng lên rồi lại ngồi xuống,
giằng co với bản thân trong cái việc khó khăn nhất trên đời đối với
chàng, là nói thẳng vào mặt một người, bất kể người ấy là ai, những
điều khó chịu khác hẳn những điều mà họ dự đoán. Chàng đã quen phục
tùng cái giọng tự thị, lơ đễnh của công tước Vaxili đến nỗi ngay tới
bây giờ chàng cũng cảm thấy mình không đủ sức chống lại, nhưng chàng
cũng cảm thấy điều chàng sắp nói ra sẽ quyết định tất cả tương lai của
chàng: chàng sẽ đi theo con đường cũ hay là bước vào con đường mới mà
hội Tam điểm đã chỉ cho chàng với một sức hấp dăn mãnh liệt như vậy,
con đường mà chàng đã tin tưởng chắc chắn là sẽ đưa chàng đến sự tái
sinh trong một cuộc sống mới?
Công tước Vaxili nói, giọng bông đùa:
- Thôi anh ơi, anh cứ "ừ" với tôi một tiếng rồi tôi sẽ tự tay viết thư cho nó và chúng ta sẽ ăn mừng.
Nhưng công tước Vaxili chưa kịp nói hết câu bông đùa thì trên gương mặt
của Piotr đã hiện lên một vẻ giận dữ khủng khiếp nhắc nhở một trận lôi
đình của cha chàng.
Chàng nói khẽ, không nhìn vào mặt người tiếp chuyện:
- Thưa công tước, tôi không hề mời ông đến đây, ông đi đi, ông làm ơn
đi đi cho. - Chàng đứng phắt dậy ra mở cửa cho ông ta, - Ông đi đi -
chàng nhắc lại lòng không dám tin rằng mình có thể nói như vậy, và mừng
rỡ khi thấy cái vẻ lúng túng và sợ hãi hiên lên trên gương mặt công
tước Vaxili.
- Anh làm sao thế Anh ốm à?
- Ông đi đi! - Chàng nhắc lại một lần nữa, giọng run run.
Thế là công tước Vaxili đành phải ra về không lấy được một lời bày giải.
Một tuần sau Piotr từ biệt các bạn mới trong hội Tam điểm và sau khi đã
để lại một số tiền lớn dành cho những việc từ thiện, chàng lên đường về
các điền trang của mình. Các hội hữu đưa cho chàng những bức thư gửi
các hội viên Tam điểm ở Kiev và Odessa và hứa sẽ viết thư hướng dẫn
chàng trong hoạt động mới.

Chú thích:
(1) Tức Elen.
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 EmptySat Dec 25, 2010 8:52 am

Phần V

Chương - 6 -




Vụ Piotr đấu súng với Dolokhov đã được im đi và mặc dầu lúc bấy
giờ nhà vua rất nghiêm khắc đối với các vụ đấu súng, cả hai đương sự
cũng như những người làm chứng cho họ đều không bị trừng phạt. Nhưng
việc Piotr đoạn tuyệt với vợ đã xác nhận là cuộc đấu súng có xảy ra, và
tin này được truyền đi khắp giới xã giao. Piotr trước đây bị người ta
nhìn trịch thượng và khoan dung khi còn là một đứa con rơi, rồi được
vuốt ve chiều chuộng khi đã trở thành một "đám" xuất sắc nhất của đế
quốc Nga, thì sau khi cưới vợ chàng đã xuống giá rất nhiều trong dư
luận của giới xã giao vì bây giờ những cô con gái đến tuổi lấy chồng
cũng như các bà mẹ không mong đợi gì ở chàng được nữa. Thêm vào đấy
chàng lại không biết và không muốn tranh thủ thiện cảm của giới xã
giao. Cho nên bây giờ người ta cho rằng chàng là người duy nhất chịu
trách nhiệm về việc xảy ra. Người ta bảo chàng là một anh chồng ghen
bóng ghen gió, cũng có những cơn giận diên cuồng khát máu như cha chàng.
Sau khi Piotr ra đi, Elen trở về Petersburg và được tất cả những người
quen biết không những đón tiếp với một thái độ niềm nở mà còn ân cần
xen lẫn với sự kính trọng nỗi bất hạnh của nàng. Khi người ta bàn tán
đến chồng nàng, nàng lập tức phô ra một thái độ trang nghiêm đầy tự
trọng mà tuy không hiểu ý nghĩa ra sao nàng cũng tập được nhờ cái trực
giác nhạy bén sẵn có xưa nay. Thái độ nói lên rằng nàng đã quyết định
chịu đựng nỗi bất hạnh của mình không một lời than thở, và đức ông
chồng của nàng là cây thập tự mà Thượng đế đã bắt nàng phải vác trên
vai. Công tước Vaxili bày tỏ ý mình một cách lộ liễu hơn. Mỗi khi nói
đến Piotr ông ta lại nhún vai rồi chỉ lên trán mà nói:
- Thì tôi vẫn bảo là anh ấy hơi loạn óc mà.
- Tôi đã bảo từ trước kia. - Anna Pavlovna nói mỗi khi nhắc đến Piotr -
Tôi đã nói ngay từ đầu, trước ai hết (phu nhân cố nhấn mạnh cái công
đầu của mình), rằng anh ta là một chàng thanh niên điên rồ, đầu óc hư
hỏng vì những tư tưởng vô luân của thời đại. Tôi đã bảo thế ngay từ khi
tất cả mọi người còn tán dương anh ta, lúc anh ta mới ở ngoại quốc về,
và chắc hẳn các vị còn nhớ đấy chứ, trong một buổi tiếp tân ở nhà tôi,
anh ta đến, ăn như một Marat(1). Rốt cục là thế nào? Ngay từ đầu tôi đã
không tán thành cuộc hôn nhân và tôi đã đoán trước được tất cả những
điều sẽ xảy ra.
Cũng như trước, trong những ngày rảnh rang, Anna Pavlovna vẫn tổ chức
những buổi tiếp tân ở nhà mình, những tối tiếp tân mà chỉ phu nhân mới
có biệt tài tổ chức được, trong đó tập hợp trước hết, tất cả cái tinh
hoa của xã hội thượng lưu chân chính, cái tinh hoa của giới trí thức
trong xã hội Petersburg, như lời phu nhân vẫn thường nói. Ngoài việc
chọn lọc tân khách tinh vi như vậy, những buổi tiếp tân của Anna
Pavlovna lại còn có một điểm đặc sắc nữa là mỗi lần phu nhân đều đem
một nhân vật mới thú vị ra để thết khách, và không có nơi nào có chỉ số
của nhiệt kế chính trị trong những giới chính thống(2) của triều đình
Petersburg lại được biểu lộ rõ rệt và chắc chắn bằng những lối tiếp tân
này.
Cuối năm 1806, khi người ta đã biết rõ tất cả những chi tiết đau buồn
về trận Napoléon tiêu diệt quân đội Phổ ở Jena và Auerstet và một phần
lớn các pháo đài của Phổ đều đầu hàng, trong khi quân đội ta xâm nhập
vào nước Phổ và cuộc chiến tranh chống Napoléon lần thứ hai của ta đã
bắt đầu, thì Anna Pavlovna lại tổ chức một buổi tiếp tân ở nhà mình.
Tinh hoa của xã hội thượng lưu chân chính gồm có nàng Elen mê hồn và
bất hạnh, đã bị chồng ruồng bỏ, tử tước Mortemart, công tước Ippolit
khả ái vừa mới ở Viên về, hai nhà ngoại giao, bà dì của phu nhân, một
chàng thanh niên mà ở phòng khách này người ta gọi vắn tắt là "một con
người rất có giá trị", một ngự tiền phu nhân vừa mới được bổ nhiệm cùng
đến với mẹ, và một vài người khác ít nổi tiếng hơn.
Nhân vật tối hôm ấy Anna Pavlovna đem ra thết khách, xem như là một món
ăn mới, là Boris Drubeskoy bấy giờ vừa mới ở quân đội Phổ về với tư
cách tín sứ và hiện làm sĩ quan phụ tá cho một nhân vật rất quan trọng.
Nhiệt độ trên nhiệt kế chính trị buổi tiếp tân hôm ấy là như sau: dù
tất cả các quốc vương và các tướng lĩnh ở châu Âu muốn nhân nhượng gì
với Buônapáctê đề làm cho tôi, cho chúng ta nói chung, phải khó chịu và
bực bội thì ý kiến của chúng ta về Buônapáctê vẫn không thay đổi. Chúng
ta vẫn không ngừng nói thẳng cách suy nghĩ thật của chúng ta về con
người này ra, và chúng ta chỉ có thể nói với vua Phổ và với những người
khác: "Mặc kệ ông, ông George Dandin ạ đó là vì ông đã muốn thế đấy,
chúng tôi chỉ có thể nói như vậy". Nhiệt độ chỉ trên nhiệt kế chính trị
trong tối tiếp tân hôm ấy của Anna Pavlovna là như thế. Khi Boris,
người được dùng để chiêu đãi tân khách bước vào phòng, thì hầu hết giới
xã giao đã tề tựu đông đủ, và câu chuyện do Anna Pavlovna điều khiển
đang bàn về những quan hệ ngoại giao của ta với nước Áo và về mối hy
vọng liên minh với Áo.
Boris chững chạc, hồng hào, tươi tắn trong bộ quân phục sĩ quan phụ tá
bảnh bao, ung dung bước vào phòng khách, và theo thường lệ, chàng được
đưa đến chào bà dì rồi lại nhập vào nhóm chung. Anna Pavlovna giơ bàn
tay khô héo ra cho chàng hôn, giới thiệu cho chàng với một vài nhân vật
mà chàng chưa quen biết và chỉ thầm xác định cho chàng rõ đặc tính của
từng người.
Đây là công tước Ippoliy Khraghin, một thanh niên khả ái, ông Kroug đại
diện ở Copenhagen, một trí thệ sâu sắc - và nói gọn thon lỏn - Ông
Sitot một con người rất có giá trị.
Nhờ công chạy chọt của bà Anna Mikhailovna, nhờ những sở hiếu của thuộc
tính riêng trong cái tính cách thận trọng của mình, Boris đã đưa mình
vào một địa vị có lợi nhất ở trong quân đội. Bây giờ chàng là sĩ quan
phụ tá của một nhân vật quan trọng được phái sang Phổ với một nhiệm vụ
rất trọng yếu và vừa ở đấy về với tư cách tín sứ. Chàng hoàn toàn thông
thạo cái thứ tôn ti trật tự không ghi vào quy chế đã cám dỗ chàng hồi ở
Olmuytx, cái thứ tôn ti trật tự đã khiến cho một anh thiếu uý có thể có
ưu thế hơn hẳn một viên tướng, và theo nó thì muốn thành công trong
quân đội, chẳng cần phải cố gắng, chẳng cần gì phải làm việc, phải dũng
cảm, phải kiên nhẫn, và chỉ cần biết khéo lấy lòng những người nắm
quyền thăng thưởng. Ngay bản thân chàng thường cũng phải ngạc nhiên về
những thành công nhanh chóng của mình và băn khoăn tự hỏi tại sao những
người khác lại có thể không hiểu điều đó. Sự phát hiện này đã hoàn toàn
thay đổi cả cách sống của chàng, tất cả những quan hệ của chàng với
những người quen cũ, tất cả những dự định của chàng về tương lai. Chàng
không giàu, nhưng chàng dùng hết số tiền chắt chịu được để ăn mặc lịch
sự hơn những người khác. Chàng sẵn lòng thà chịu hy sinh nhiều sở thích
còn hơn phải đi một chiếc xe ngựa tồi tàn hay xuất hiện trên đường phố
Petersburg trong một bộ quân phục cũ kỹ. Chàng chỉ tìm cách gần gũi và
kết thân với những người ở địa vị cao hơn mình, và do đó, có thể có ích
cho mình. Chàng yêu Petersburg và khinh Moskva. Những kỷ niệm về gia
đình Roxtov và mối tình thơ ấu của chàng với Natasa khiến chàng khó
chịu, và từ khi nhập ngũ chưa có lần nào chàng bước chân đến gia đình
Roxtov. Được mời đến phòng tiếp khách của Anna Pavlovna, điều mà chàng
cho là một sự thăng trật quan trọng trên bước đường công danh, chàng
hiểu ngay vai trò của mình ở đây và trong khi để cho Anna Pavlovna tận
dùng mình để gây hứng thú cho buổi tiếp tân, chàng vẫn chăm chú quan
sát từng vị khách có mặt, những lợi lộc mà việc giao du với họ có thể
đem lại cho mình và trù tính xem mình có thể làm quen với những người
nào! Chàng ngồi ở chỗ người ta chỉ cho chàng, bên cạnh nàng Elen kiều
diễm, và lắng nghe chuyện mọi người.
Viên đại biện Đan mạch nói:
- Thành Viên thấy những cơ sở của hiệp ước ấy viển vông đến nỗi người
ta không thể nào đạt được dù có những thắng lợi liên tiếp rực rỡ nhất,
và nó hoài nghi những phương liện có thể cho phép chúng ta có được
những thắng lợi ấy. Đó chính là nguyên văn câu nói của nội các thành
Viên.
- Hoài nghi cũng là đáng mừng - "con người trí tuệ sâu sắc" nói, miệng mỉm nụ cười tế nhị.
- Cần phải phân biệt nội các Viên và hoàng đế Áo - tử tước Mortơmar nói
- Hoàng đế Áo không bao giờ có thể có một ý nghĩ như thế, chỉ có nội
các là nói như vậy thôi!
- Ấy, tử tước thân mến ạ! - Anna Pavlovna nói xen vào - l Urope(3)
(không hiểu tại sao phu nhân lại nói lUrope, tưởng chừng như đó là một
cách phát âm đặc biệt tế nhị của tiếng Pháp mà phu nhân có thể dùng khi
nói với một người Pháp) sẽ không bao giờ là bạn đồng mình thành thực
của chúng ta đâu!
Đoạn phu nhân lái câu chuyện sang tinh thần dũng cảm và kiên quyết của nhà vua Phổ, nhằm đưa Boris vào cuộc.
Boris lắng nghe mọi người nói, đợi đến lượt mình, nhưng trong đó vẫn
không quên đưa mắt nhìn người ngồi bên cạnh là nàng Elen diễm lệ. Mỗi
lần gặp đôi mắt của chàng sĩ quan phụ tá trẻ tuổi và đẹp trai, Elen lại
mỉm cười.
Nhân nói đến tình hình nước Phổ, Anna Pavlovna quay sang Boris một cách
rất tự nhiên, yêu cầu chàng kể lại cuộc hành trình của chàng đến Glogau
và tình hình quân đội Phổ khi chàng đến.
Boris nói thong thả, dùng một thứ tiếng Pháp thuần tuý và rất đúng mẹo,
kể lại rất nhiều chi tiết thi vị về quân đội, về triều đình, nhưng
trong lúc kể chuyện chàng vẫn thận trọng tránh không bày tỏ ý kiến
riêng của mình về những sự kiện mà chàng trình bày. Trong một khoảng
thời gian khá dài, Boris làm cử toạ rất chú ý và Anna Pavlovna cảm thấy
cái món đầu mùa mình đem ra chiêu đãi tối nay đã làm cho tất cả các tân
khách hài lòng. Người chú ý nhiều nhất đến câu chuyện của Boris là
Elen. Nàng mấy lần hỏi chàng về một vài chi tiết trong cuộc hành trình
của chàng, và tỏ ra hết sức quan tâm đến tình hình quân đội Phổ. Chàng
vừa nói dứt, nàng đã quay về phía chàng với nụ cười quen thuộc và nói:
- Thế nào ông cũng phải lại chơi đằng nhà tôi đấy! - Cứ nghe giọng nàng
nói, có thế tưởng chừng việc này là hết sức cần thiết vì một vài lý do
mà chàng không thể nào biết được. - Ngày thứ ba từ 8 giờ đến 9 giờ.
Được như vậy tôi rất vii lòng.
Boris hứa chiều theo ý muốn của nàng và đã toan bắt đầu nói chuyện với
nàng nhưng Anna Pavlovna gọi chàng lại, mượn cớ là "bà dì" của phu nhân
cũng muốn nghe chàng nói chuyện.
- Ông có quen chồng của phu nhân phải không? - Anna Pavlovna nói, nhắm
mắt lại và chỉ Elen với một cử chỉ buồn rầu. - Ồ sao lại có người đàn
bà bất hạnh và đáng yêu đến thế! Trước mặt phu nhân xin chớ nói gì đến
ông ta, đừng nói thế! Nó khổ tâm quá.
Khi Boris và Anna Pavlovna quay trở lại nhóm tân khách, công tước
Ippolit đang làm mọi người chú ý. Chàng ta ngồi trong ghế bành, chồm
người ra phía trước nói:
- Vua Phổ ấy à?- nói đoạn chàng cười phá lên. Mọi người đều quay về phía chàng. - Vua Phổ ấy à?
Ippolit nhắc lại, giọng như muốn hỏi điều gì, đoạn cười phá lên một lần
nữa, rồi lại điềm nhiên và nghiêm trang ngồi tụt sâu vào ghế bành.
Anna Pavlovna đợi một lát, nhưng hình như Ippolit nhất định không chịu
nói thêm gì nữa, nên phu nhân bắt đầu kể chuyện tên Bonaparte vô đạo đã
lấy trộm thanh kiếm của Fridrich ở Potxdam.
- Đó là thanh kiếm của Fridrich đại đế mà tôi… - phu nhân mở đầu, nhưng Ippolit đã ngắt lời:
- Vua Phổ ấy à?- và cũng như lần trước, mọi người vừa quay về phía
chàng, thì chàng lại xin lỗi và im bặt. Anna Pavlovna cau mày.
Montmorency, bạn của Ippolit: nói với chàng giọng cương quyết:
- Xem nào, cái ông vua Phổ nhà anh có chuyện gì nào?
Ippolit lại cười phá lên, nhưng hình như vừa cười vừa thấy hổ thẹn vì tiếng cười của mình.
- Nào có gì đâu, tôi chỉ muốn nói là… - chàng có ý muốn lặp lại một câu
nói đùa mà chàng đã nghe được ở Viên và trong suốt buổi tiếp tân chàng
vẫn tìm cách đưa vào câu chuyện. - Tôi chỉ muốn nói rằng chúng ta chiến
đấu cho nhà vua nước Phổ là sai lầm.
Boris thận trọng mỉm cười như thế nào để người ta có thể xem đó là một
nụ cười chế nhạo hay tán thành lời bông đùa cũng được, tuỳ ý cử toạ.
Mọi người cười rộ.
- Cái trò chơi chữ của công tước hỏng quá, nó rất dí dỏm đấy nhưng
không công bình! - Anna Pavlovna vừa nói vừa giơ ngón tay nhăn nheo lên
hăm doạ. - Chúng ta không chiến đấu cho vua Phổ mà chiến đấu cho chính
nghĩa. Ô cái ông công tước Ippolit này ác thật!
Suốt buổi tối câu chuyện không lúc nào lắng xuống chủ yếu xoay quanh
những tin tức chính trị. Vào cuối buổi tiếp tân, câu chuyện rôm rả hẳn
lên khi nói đến những phần thưởng mà hoàng đế đã ban tứ.
- Ông N.N năm ngoái đã được thưởng một hộp thuốc lá có khảm chân dung
của hoàng đế, - "Con người có trí tuệ sâu sắc" nói, - tại sao ông S.S
lại không được phần thưởng ấy nhỉ?
Nhà ngoại giao đáp:
- Xin ngài thứ lỗi cho, một hộp thuốc lá có khảm chân dung của Hoàng đế
là một phần thưởng chứ không phải là một huân chương, đúng hơn, đó là
một món quà tặng.
- Nhưng trước đây đã thành lệ rồi đấy, kia như Svartxenberg chẳng hạn…
- Không thể như thế được! - một người khác đáp. - Tôi sẵn sàng đánh
cuộc đấy. Huân chương danh dự ngoại hạng thì lại là việc khác…
Khi mọi người đứng dậy ra về. Elen, trong suốt buổi tiếp tân hôm ấy vẫn
nói rất ít, một lần nữa lại mời Boris ra cho chàng một mệnh lệnh âu yếm
mà ngụ nhiều ý nghĩa dặn đến ngày thứ ba phải có mặt ở nhà nàng.
- Tôi rất cần gặp ông!
Nàng nói và mỉm cười, đưa mắt nhìn Anna Pavlovna, và Anna Pavlovna cũng
mỉm cười theo để xác nhận ý muốn của Elen, với cái nụ cười buồn buồn
của phu nhân như mỗi khi nhắc đến vị ân nhân cao cả của mình(4). Có thể
tưởng chừng tối hôm ấy Boris có nói những điều gì đó về quân đội Phổ
khiến Elen đột nhiên cảm thấy thế nào cũng phải gặp chàng. Nàng có vẻ
như hứa với chàng là đến ngày thứ ba khi chàng đến, nàng sẽ cho biết
tại sao.
Sáng ngày thứ ba, khi Boris vào gian phòng khách tráng lệ của Elen,
người ta chẳng giải thích gì rõ ràng cho chàng biết tại sao chàng cần
phải đến như vậy. Ở đây có mấy người khách khác, bá tước phu nhân nói
với chàng rất ít, và mãi đến khi chàng hôn tay nàng để cáo từ ra về,
nàng mới nói một cách đột ngột, giọng thì thào, và có một điều kỳ dị là
trên môi nàng không thấy bóng dáng nụ cười bất tuyệt thường ngày.
- Ngày mai anh đến ăn cơm nhé… vào buổi tối. Anh phải đếnv… Đến nhé…
Về Petersburg chuyến ấy, Boris đã trở thành một người thân trong nhà bá tước phu nhân Bezukhov.

Chú thích:
(1) Marat (1743-1773) một lãnh tụ của phái Jacchins (phái tả) trong cuộc cách mạng tư sản Pháp.
(2) Những người tán thành quyền lực vô hạn của nhà Vua.
(3) Urope: (đáng lý là Europe), châu Âu.
(4) Tức Hoàng thái hậu
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 EmptySat Dec 25, 2010 8:55 am

Phần V

Chương - 7 -



Chiến tranh đã đến kỳ ác liệt và chiến trường đã lan gần đến biên
giới Nga. Đâu đâu cũng chỉ nghe những lời nguyền rủa Bonaparte, kẻ thù
của nhân loại; trong các làng mạc người ta tuyền dân quân và tân binh,
và từ chiến trường đưa về những tin tức trái ngược nhau bao giờ cũng
sai lạc, thành thử được mỗi người thuyết minh lại một cách.
Từ năm 1805 đời sống của lão công tước Bolkonxki, của công tước Andrey và của công tước tiểu thư Maria đã thay đổi nhiều.
Năm 1806, lão công tước được bổ nhiệm làm một trong tám vị tổng tư lệnh dân quân trong toàn nước Nga lúc bấy giờ.
Tuy tuổi đã già và sức khoẻ đã suy yếu rất nhiều, nhất là trong thời
gian ông tưởng con trai mình đã tử trận, lão công tước vẫn cho rằng
mình không có quyền từ chối một nhiệm vụ mà chính hoàng đế đã giao phó.
Hướng hoạt động mới mẻ này cổ vũ ông và làm cho ông khoẻ khoắn ra. Ông
luôn luôn đi kinh lý trong ba tỉnh dưới quyền ông cai quản. Ông chấp
hành những nhiệm vụ của mình một cách cẩn thận đến câu nệ, nghiêm khắc
đến tàn nhẫn đối với các thuộc hạ, và thân hành kiểm tra, đôn đốc công
việc cho đến những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Công tước tiểu thư Maria
không học toán với ông cụ như trước nữa và chỉ vào phòng làm việc của
cha vào buổi sáng cùng với người vú em và tiểu công tước Nikolai (như
ông nội cậu vẫn gọi), những khi lão công tước ở nhà. Tiểu công tước
Nikolai ở với người vú già, những khi lão công tước ở nhà. Tiểu công
tước Nikolai ở với người vú của cậu và bảo mẫu Xavisna trong phần tư
thất trước kia của công tước phu nhân, và ngày ngày tiểu thư Maria
giành phần lớn thời giờ để ngồi trong gian phòng của đứa cháu nhỏ, cố
hết sức thay thế người mẹ của đứa bé. Cô Burien cũng tỏ ra rất yêu quý
đứa bé, và tiểu thư Maria nhiều khi phải hy sinh phần mình nhường cho
người bạn gái hưởng cái thú được bế ẵm và chơi đùa với chú thiên thần
tí hon (như nàng vẫn thường gọi đứa cháu nhỏ).
Trong ngôi nhà thờ Lưxye Gorư cạnh bàn thờ Chúa, người ta đã dựng lên
một cái điện thờ ở trên ngôi mộ của công tước phu nhân nhỏ nhắn và đặt
ở trong điện một pho tượng bằng cẩm thạch đem từ Ý về. Đó là tượng một
vị thiên thần có cái môi trên hơi cong lên một chút tựa hồ như sắp mỉm
cười, và có một hôm, khi công tước Andrey và công tước tiểu thư Maria ở
điện thờ ra, hai người bảo nhau không hiểu tại sao dung mạo của vị
thiên thần y có một cái gì gợi lại gương mặt của người đã khuất. Nhưng
còn một điều kỳ lạ hơn mà công tước Andrey không nói với em gái, là
trong vẻ mặt của vị thiên thần mà nhà nghệ sĩ đã vô tình thể hiện trên
nét khắc, công tước Andrey nhìn thấy chính những lời trách móc dịu dàng
mà trước đây chàng đã đọc trên gương mặt của vợ khi tắt nghỉ: "Tại sao
anh nỡ để em đến nông nỗi này?"
Công tước Andrey về nhà được ít lâu thì lão công tước chia gia tài cho
con trai và cắt cho chàng thôn Bogutsarovo, một điền trang lớn ở cách
Lưxye Gorư bốn mươi dặm Nga. Một phần vì Lưxye Gorư gắn liền với những
kỷ niệm đau buồn, một phần vì công tước Andrey đã nhân dịp ấy đến
Bogutsarovo xây dựng nhà cửa và sống ở đây phần lớn thời gian.
Sau chiến dịch Austerlix, công tước Andrey đã quyết định dứt khoát từ
nay sẽ không bao giờ trở về quân đội nữa; thế rồi khi chiến tranh bắt
đầu và người nào cũng phải tòng quân, thì chàng lĩnh nhiệm vụ tập trung
dân quân dưới quyền cha chàng để khỏi gia nhập quân thường trực. Vai
trò của lão công tước và của con trai hâu như đã đảo ngược lại sau
chiến dịch 1805. Được hoạt động của mình cổ vũ, lão công tước hy vọng
rất nhiều ở chiến dịch sắp tới; trái lại, công tước Andrey không tham
dự vào chiến tranh, và mặc dầu trong thâm tâm chàng rất tiếc điều đó,
chàng vẫn chỉ thấy trước những kết quả không hay.
Ngày hai mươi sáu tháng hai năm 1807 lão công tước đi kinh lý trong
vùng. Công tước Andrey ở lại Lưxye Gorư như thường lệ mỗi khi cha chàng
vắng mặt. Cậu bé Nicôluska ốm đã ba ngày nay.
Những người đánh xe đưa lão công tước lên tỉnh đã trở về, mang giấy tờ
và thư từ cho công tước Andrey. Người hầu phòng tay cầm những phong thư
không tìm thấy công ở trong phòng làm việc của chàng liền vào phòng
tiểu thư Maria, nhưng vẫn không thấy ở đấy. Người ta nói với y rằng
công tước ở phòng chàng nuôi trẻ.
- Mời đại nhân ra cho, Petrusa đã mang công văn về - một người đầy tớ
gái giúp việc u già nói với công tước Andrey trong khi chàng run run,
đôi mày nhíu lại, đang nhỏ từng giọt thuốc vào trong cốc nước đầy đến
một nửa.
- Có việc gì thế? - Chàng hỏi, giọng cáu kỉnh, và bàn tay vụng về vô ý
rót quá một vài giọt thuốc vào trong cốc. Chàng hắt cốc nước xuống đất
rồi gọi cốc khác. Người đầy tớ gái bưng nước đến cho chàng.
Trong phòng chỉ kê một cái giường nhỏ của trẻ con, hai cái hòm, hai cái
ghế bành, một cái bàn lớn, một cái bàn con và một cái ghế nhỏ của trẻ
con mà công tước Andrey đang ngồi. Cửa sổ đều có rèm, và trên bàn, một
ngọn nến đang cháy dở, bên cạnh có dựng một quyển sách nhạc để tránh
ánh sáng khỏi hắt vào giường con.
- Anh ạ - công tước tiểu thư Maria đứng bên giường đứa bé nói với anh - Anh nên đợi một lát thì hơn, chốc nữa…
- Ờ! Thôi xin cô, cô thì chỉ vớ vẩn, lúc nào cũng cứ đợi với chờ, đấy
kết quá là thế đấy, - công tước Andrey nói, giọng thì thầm như có ý hằn
học, hẳn là muốn làm cho em gái bực mình.
- Anh ạ, đừng đánh thức nó dậy thì hơn, thật đấy, nó mới thiếp đi được một lát - công tước tiểu thư nói, giọng van lơn.
Công tước Andrey đứng dậy và cầm cái cốc rón rén đến cạnh giường con.
- Hay thôi đừng thức nó nữa? - Chàng nói, ngần ngại.
- Tuỳ anh đấy, kể ra… em nghĩ rằng… thôi thì tuỳ anh… - tiểu thư Maria
nói, hình như nàng đâm ra sợ sệt và hổ thẹn khi thấy ý kiến của mình đã
thắng. Nàng chỉ cho anh nàng thấy người đầy tớ đang thì thầm gọi chàng.
Đêm nay là đêm thứ hai cả hai người đều không ngủ, lo săn sóc đứa bé
đang lên cơn sốt, người nóng như sôi. Đã suốt hai ngày nay, vì không
tin ông thầy thuốc ở trong nhà, trong khi chờ đợi một bác sĩ mời ở
ngoài tỉnh về, họ đã thử dùng hết thuốc này đến thuốc khác. Mệt lả đi
vì mất ngủ và lo lắng, cả hai đều trút nỗi buồn bực lên nhau, trách
móc, cãi vã lẫn nhau.
- Petrusa đã mang giấy tờ của cụ về, - người đầy tớ gái nói thầm.
Công tước Andrey bước ra.
- Có việc gì thế? - Chàng hỏi gắt, và sau khi đã nghe những lời nhắn
miệng của lão công tước, nhận bức thư của ông và những phong thư khác,
chàng quay trở lại phòng trẻ.
- Thế nào rồi? - Công tước Andrey hỏi.
- Vẫn thế, anh chịu khó đợi một chút. Karl Ivanits vẫn nói là chỉ có
giấc ngủ là quý hơn cả. - Tiểu thư Maria thở dài nói thì thầm.
Công tước Andrey đến bên đứa bé và sờ vào người nó. Nó nóng như hòn than.
- Cô đem cái ông Karl Ivanits nhà cô đi đâu thì đi cho rảnh!
Chàng cầm cái cốc nhỏ thuốc và lại tiến đến bên giường.
- Đừng anh Andrey, - Tiểu thư Maria nói.
Nhưng chàng cau mày nhìn nàng, vẻ giận dữ lại vừa đau khổ, là cầm cái cốc cúi xuống sát đứa bé.
- Nhưng tôi muốn thế - Nào, tôi nhờ cô, cô cho nó uống đi.
Công tước tiểu thư Maria nhún vai, nhưng vẫn ngoan ngoãn cầm lấy cái
cốc và sau khi gọi người vú em lại, nàng bắt đầu cho đứa bé uống thuốc.
Đứa bé khóc thét lên và thở khò khè. Công tước Andrey cau mày, giơ tay
lên ôm đầu, bước ra khỏi phòng rồi ngồi xuống chiếc đi-văng đặt ở phòng
bên…
Tay chàng vẫn cầm tập thư. Như một cái máy, chàng bóc các phong thư ra
đọc. Lão công tước viết thư trên giấy xanh, chữ viết rất to và nét chữ
kéo dài, thỉnh thoảng lại dùng cổ tự để viết tắt. Bức thư như sau:
"Ta vừa nhận được qua liên lạc viên một tin rất đáng mừng đối với lúc
này, nếu đó không phải là một tin sai lạc. Đâu như Benrigxen đã đại
thắng Buônapáctê ở gần Ailau. Ở Petersburg mọi người đều ăn mừng và vô
số phần thưởng đã được gửi đến cho quân đội. Mặc dù ông ấy là người
Đức, ta cũng có lời mừng ông ấy. Còn cái thằng cha thủ lãnh ở Kortsevo
một thằng Khandrilov nào ấy, thì thực ta không hiểu nó làm trò trống
gì: mãi đến giờ mà số quân bổ sung cũng như lương thực vẫn chưa được
gửi đi. Con phải phi ngựa đến đó ngay và nói với hắn rằng nếu trong tám
ngày công việc không xong thì ta lấy đầu. Còn về trận Proixich Ailau
thì ta cũng đã nhận được một bức thư của Petyenka - nó có dự trận ấy -
Tất cả các tin tức đều xác thực. Khi những kẻ không nên can thiệp không
can thiệp vào, thì ngay đến một người Đức cũng có thể đánh bại
Buônapáctê. Nghe nói hắn bỏ chạy khá hốt hoảng. Con phải nhớ lập tức
phi ngựa đến Kortsevo và làm ngay điều ta đã dặn".
Công tước Andrey thở dài và bóc phong bì kia ra. Đó là bức thư của
Bilibin gồm hai tờ giấy viết chữ nhỏ. Chàng gấp bức thư lại không đọc,
rồi giở ra đọc một lần nữa bức thư của cha với câu cuối:
"Phi ngựa đến Kortsevo và làm ngay điều ta đã dặn!"
"Không, xin lỗi, bây giờ tôi không đi đâu cả, phải chờ thằng bé khỏi
đã" - Chàng tự nhủ rồi đến sát tiểu thư Maria vẫn ngồi bên giường và
khe khẽ ru đứa bé.
"Nào, thử xem ông cụ con viết cho mình những điều gì khó chịu nữa?" -
Công tước Andrey nhớ lại nội dung bức thư của cha. Ừ quân đội ta đã
đánh thắng Bonaparte chính trong lúc ta không tại ngũ. Phải, số phận
như chế nhạo mình… Thôi cứ mặc!" Và chàng bắt đầu đọc bức thư của
Bilibin viết bằng tiếng Pháp. Chàng đọc nhưng không hiểu được một nửa,
chàng đọc chỉ là để quên đi một phút đừng nghĩ đến cái điều đã bắt
chàng suy nghĩ quá lâu, choán hết tâm trí chàng và làm cho chàng khổ sở.
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 EmptySat Dec 25, 2010 8:55 am

Phần V

Chương - 8 -



Bây giờ Bilibin giữ một chức vụ ngoại giao bên cạnh Bộ tổng tư
lệnh và tuy viết bằng tiếng Pháp với những câu bông đùa và những thành
ngữ Pháp, ông ta vẫn miêu tả chiến dịch với một thái độ can đảm đặc
biệt của người Nga, không sợ tự phê phán mình và tự chế nhạo mình.
Bilibin viết rằng bổn phận phải kín đáo của nhà ngoại giao làm cho ông
ta khổ sở và ông ta cảm thấy sung sướng vì có một người bạn trao đổi
thư từ đáng tin cậy là công tước Andrey mà ông ta có thể trút tất cả
những điều bực tức đã tích luỹ bấy lâu vì phải chứng kiến những sự việc
xảy ra trong quân đội. Bức thư này đã cũ viết từ trước khi xảy ra trận
Proixich. Bilibin viết:
"Sau những thắng lợi của ta ở Austerlix, như anh đã biết, công tước
thân mến, tôi không rời khỏi Bộ tổng tư lệnh nữa. Quả thực tôi đã bắt
đầu thấy thích chiến tranh rồi, và như thế cũng hay. Những điều tôi
được mục kính ba tháng nay thực là không thể nào tin được.
Tôi xin nó "từ đầu". Kẻ thù của nhân loại, như anh đã biết, xông vào
đánh quân Phổ. Quân Phổ là ông bạn đồng minh trung thành của ta, suốt
ba năm nay, chỉ lừa ta có ba lần. Ta đứng về phía họ và trợ thủ cho họ.
Nhưng xem ra thì kẻ thù của nhân loại chẳng cần đếm x** gì đến những
lời lẽ hay ho của chúng ta và với cái thói vô lễ và dã man của hắn, hắn
đã xông vào đánh quân Phổ không để lại cho họ có thì giờ kết thúc cuộc
duyệt binh đã bắt đầu và chỉ trong nháy mắt, hắn đã đánh cho quân Phổ
một trận ê chề rồi đến ngự ở điện Potxdam. Vua Phổ viết cho Buônapáctê:
"Tôi hết sức thiết tha mong mỏi rằng Hoàng đế sẽ hài lòng về cách
nghênh tiếp và chiêu đãi. Bệ hạ trong cung điện của tôi, và tôi đã hết
lòng lo lắng thi hành mọi biện pháp có thể thi hành được trong hoàn
cảnh hiện nay. Mong sao những niềm mong mỏi của tôi được thực hiện như
ý!"
Tóm lại, chúng ta hy vọng rằng chỉ riêng cái tư thế quân sự của ta thôi
cũng đủ khiến họ phải kiêng dè, nhưng kết quả hoá ra là chúng ta đã bị
lôi cuốn vào một cuộc chiến tranh thực sự, hơn nữa lại là một cuộc
chiến tranh ở ngay biên giới nước ta "Liên minh với vua Phổ". Lệ bộ đều
hoàn toàn đày đủ chỉ thiếu một điều nhỏ nhặt thôi, đó là một vị Tổng tư
lệnh. Vì nhận thấy rằng những thắng lợi ở Austerlix lẽ ra sẽ có giá trị
quyết định hơn giá như vị Tổng tư lệnh không đến nỗi trẻ con như
Kutuzov, nên người ta đã điểm duyệt tất cả những cụ già tám mươi và
giữa Proxovxki và Kamenxki thì người ta đã chọn Kamenxki. Tổng tư lệnh
đi xe kibitka… đến gặp chúng tôi theo kiểu Xuvorov là đã được nghênh
tiếp bằng những tiếng hoan hô mừng rỡ và đắc thắng.
Ngày 4, chuyến thư đầu tiên từ Petersburg đến. Người ta đưa các hòm thư
vào phòng làm việc của nguyên soái, vì ông ta vốn thích thân hành làm
tất cả mọi tiệc. Người ta gọi tôi vào giúp một tay để phân loại các thư
từ và nhận lấy những bức thư nào gửi cho chúng tôi. Nguyên soái nhìn
chúng tôi làm và chờ đợi những gói thư gửi cho ngài. Chúng tôi tìm mãi
chẳng thấy bức thư nào cả. Nguyên soái đâm sốt ruột, tự mình bắt tay
vào tìm thì thấy toàn những thư của hoàng đế gửi cho bá tước T., cho
công tước V… và cho những người khác. Thế là ông ta nổi giận lôi đình,
một trong những trận lôi đình kinh khủng mà ông ta thường có. Ông ta
nổi khùng thét lác chửi bới mọi người, vồ lấy những bức thư, bóc ra và
đọc những bức Hoàng đế gửi cho người khác. Đấy, người ta đối xử với tôi
như thế đấy! Người ta không tin tôi, cho người theo dõi tôi. Tốt lắm,
thôi cút đi! Và ông ta viết bản nhật lệnh Trứ danh cho tướng Benrigxen:
"Tôi bị thương không cưỡi ngựa được, cho nên không thể nào cầm quân.
Ông đã đem bại quân ở Pultuxt về. Ở đấy nó phải ở giữa trời, không có
củi đốt, không có cỏ cho ngựa ăn, vì vậy cần phải có biện pháp bổ cứu,
và như hôm qua chính ông đã nói với bá tước Bukxhevden, bây giờ cần
phải rút lui về phía biên giới nước ta, và việc ấy phải thực hiện ngay
hôm nay".
Ông ta lại viết thư gửi hoàng thượng:
"Qua những cuộc hành quân vừa rồi, tôi đi ngựa nhiều nên bị yên ngựa cọ
sớt ra, vết thương đó thêm vào những cuộc chuyển quân trước đây đã
khiến cho tôi tuyệt nhiên không thể nào cưỡi ngựa và chỉ huy một đạo
quân to lớn như thế này được nữa. Vì vậy tôi đã giao quyền chỉ huy cho
viên tướng thâm niên nhất sau tôi là bá tước Bukxhevden. Tôi đã trao
cho ông tất cả các cơ quan quản lý quân đội của tôi và tất cả các bộ
phận tuỳ thuộc. Tôi đã khuyên ông ta nếu thiếu bánh mì thì phải rút lui
về phía biên giới bằng cách thâm nhập vào nội địa nước Phổ bởi vì chỉ
còn có đủ bánh mì cho một ngày và như các vị chỉ huy các sư đoàn
Oxderman và Xedmoretxki đã báo cáo, thì trong một vài trung đoàn chẳng
còn gì nữa, còn như lương thực của nông dân thì đều đã ăn hết. Về phần
tôi, tôi sẽ ở lại bệnh viện Oxterman cho đến khi khỏi bệnh. Tôi xin
kính cẩn dâng trình bản báo cáo này lên bệ hạ và xin báo thêm với bệ hạ
rằng nếu quân đội ta còn đóng trại lộ thiên ở đây mươi lăm ngày nữa thì
sang xuân sẽ không còn lấy một người nào khoẻ mạnh.
Xin bệ hạ cho phép một người già cả được về quê, với niềm sỉ nhục là đã
không hoàn thành được cái sứ mệnh to lớn và quang vinh mà mình đã được
chọn làm người thực hiện. Ở đây, trong bệnh viện, tôi sẽ chờ lượng hải
hà của bệ hạ ban ơn cho tôi khỏi phải làm nhiệm vụ một viên thư lại ở
trong quân đội chứ không phải nhiệm vụ của một người chỉ huy. Việc tôi
ra khỏi quân đội sẽ không gây nên những lời bàn ra tán vào, chẳng qua
cũng chỉ như một người mù ra khỏi quân đội. Ở nước Nga những người như
tôi có đến hàng ngàn".
Nguyên soái giận hoàng đế và trừng phạt cả bọn chúng tôi; như thế chẳng phải là hợp lẽ lắm ru!
Đó là hồi thứ nhất, sang các hồi sau dĩ nhiên là càng thêm thú vị và
buồn cười. Sau khi nguyên soái đi rồi, chúng tôi bỗng thấy quân địch đã
với trước mặt và thế nào cũng phải giao chiến. Nếu tính thâm niên thì
Bukxhevden phải là Tổng tư lệnh, nhưng Benntgxen không tán thành điều
đó. Hơn nữa, chính ông ta và quân của ông ta đang đối diện với địch, là
ông ta muốn nhân cơ hội này đánh một trận "Aux eigener Hand" (chính tay
mình) như người Đức thường nói. Ông ta khai trận. Đó là trận Pultuxk mà
người ta cho đây là một trận thắng lớn, nhưng theo ý tôi thì chẳng
thắng chút nào. Như anh đã biết, bọn dân sự chúng tôi có một cái thói
xấu khi nhận định sự thắng bại của một trận đánh. Chúng tôi nói như thế
này, bên nào rút lui sau trận đánh là bên đó thua, và nếu căn cứ vào
điều đó thì chúng ta đã thua trận Pultuxk. Tóm lại, chúng tôi rút lui
sau khi đánh, nhưng chúng tôi lại phái người về Petersburg mang tin
thắng trận, và tướng Benntgxen không nhường chức tổng tư lệnh cho
Bukxehevden vì hy vọng rằng để thưởng công cho ông ta đã chiến thắng,
sẽ có lệnh từ Petersburg đến phong ông ta làm tổng tư lệnh. Trong cái
thời gian quá độ ấy, chúng tôi bắt đầu một kế hoạch hành binh hết sức
thú vị và độc đáo. Mục đích của chúng tôi không phải là tránh hay tấn
công quân địch như theo đúng lẽ thường mà chỉ là làm sao tránh tướng
Bukxehevden là người mà về mặt thâm niên lẽ ra phải là tổng tư lệnh của
chúng tôi.
Chúng tôi đeo đuổi mục đích ấy một cách kiên quyết đến nỗi khi qua một
con sông không thể lội qua được thì chúng tôi đốt cầu để chặn đường
quân địch của chúng tôi - quân địch ở đây tạm thời không phải là
Buônapáctê mà là Bukxehevden. Tướng Bukxehevden chỉ thiếu chút nữa thì
bị lực lượng địch mạnh hơn tấn công và bắt sống, cũng là do cuộc hành
binh hay ho của chúng tôi rôi để trốn tránh ông ta. Bukxehevden đuổi
theo chúng tôi, chúng tôi bỏ chạy: Hễ ông ta sang bên này sông, về phía
chúng tôi, là chúng tôi lập tức sang bên kia sông.
Cuối cùng, kẻ địch của chúng tôi đuổi kịp và tấn công chúng tôi Hai vị
tướng nổi giận. Thậm chí Bukxhevden còn thách đấu súng và Benrigxen bị
động kinh ngất đi. Nhưng vừaa đúng vào lúc tình hình đang nguy ngập như
vậy thì người ta đã đưa tin chúng tôi thắng trận ở Pultuxk về kinh đô
nay lại mang một mệnh lệnh từ Petersburg đến phong chúng tôi làm tổng
tư lệnh, và thế là kẻ địch thứ nhất của Bukxhevden đã bị tiên diệt. Bấy
giờ chúng tôi có thể nghĩ đến kẻ địch thứ hai là Buônapáctê. Nhưng ngay
lúc ấy trước mắt chúng tôi lại xuất hiện một kẻ địch thứ ba, đó là quân
đội chính giáo đang lớn tiếng đòi bánh mì, thịt, lương khô, cỏ ngựa
những thứ gì nữa tôi nào biết được. Các kho lương thực thì trống không,
còn đường xá thì không đi lại được. Đạo quân chính giáo bắt đầu cướp
bóc, và cướp bóc một cách ghê gớm đến nỗi chiến dịch trước chằng thấm
vào đâu. Một nửa quân số các binh đoàn trở thành những đội quân tự do
đi lùng khắp làng, đốt sạch và phá sạch. Nhân dân khốn khổ điêu đứng,
các bệnh viện đầy ắp những người bệnh, và nạn đói lan tràn khắp nơi. Bộ
tổng tư lệnh cũng đã hai lần bị những đội quân ăn cướp tấn công và bản
thân vị Tổng tư lệnh đã phải gọi một tiểu đoàn đến đuổi chúng. Trong
một cuộc tấn công như vậy người ta đã đem cái hòm không và cái áo ngủ
của tôi đi mất. Hoàng đế muốn cho tất cả các sư đoàn trưởng được quyền
xử bắn bọn ăn cướp, nhưng tôi e rằng làm thế thì chẳng khác nào bắt
buộc một nửa quân đội xử bắn nửa kia".
Lúc đầu công tước Andrey chỉ đọc bằng mắt nhưng dần dần, tuy chàng biết
rõ nên tin Bilibin đến mức nào, những điều chàng đọc mỗi lúc một khiến
chàng chú ý. Đọc đến chỗ này, chàng vò nát bức thư đi. Chàng bực tức
không phải vì nội dung bức thư mà vì nhận thấy cái cuộc sống xa lạ ấy
sao lại có thể làm cho chàng xúc động. Chàng nhắm mắt lại, lấy tay xoa
lên trán như muốn xua đuổi hết mối quan tâm đối với những điều chàng
vừa đọc và lắng nghe xem trong phòng trẻ động tĩnh ra sao. Đột nhiên
chàng thấy như đằng sau cánh cửa có tiếng gì là lạ. Chàng chợt thấy sợ
hãi, chàng sợ con chàng có mệnh hệ nào trong lúc chàng đang đọc thư.
Chàng rón rén bước đến cửa phòng đứa bé và mở ra. Ngay lúc bước vào
chàng thấy người vú em vẻ hoảng hốt đang che giấu chàng một vật gì và
không thấy công tước tiểu thư Maria ở cạnh giường con nữa.
- Anh ơi - sau lưng chàng có tiếng thì thầm của tiểu thư Maria mà chàng
có cảm giác là một tiếng thì thầm tuyệt vọng. Như người ta vẫn thường
cảm thấy sau một thời gian dài mất ngủ và lo âu bứt rứt, một nỗi lo sợ
vô cớ đột nhiên tràn vào lòng chàng: Chàng chợt nảy ra ý nghĩ là đứa bé
đã chết. Tất cả những điều chàng nghe thấy và trông thấy xem chừng đều
xác nhận điều chàng lo sợ.
"Thôi thế là hết" - chàng chợt nghĩ, và trên trán bỗng toát mồ hôi
lạnh. Chàng bối rối đến gần giường con, chắc mẩm rằng sẽ thấy nó trống
không, và người vú em lúc nãy vừa che giấu đứa bé đã chết. Chàng vén
màn lên và hồi lâu, cặp mắt hốt hoảng của chàng cứ đưa từ vật này sang
vật khác mà không tìm thấy đứa bé. Cuối cùng, chàng nhìn thấy nó: thằng
bé hồng hào, hai tay dang ra nằm chéo góc trên giường, đầu tuột ra khỏi
gối; nó đang bú suông trong giấc mơ màng, đôi môi mút mút, tiếng thở
đều dặn.
Trông thấy đứa bé, công tước Andrey sung sướng quá, tưởng chừng như vừa
rồi chàng đã mất hẳn nó. Chàng cúi xuống và làm như em gái chàng đã có
lần bày cho chàng, đặt đôi môi lên trán nó để xem nó có nóng hay không.
Vầng trán mịn màng của thằng bé ươn ướt. Chàng lấy tay sờ lên đầu: Cả
tóc nó cũng ướt đẫm: đứa bé đổ mồ hôi nhiều. Không những nó không chết,
mà bây giờ rõ ràng là cơn bệnh đã qua và nó bắt đầu bình phục. Công
tước Andrey muốn ôm lấy cái sinh vật bé bỏng yếu ớt kia, giữ chặt lấy
nó, ghì nó vào ngực, nhưng chàng không dám. Chàng đứng im đưa mắt nhìn
cái đầu đôi tay, đôi chân bé nhỏ, hiện rõ dưới lần chăn. Bên cạnh chàng
có tiếng sột soạt và một cái bóng in lên tấm màn của chiếc giường con.
Chàng không ngoảnh lại, mắt vẫn nhìn vào mặt đứa bé và lắng nghe hơi
thở đều đều của nó. Cái bóng đen ấy là công tước tiểu thư Maria. Nàng
rón rén bước lại gần, vén màn lên rồi buông xuống sau lưng nàng. Công
tước Andrey không nhìn lại nhưng vẫn nhận ra nàng, và đưa tay về phía
nàng. Nàng siết chặt bàn tay anh.
- Nó đã đổ mồ hôi rồi - Công tước Andrey nói. - Em đến tìm anh để nói cho anh biết thế đấy.
Đứa bé hơi cựa mình trong giấc ngủ. Nó mỉm cười và cọ trán vào gối.
Công tước Andrey nhìn em gái, đôi mắt trong sáng của tiểu thư Maria
trong vùng ánh sáng dìu dịu của cái màn con sáng hơn ngày thường vì
đang long lanh những giọt nước mắt sung sướng. Công tước tiểu thư Maria
nghiêng người về phía anh và hôn chàng, mình khẽ vướng vào cái màn phủ
trên chiếc giường con. Hai người ra hiệu bảo nhau im lặng, đứng một lát
nữa trong vùng ánh sáng dìu dịu của cái màn, như còn luyến tiếc chưa nỡ
dời bỏ cái vũ trụ riêng của ba người tách biệt hẳn với tất cả thế giới
bên ngoài. Công tước Andrey rời khỏi giường trước tiên, tóc vướng vào
cái màn nhiễu.
"Bây giờ ta chỉ còn có thế thôi" - Chàng nói trong một tiếng thở dài.
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 EmptySat Dec 25, 2010 8:55 am

Phần V

Chương - 9 -




Vào hội Tam điểm được ít lâu, Piotr mang theo một bản chỉ dẫn đầy
đủ do chàng tự viết ra cho mình rồi, ghi rõ những điều phải làm trong
các điền trang của chàng, lên đường đến tỉnh Kiev là nơi phần lớn nông
dân của chàng sống.
Đến Kiev, Piotr triệu tất cả những người quản lý của chàng lại phòng
giấy chính và nói rõ cho họ biết những ý định và mong muốn của chàng.
Chàng bảo họ là phải lập tức thi hành những biện pháp nhằm hoàn toàn
giải phóng nông dân khỏi chế độ nông nô phong kiến, và trong khi chờ
đợi, không được bắt nông dân làm việc quá vất vả, không được bắt đàn bà
có con mọn làm việc khổ dịch, phải giúp đỡ nông dân, khi cần trừng phạt
chỉ được dùng lời răn đe, không được dùng roi vọt. Ở mỗi điền trang đều
phải xây dựng nhà thương, nhà cứu tế và trường học.
Một vài viên quản lý (trong số này có những viên quản gia gần như mù
chữ) nghe vậy rất hoảng sợ, cho rằng vị bá tước trẻ tuổi nói như vậy
tức là không bằng lòng cách họ quản lý công việc và vì họ ăn mất tiền
nong; có người lúc đầu còn sợ hãi nhưng dần dần cảm thấy những câu nói
xì xồ và lảm nhảm của Piotr và những danh từ mới mẻ của họ mới được
nghe lần này là lần đầu cũng hay hay; có những người chỉ cần được nghe
ông chủ nói là đã thú rồi; cuối cùng những người thông minh nhất, trong
số đó có viên tổng quản, qua lời nói này đã hiểu ra được mình cần phải
đối phó với ông chủ như thế nào, để có thể đến mục đích riêng của mình.
Viên tổng quản tỏ ý rất tán thành những ý định của Piotr nhưng lại bàn
rằng ngoài những cải cách kia, nói chung còn phải lo đến công việc làm
ăn, mà công việc làm ăn thì hiện nay đang ở trong tình trạng bê trễ!
Mặc dầu gia tài bá tước Bezukhov hết sức to lớn, nhưng từ ngày Piotr
nhận được cái gia tài ấy, và như người ta nói, thu được mỗi năm năm
mươi vạn rúp, nhưng chàng cảm thấy mình còn nghèo hơn nhiều so với thời
chàng nhận một vạn rúp của lão bá tước đã quá cố.
Đại khái chàng hình dung ngân sách của mình một cách mơ hồ như sau:
chàng trả cho Hội đồng giám hộ(1) về tất cả các điền trang gần tám vạn,
những khoản chi phí cùng với khoản trợ cấp cho ba công tước tiểu thư
mất hết khoảng ba vạn, những khoản tiền trợ cấp cho người này người nọ
hết gần một vạn rưởi; và tiền dùng vào công việc từ thiện cũng chừng
ấy; mười lăm vạn gửi cho bá tước phu nhân để tiêu dùng; tiền lãi về các
khoản nợ mỗi năm phải trả đến bảy vạn rúp, việc xây dựng một ngôi nhà
thờ đã khởi công hai năm nay tốn mất gần một vạn rúp; mười vạn rúp còn
lại thì tiêu hết nhẵn, chàng cũng chẳng hiểu tiêu vào những việc gì, và
hầu như năm nào chàng cũng bắt buộc phải vay. Đã thế, năm nào viên tổng
quản cũng viết thư cho chàng, khi thì báo tin có hoả hoạn, khi thì báo
tin mất mùa, khi thì lại bảo là cần phải xây dựng lại xưởng máy và
xưởng thủ công. Tóm lại, công việc đầu tiên mà Piotr phải lo lại chính
là cái việc mà chàng ít có khả năng và ít thấy hứng thú nhất, đó là
trông nom những công việc kinh tế.
Piotr ngày nào cũng làm việc với viên tổng quản. Nhưng chàng cảm thấy
những buổi "làm việc" của mình không làm cho chuyện làm ăn tiến lên một
chút nào. Chàng cảm thấy những buổi "làm việc" đó không dính líu gì với
công việc kinh doanh, nó không bám sát vào công việc kinh doanh, và
không thể thúc đẩy cho công việc tiến hành. Một mặt thì viên tổng quản
trình bày công việc dưới một ánh sáng hết sức bi quan, vạch cho chàng
thấy cần phải trả nợ và phải dùng sức của nông nô vào những công việc
mới, nhưng Piotr không nghe; mặt khác thì Piotr đòi phải bắt tay vào
việc giải phóng nông nô, nhưng viên tổng quản lại trả lời rằng trước
hết cần trả nợ cho Hội đồng giám hộ và do đó không thể nào thực hiện kế
hoạch này một cách nhanh chóng được.
Viên tổng quản không nói rằng điều đó hoàn toàn không thực hiện được;
hắn chỉ nói rằng muốn thực hiện việc ấy phải bán những khu rừng ở tỉnh
Koxtroma, bán những đất đai ở hạ Volga và điền trang ở Krym. Nhưng tất
cả những công việc này, theo như lời viên tổng quản nói, lại đi đôi với
những thủ tục phức tạp, nào là xin bãi miễn các lệnh cấm khiếu nại, xin
phép v.v… đến nỗi Piotr đâm hoang mang và chỉ biết đáp lại: "Được,
được, cứ làm như thế!".
Piotr không có cái tính kiên nhẫn thiết thực để có thể tự mình trực
tiếp bắt tay vào công việc, vì vậy chàng không thích công việc này và
chỉ cố giả vờ lo lắng đến công việc có mặt viên tổng quản.
Còn viên tổng quản thì trước mặt bá tước cứ cố làm như thể hắn cho rằng
những buổi làm việc này rất có lợi cho ông chủ nhưng thực là rày rà cho
hắn quá.
Ở trong thành phố lớn. Piotr đã gặp được những người quen; những người
chưa quen thì vội vàng làm quen và niềm nở tiếp đón nhà triệu phú mới
đến, nhà trang chủ lớn nhất trong tỉnh. Những điểm cám dỗ cái nhược
điểm chính của Piotr, nhược điểm mà chàng đã thú nhận khi được nhận vào
hội, cũng mạnh mẽ đến nỗi chàng không tài nào tự kiềm chế nổi. Rồi cũng
như ở Petersburg chàng lại miệt mài suốt ngày, suốt tuần, suốt tháng
trong những tối tiếp tân, những bữa tiệc, những buổi khiêu vũ, đến nỗi
không sao có thì giờ định thần lại nữa. Thế là cuộc đời mới mà chàng đã
mong mỏi vẫn không sao thực hiện được; chàng vẫn sống cuộc đời trước
kia, chỉ có điều là ở trong một khung cảnh khác mà thôi.
Trong số ba điều mà hội Tam điểm yêu cầu, Piotr nhận thấy mình không
thực hiện được cái điều khoản yêu cầu mỗi đạo hữu phải là tấm gương đạo
đức, và trong số bảy đức tính tốt, chàng hoàn toàn thiếu hẳn hai: đức
hạnh và lòng yêu cái chết. Chàng tự an ủi rằng, trái lại chàng đã thực
hiện được một nhiệm vụ khác - cải tạo nhân loại, chàng lại có những đức
tính khác là tình yêu đồng loại và đặc biệt là đại lượng.
Mùa xuân năm 1807, Piotr quyết định trở về Petersburg. Trên đường về,
chàng có ý định tham quan các điền trang của mình một lượt và thân hành
kiểm tra xem những mệnh lệnh của mình đã được chấp hành đến đâu, cũng
như xem thử cái đám dân mà Thượng đế đã giao phó cho chàng, cái đám dân
mà chàng đang tìm cách cải thlện cuộc sống, nay đang sống ra sao.
Mặc dầu viên tổng quản xem tất cả những dự định của vị bá tước trẻ tuổi
gần như là điên rồ, bất lợi cho hắn, cho ông ta cũng như cho nông dân,
nhưng hắn cũng nhượng bộ. Trong khi tiếp tục trình bày rằng giải phóng
nông dân là một việc không thể thực hiện được hắn vẫn ra lệnh xây dựng
trong tất cả các điền trang những ngôi nhà lớn dùng làm trường học, nhà
thương và nhà cứu tế, hắn chuẩn bị ở khắp nơi những cuộc đón tiếp chủ
nhân, không tổ chức linh đình vì hắn biết Piotr không thích, nhưng lại
là những cuộc đón tiếp theo lối cảm ơn có tính chất tôn giáo, có rước
tượng thánh, có dâng muối và bánh mỳ. Theo như hắn quan niệm về ông chủ
thì cách này hẳn là có tác dụng đối với bá tước và sẽ lừa được ông ta.
Mùa xuân ở phương Nam, cuộc hành trình nhanh chóng và thoải mái trong
một cái xe ngựa kiểu Viên cùng với cảnh tĩnh mịch ở trên đường, làm cho
Piotr rất sảng khoái, những điền trang mà chàng chưa hề đến, mỗi nơi
một vẻ: nơi nào trông cũng đẹp đẽ ngoạn mục, đâu đâu dân cư cũng có vẻ
sung túc, và có một tấm lòng biết ơn rất cảm động đối với những ân huệ
của chủ nhân. Đâu đâu cũng vậy, những cuộc đón tiếp của nông dân làm
cho chàng ngượng ngùng lúng túng, nhưng trong thâm tâm chàng vẫn cảm
thấy vui sướng. Ở một nơi nông dân mang bánh mỳ, muối và hai tượng
thánh Piotr và Pavel đến xin phép chàng cho họ xuất tiền túi ra xây một
điện thờ mới ở trong nhà thờ để tôn kính hai vị thiên thần của họ là
Piotr và Pavel và để tỏ lòng biết ơn những công đức mà họ đã nhận được.
Ở một nơi khác đàn bà bế con nhỏ ra đón tiếp và cảm ơn chàng đã ra lệnh
miễn cho họ những công việc nặng nhọc. Ở một điền trang thứ ba, một tu
sĩ cầm thập tự giá ra tiếp chàng, chung quanh là một đám trẻ con mà nhờ
ơn đức của bá tước ông ta đã dạy dỗ cho biết chữ và biết giáo lý. Ở
khắp các điền trang Piotr đều nhìn thấy rõ ràng những ngôi nhà bằng dá
dựng lên theo một kiểu duy nhất và dùng để làm nhà thương, trường học,
nhà cứu tế, chẳng bao lâu nữa sẽ được khánh thành. Đâu đâu xem báo cáo
của những người quản gia chàng cũng thấy việc lao dịch đã giảm nhẹ hơn
trước và đâu đâu chàng cũng được nghe những lời tạ ơn cảm động của
những phái đoàn nông dân mặc kaftan xanh.
Chỉ có điều là Piotr không biết rằng nơi mà người ta đem bánh mỳ và
muối ra dâng chàng và xây điện thờ hai vị thánh Piotr và Pavel chính là
một thị trấn buôn bán và là nơi họp phiên chợ vào ngày thánh Piotr, còn
cái điện thờ thì đã được xây từ lâu bằng tiền của phú nông: chính những
người đó đã đón chàng, còn chín phần mười nông dân trong làng này thì
hoàn toàn bị phá sản. Chàng không biết rằng theo lệnh chàng người ta đã
miễn lao dịch cho những bà mẹ có con mọn, nhưng những bà này bây giờ ở
nhà lại phải gánh lấy những phần việc nặng nhọc nhất. Chàng không biết
rằng vị tu sĩ tay cầm thánh giá ra tiếp đón chàng đã bắt nông dân phải
nai lưng ra nộp thuế thập phân và những đứa học trò đứng chung quanh là
do cha mẹ chúng vừa khóc vừa giao cho ông ta, và phải trả những món
tiên lớn cho ông ta mới được chuộc con về.
Chàng không biết rằng những ngôi nhà bằng đá xây theo một kiểu duy nhất
là do chính tay nông dân của chàng dựng nên và do đó lao dịch của họ
càng nặng thêm, có giảm bớt chăng chỉ là giảm trên giấy tờ mà thôi. Có
nơi một người quản gia đưa sổ sách cho chàng xem và chỉ cho chàng thấy
rằng theo lệnh của chàng tô đã được giảm một phần ba, nhưng chàng có
biết đâu trong khi đó lao dịch lại được tăng gấp rưỡi. Vì vậy, Piotr
rất hào hứng về cuộc hành trình qua các điền trang của mình và hoàn
toàn trở về với cái tâm trạng say sưa với công việc từ thiện khi chàng
rời khỏi Petersburg, chàng viết những bức thư hân hoan cho vị đạo huynh
bậc thầy của chàng, như lời chàng dùng để gọi vị đại sư.
"Làm bao nhiêu việc tốt như vậy mà thật là dễ dàng, chẳng phải khó nhọc
gì mấy, - chàng tự nhủ - Ấy thế mà chúng ta lại rất ít lo đến việc đó!".
Chàng thấy sung sướng vì nông dân đã tỏ lòng biết ơn mình, nhưng lại
thấy xấu hổ khi tiếp nhận những lời cảm ơn của họ. Lòng biết ơn này
nhắc nhở chàng rằng chàng lẽ ra còn có thể làm nhiều hơn nữa cho những
con người giản dị, hiền lành kia. Viên tổng quản: một người rất ngu dốt
nhưng lại rất giảo quyệt, đã hoàn toàn hiểu rõ ông bá tước thông minh
và ngây thơ, nên hắn đùa bỡn ông ta, xem như một trò chơi. Khi thấy
những buổi tiếp đón có chuẩn bị sẵn kia ảnh hưởng đến Piotr như vậy,
hắn biện luận một cách quả quyết hơn nữa rằng việc giải phóng nông dân
không thể thực hiện được và nhất là không cần thiết, bởi vì nông dân
chẳng cần được giải phóng cũng đã được hoàn toàn sung sướng rồi.
Trong thâm tâm Piotr cũng đồng ý với viên tổng quản rằng thật khó lòng
mà hình dung ra được những người sung sướng hơn, và có trời biết một
khi họ được tự do thì họ có thể gặp những tai ương gì; nhưng mặc dầu
miễn cưỡng, Piotr cũng nhấn mạnh việc thực hiện những điều mà chàng cho
là công bình. Viên tổng quản hứa đem hết tâm lực thực hiện ý muốn của
bá tước, mặc dù hắn vẫn thừa hiểu rằng bá tước không những không bao
giờ có thể kiểm tra xem thử tất cả những biện pháp để bán rừng và điền
trang, để trả nợ tiền cho Hội đồng giám hộ đã làm hay chưa, mà có lẽ sẽ
không bao giờ hỏi và biết được rằng những ngôi nhà đâ xây dựng lên đấy
vẫn bỏ không, còn nông dân vân phải tiếp tục cung cấp công sức và tiền
bạc như nông dân của các trang chủ khác, nghĩa là tất cả những gì họ có
thể cung cấp được.

Chú thích:
(1) Tên gọi một cơ quan địa ốc ngân hàng ở Nga.
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 EmptySat Dec 25, 2010 8:56 am

Phần V

Chương - 10 -




Tinh thần hết sức khoan khoái trong khi đi du lịch ở miền Nam trở
về, Piotr thực hiện cái ý định đã ấp ủ từ lâu là đến thăm Bolkonxki,
người bạn mà đã hai năm nay chàng chưa gặp lại.
Thôn Bogutsarovo ở vào một miền chẳng có gì là ngoạn mục. Đó là một nơi
bằng phẳng, toàn những cánh đồng và những khu rừng tùng, rừng bạch
dương, khu thì đã đẵn hết cây, khu thì hãy còn nguyên vẹn. Trang viên
của chủ nhân ở cuối một cái làng chạy dài thành một đường thẳng dọc
theo đường cái lớn, sau một cái hồ mới đào nước đầy ăm ắp, bờ vẫn chưa
mọc cỏ, giữa một khóm rừng cây non chen lác đác vài cây thông lớn.
Trang viên gồm có cái sân gồm có cái sân đập lúa, mấy căn nhà phụ, mấy
cái tàu ngựa, mấy gian buồng tắm, một dãy nhà dọc và một ngôi nhà lớn
bằng đá, mi nhà hình vòng cung còn đang xây dở, chung quanh nhà là một
thửa vườn mới trồng. Hàng rào và cổng đều mới và chắc chắn; dưới mái
hiên có hai cái bơm cứu hoả và một cái thùng tôn - nô sơn màu xanh lá
cây. Đường sá đều thẳng tắp, mấy cái cầu đều vững chắc và có tay vịn.
Tất cả đều mang rõ dấu vết một sự xếp đặt ngăn nắp của một bàn tay biết
cách làm ăn. Gặp mấy người đầy tớ, Piotr hỏi họ xem công tước Andrey ở
đâu, thì họ giơ tay chỉ dãy nhà dọc nhỏ mới xây ở ngay bên hồ. Anton,
người lão bộc của công tước Andrey đỡ Piotr xuống xe, nói rằng công
tước hiện có nhà: và đưa chàng vào một gian tiền phòng nhỏ rất sạch sẽ.
Piotr ngạc nhiên khi thấy vẻ mộc mạc của ngôi nhà nhỏ bé nhưng sạch sẽ,
bởi vì lần gần đây nhất chàng đã gặp bạn ở Petersburg trong một khung
cảnh cực kỳ tráng lệ. Chàng vội vàng bước vào gian phòng nhỏ chưa trát
thạch cao, còn thơm mùi gỗ thông, và toan đi vào nhưng Anton đã rón rén
chạy vượt lên trước chàng và đến gõ cửa.
- Cái gì thế? - Một giọng nói đanh và khó chịu từ trong phòng vẳng ra.
- Bẩm có khách ạ - Anton đáp.
- Bảo đợi một chút, - tiếng nói ở trong nhà đáp, rồi kế theo sau có tiếng xô ghế.
Piotr bước nhanh về phía cửa và suýt xô vào công tước Andrey đang bước
ra đón chàng, mặt mày cau có và trông già hẳn đi. Piotr ôm lấy bạn rồi
cất kính, hôn lên hai má chàng và nhìn sát vào mặt chàng.
- Thật là không ngờ! May mắn quá! - Công tước Andrey nói.
Piotr không nói gì, chàng ngạc nhiên nhìn bạn không rời mắt. Sự thay
đổi trên diện mạo công tước Andrey làm Piotr kinh ngạc. Lời nói của
công tước Andrey vẫn rất dịu dàng và thân mật, đôi môi và cả gương mặt
chàng vẫn tươi cười nhưng cái nhìn đã tắt, đã chết, và có thể thấy rõ
rằng tuy rất muốn, chàng vẫn không sao làm cho nó ánh lên tia sáng mừng
rỡ, tươi vui được. Không phải vì chàng đã gầy đi, xanh đi, rắn rỏi hơn
trước nhưng cái nhìn kia và nếp nhăn trên trán biểu lộ một tâm trí đã
từ lâu đăm chiêu suy nghĩ một việc gì làm cho Piotr ngạc nhiên và thấy
xa lạ, mãi về sau mới quen được.
Nhưng những người bạn đã lâu ngày xa cách nay mới được gặp lại họ nói
chuyện hồi lâu mà vẫn chưa có chủ đề gì nhất định. Họ hỏi nhau rất vắn
tắt và trả lời nhát gừng về những điều mà chính họ cũng biết là lẽ ra
cần phải nói dài. Cuối cùng dần dần câu chuyện đi sâu vào những việc mà
lúc đầu họ chỉ mới nói lướt qua một cách rời rạc; họ bắt đầu hỏi nhau
về quãng đời đã qua, về những dự định cho tương lai, về cuộc hành trình
của Piotr, về những công việc của chàng, về chiến tranh, v.v… Vẻ mặt
đăm chiêu và chán nản mà Piotr đã nhận thấy trong khoé mắt của công
tước Andrey bây giờ còn được phản ánh rõ rệt hơn nữa trong nụ cười của
chàng khi chàng nghe Piotr nói, đặc biệt khi Piotr say sưa và phấn khởi
nói về quá khứ và tương lai. Hình như công tước Andrey cũng muốn quan
tâm đến những điều đang nói, nhưng không được, Piotr bắt đầu cảm thấy
rằng, đứng trước công tước Andrey, nhiệt tình của mình, những mơ ước
những hy vọng về hạnh phúc và về đạo đức của mình đều không đúng chỗ.
Chàng thấy xấu hổ khi phải nói đến tất cả những tư tưởng Tam điểm mới
mẻ của mình, nhất là những tư tưởng đã được củng cố và khích lệ, trong
cuộc hành trình vừa qua. Chàng tự kiềm chế mình, sợ mình có vẻ ngây
ngô; nhưng đồng thời chàng lại hết sức nóng lòng muốn biết rằng bây giờ
chàng là một Piotr khác hẳn trước, tốt hơn nhiều so với chàng Piotr ở
Peterburg xưa kia.
- Tôi không sao nói hết cho anh rõ từ dạo ấy đến nay tôi đã trải qua
bao nhiêu thay đổi. Ngay bản thân tôi cũng không nhận ra mình nữa.
- Phải, từ bấy đến nay chúng ta đều thay đổi rất nhiều, rất nhiều công tước Andrey nói.
- Còn anh thì thế nào? - Piotr hỏi anh có những dự định gì?
- Dự định ư? - Công tước Andrey nói, giọng m**** mai - Dự định của tôi
ấy à. - Chàng nhắc lại, tựa hồ ý nghĩa của danh từ này làm chàng ngạc
nhiên. - Đấy, cậu thấy đấy, tôi đang xây dựng, tôi định sang năm sẽ dọn
đến ở hẳn nơi này.
Piotr im lặng, nhìn đăm đăm vào khuôn mặt già trước tuổi của công tước Andrey.
- Không tôi muốn hỏi… - Piotr nói. Nhưng công tước Andrey đã ngắt lời chàng.
- Thôi nói về tôi làm gì… Cậu kể đi nào, cậu kể cho tôi nghe cuộc hành
trình của cậu đi và tất cả những việc cậu đã làm ở cắc điền trang của
cậu.
Piotr bắt đầu kể lại những việc chàng đã làm trong các điền trang của
mình: đồng thời hết sức cố gắng che dấu phần mình đã đóng góp vào những
việc cải thiện ấy. Công tước Andrey đã mấy lần nhắc trước cho Piotr
những điều chàng sắp nói ra, tựa hồ như tất cả những việc Piotr đã làm
chỉ là những chuyện cũ rích và không những chàng không để ý lắng nghe
mà lại còn thấy xấu hổ về những điều Piotr kể nữa.
Piotr thấy ngượng và thậm chí khó chịu trong khi nói chuyện với bạn. Chàng im bặt.
- Này cậu, bây giờ thế này nhé - công tước Andrey nói hẳn là cũng cảm
thấy lúng túng và ngượng nghịu trước mặt bạn. - Tôi hiện nay chỉ tạm
"trú quân" ở đây, tôi chỉ mới về đây để nhìn qua một chút. Hôm nay tôi
lại trở về nhà em gái. Tôi sẽ giới thiệu cậu với họ. Vả chăng cậu cũng
biết cô ấy - chàng nói, như để thù tiếp người khách mà bây giờ chàng
cảm thấy không có gì giống mình nữa. - Ăn chiều xong chúng ta sẽ đi.
Còn bây giờ cậu có muốn đi xem điền trang của tôi không?
Hai người đi ra và dạo chơi cho đến bữa ăn chiều, nói chuyện về những
tin tức chính trị và về những người quen chung, như hai người không
thân thiết. Công tước Andrey chỉ hào hứng một chút khi nói đến cái
trang viên mới mà chàng đang sửa sang và ngôi nhà đang xây dựng. Nhưng
ngay ở đây ngay giữa chừng câu chuyện khi họ đang đứng trên dàn thợ ấy
và công tước Andrey đang tả cho Piotr nghe cách bố trí ngôi nhà sau
này, chàng bỗng ngừng bặt rồi nói:
- Vả lại việc này cũng chẳng có gì thú vị, thôi chúng ta về ăn chiều đi!
Trong bữa ăn, câu chuyện chuyển sang cuộc hôn nhân của Piotr, công tước Andrey nói:
- Tôi rất ngạc nhiên khi nghe tin ấy.
Piotr bừng mặt như thường lệ mỗi khi có ai nhắc tới việc này. Chàng nói vội vã:
- Tôi sẽ có dịp kể cho anh nghe đầu đuôi câu chuyện. Nhưng anh cũng
biết đấy, bây giờ tất cả những chuyện ấy đã chấm dứt rồi và chấm dứt
vĩnh viễn.
- Vĩnh viễn à? - Công tước Andrey nói - Không có cái gì vĩnh viễn đâu.
- Nhưng anh đã biết câu chuyện kết thúc như thế nào chưa? Anh đã nghe đến việc đấu súng rồi chứ?
- Có, cậu cũng phải đi đến nước ấy?
- Một điều mà tôi cảm ơn Thượng đế là tôi đã không giết chết người ấy. - Piotr nói.
- Tại sao lại không giết? - Công tước Andrey hỏi - Giết một con chó dữ là một điều rất tốt chứ sao?
- Không, giết người là không tốt, là bất công.
- Tại sao lại bất công? - Công tước Andrey vặn lại - Con người không
thể nào phán xét được cái gì là bất công, cái gì là công bình. Về mặt
này, người ta bao giờ cũng sai lầm và vĩnh viễn sẽ còn sai lầm; và
không có trường hợp nào con người lại sai lầm hơn là trong vấn đề phân
biệt công bình hay bất công.
- Cái gì đã là một điều ác đối với một người khác thì cái ấy là bất
công - Piotr nói, vui mừng nhận thấy lần đầu tiên từ khi đến thăm, công
tước Andrey đã hoạt bát lên và bắt đầu nói, chàng muốn bộc lộ ra cho
bạn rõ tất cả những gì đã khiến cho chàng thành con người như hiện nay.
- Thế ai đã cho cậu biết thế nao là điều ác đối với người khác? - công tước Andrey hỏi.
- Điều ác? Điều ác ấy à? - Piotr nói. - Tất cả chúng ta đều biết cái gì là ác đối với chúng ta.
- Đúng rồi, chúng ta đều biết cả, nhưng cái mà tôi biết là một điều ác
đối với tôi thì tôi không biết là điều ác đối với người khác được -
công tước Andrey càng nói càng hăng, hẳn là chàng muốn trình bày cho
Piotr thấy quan niệm mới của chàng về sự việc. Chàng nói tiếng Pháp. -
Tôi chỉ thấy trên đời có hai điều ác sự thực: đó là sự hối hận và bệnh
tật. Và điều thiện chẳng qua chỉ là không có hai điều ác này. Sống cho
riêng mình và tránh hai điều ác ấy, tất cả sự khôn ngoan của tôi hiện
nay chỉ có thế.
- Thế còn tình yêu đồng loại, còn sự hy sinh thì sao. - Piotr nói. -
Không, tôi không thể nào tán thành quan điểm của anh được! Chỉ sống thế
nào để đừng làm điều ác, để đừng hối hận thì ít quá. Trước đây tôi đã
từng sống như thế, tôi đã sống cho riêng tôi và đã tự làm hỏng đời
mình. Và chỉ có bây giờ tôi mới sống, hay nói cho đúng ra cố gắng sống
(Piotr khiêm tốn chữa lại) cho những người khác, chỉ có bây giờ tôi mới
hiểu hết hạnh phúc của cuộc sống. Không, tôi không đồng ý với anh đâu
mà cả anh nữa, anh cũng chẳng nghĩ như anh nói đâu.
Công tước Andrey im lặng nhìn Piotr và mỉm cười chế nhạo. Chàng nói:
- Cậu sẽ gặp cô em gái của mình, nữ công tước Maria, hai người sẽ ý hợp
tâm đầu lắm đấy. Có lẽ cậu có lý về phần cậu, - chàng nói tiếp sau một
lát im lặng - Nhưng mỗi người có một cách sống riêng: cậu đã sống cho
riêng mình cậu và cậu nói rằng cái lối sống ấy đã làm cho cậu suýt hỏng
cả cuộc đời, và cậu chỉ thấy hạnh phúc khi cậu bắt đầu sống cho những
người khác. Còn tôi thì tôi lại trải qua một kinh nghiệm ngược lại. Tôi
đã sống để tìm vinh quang (mà vinh quang là cái gì? Chẳng qua cũng vẫn
là tình yêu người khác, muốn làm cho họ một cái gì, muốn được họ khen
ngợi). Tóm lại tôi đã sống cho những người khác như thế và tôi không
phải suýt làm hỏng mà chính là đã hoàn toàn làm hỏng cuộc đời của tôi.
Và chỉ có từ khi tôi sống cho riêng mình thì tôi bắt đầu cảm thấy được
yên tĩnh hơn.
- Nhưng làm thế nào có thể sống cho riêng mình được? - Piotr bốc lên hỏi - Thế còn anh, em gái anh, cha anh?
- Nhưng họ cũng vẫn là tôi mà thôi chứ không phải là những người khác -
Công tước Andrey nói - còn những người khác, những kẻ đồng loại, Le
prochain(1), như cậu và nữ công tước Maria vẫn nói, thì lại là nguồn
gốc chính của sai lầm và điều ác. Le prochain chính là những người nông
dân của cậu ở Kiev mà cậu muốn cải thiện cuộc sống.
Và chàng nhìn vào mặt Piotr một cái nhìn chế nhạo, có vẻ khiêu khích. Hẳn là chàng muốn thách thức Piotr.
- Anh nói đùa đấy chứ. - Piotr nói, mỗi lúc một thêm sôi nổi. - Trong
những việc tôi muốn làm (tôi mới làm được rất ít, và làm rất kém) nào
có gì là sai lầm và độc ác đâu, tôi chỉ muốn làm điều thiện và dù sao
cũng đã làm được ít nhiều. Làm cho những con người bất hạnh, những
người nông dân của chúng ta, những con người như chúng ta, những người
lớn lên rồi chết đi mà không có một khái niệm nào khác về Thượng đế và
chân lý ngoài những lễ nghi và những bài cầu nguyện vô nghĩa, làm cho
họ có được những niềm tin đầy sức an ủi về đời sống sau này, về sự
trừng phạt, khen thưởng và an ủi thì có gì là ác? Dân nghèo đang chết
vì bệnh tật, vì thiếu săn sóc, trong khi người ta có thể dễ dàng giúp
đỡ họ về vật chất; tôi cung cấp cho họ thầy thuốc, nhà thương, nhà
dưỡng lão, thì có gì là độc ác là sai lầm? Tôi để cho nông dân, cho đàn
bà có con mọn được rỗi rãi nghỉ ngơi một chút vì họ đầu tắt mặt tối
suốt ngày đêm thì chẳng phải là một điều thiện rành rành ra đấy là gì
còn nghi ngờ gì nữa? - Piotr nói lắp bắp, vội vàng - và tôi đã làm như
thế, tuy tôi làm tồi, làm được ít, nhưng dẫu sao cũng đã có làm một cái
gì về mặt ấy, còn anh nói thế nào thì nói, chứ tôi thì tôi vẫn tin rằng
những việc tôi làm là vlệc tốt, hơn nữa, tôi vẫn tin rằng bản thân anh
không nghĩ như những điều anh nói. Nhưng cái chính - Piotr nói tiếp -
là tôi biết và tôi biết chắc rằng niềm vui sướng khi làm việc thiện
chính là lạc thú duy nhất chân chính trong cuộc đời.
- Phải, nếu đặt vấn đề như vậy thì lại khác - công tước Andrey nói -
Tôi xây một ngôi nhà, tôi trồng một khu vườn, còn cậu thì cậu làm nhà
thương. Cả hai việc này đều có thể dùng để tiêu hao ngày tháng. Còn cái
gì là đúng, cái gì là tốt thì hãy để cho người nào biết tất cả phê phán
chứ đó không phải là nhiệm vụ của chúng ta. Nhưng cậu đã muốn tranh
luận - công tước Andrey nói thêm - thì ta cứ tranh luận.
Hai người rời khỏi bàn ăn đến ngồi ở trên cái thềm thay thế bao lơn. Công tước Andrey nói tiếp:
- Nào, ta thử tranh luận xem. Cậu nói đến trường học - Công tước Andrey
vừa nói vừa gập đốt ngón tay, - giáo dục v.v… thế nghĩa là cậu muốn kéo
anh chàng kia - Chàng chỉ một người nông dân đang cất mũ đi qua trước
mặt hai người - ra khỏi tình trạng súc vật của hắn và làm cho hắn có
được có được nhu cầu tinh thần, nhưng tôi cảm thấy cái hạnh phúc duy
nhất có thể có được là hạnh phúc của súc vật, ấy thế mà cậu lại muốn
tước mất của hắn cái hạnh phúc ấy. Tôi thèm muốn được như hắn, còn cậu
thì muốn làm cho hắn giống như tôi nhưng lại không cho hắn những phương
tiện của tôi. Cậu lại nói giảm nhẹ sức lao động của hắn. Nhưng theo ý
tôi lao động thể lực đối với hắn là một điều cần thiết, cũng là một
điều kiện tồn tại như lao động trí óc đối với tôi. Cậu không thể nào
không suy nghĩ. Tôi đi ngủ lúc hai giờ sáng, bao nhiêu tư tưởng đến với
tôi và tôi không tài nào ngủ được, trằn trọc và thao thức mãi cho đến
sáng bởi vì tôi suy nghĩ và tôi không thể nào không suy nghĩ được; cũng
như hắn không thể nào không cày, không cắt cỏ được; nếu không thì hắn
sẽ vào quán rượu hay sẽ sinh bệnh. Cũng như tôi sẽ không thể nào chịu
đựng được thứ lao động thể lực ghê sợ của họ và sau một tuần tôi sẽ
chết, thì họ cũng không thể nào chịu đựng được sự nhàn rỗi về thể xác
của tôi họ sẽ phát phì ra và sẽ chết. Còn về điểm thứ ba thì cậu nói
thế nào nhỉ?
Công tước Andrey gập ngón tay thứ ba lại.
- À phải rồi, cậu nói đến nhà thương, nghĩ đến thuốc men. Hắn bị trúng
phong, hắn sắp chết, cậu trích huyết cho hắn, cậu chữa cho hắn khỏi.
Hắn sẽ thành một người tàn phế trong mười năm, làm thành một gánh nặng
cho mọi người. Để cho hắn chết chẳng phải là êm thấm hơn và đơn giản
hơn không? Sẽ có những người khác sinh ra, và cứ nguyên như thế này họ
cũng đông lắm rồi. - Giá thử cậu tiếc vì mất thêm một người thợ thì còn
nghe được - tôi quan niệm như thế đấy! Đằng này cậu lại cứu hắn chỉ vì
thương hắn mà thôi. Nhưng hắn có cần cậu thương đâu? Lại còn cái ý nghĩ
vớ vẩn tưởng thuốc trị được bệnh nữa. Thử hỏi y học đã có bao giờ cứu
được ai chưa? Giết người thì có! - chàng cau mày hằn học và quay mặt đi.
Công tước Andrey trình bày những tư tưởng của mình một cách rõ ràng và
chính xác đến nỗi có thể thấy rằng chàng đã nhiều lần nghĩ đến tất cả
những điều đó, và chàng nói một cách thích thú và nói rất nhanh như một
con người đã lâu không có dịp nói.
Những lý luận của chàng bi quan thì khoé mắt của chàng lại càng linh hoạt lên.
- Ồ như vậy thì thực là khủng khiếp, khủng khiếp! - Piotr nói. - Tôi
không thể nào quan niệm được rằng người ta có thể sống với những tư
tưởng như vậy. Riêng tôi, tôi cũng đã có những giây phút như vậy, gần
đây thôi, khi ở Moskva và trong lúc đi đường. Nhưng lúc bấy giờ tôi đi
đến tình trạng là tôi không sống nữa, cái gì tôi cũng thấy xấu xa quá…
và nhất là cả bản thân tôi cũng thế. Thế rồi tôi không ăn, không tắm
rửa, còn anh - anh thế nào?
- Tại sao lại không tắm rửa, không tắm thì bẩn - Công tước Andrey nói,
- Trái lại phải cố gắng làm sao cho cuộc sống của mình thật thú vị chứ?
Tôi sống, và đó không phải là lỗi của tôi, vậy thì phải tìm cách sống
sao cho hết sức thoải mái, không làm phiền đến ai, sống mãi cho đến
chết mới thôi…
- Nhưng đã có những tư tưởng như vậy thì cái gì làm cho anh thích sống
kia chứ? Trong hoàn cảnh như thế người ta sẽ ngồi yên không cử động,
không làm gì hết.
- Dẫu sao cuộc sống cũng không để cho anh ngồi yên. Tôi sẽ rất sung
sướng nếu chẳng phải làm việc gì hết, nhưng một mặt giới quý tộc ở đây
lại cho tôi cái vinh dự được chọn làm đại biểu của họ: tôi phải từ chối
mãi mới được. Họ không muốn hiểu rằng tôi không muốn có những đức tính
cần thiết, không có cái tính hiền lành và đon đả hơi dung tực, là cái
cần thiết cho công việc ấy. Rồi lại còn cái nhà này nữa, tôi phải xây
dựng nó lên để có một chỗ mà sống cho yên ổn. Bây giờ lại sinh ra việc
tuyển mộ dân quân.
- Tại sao anh không vào quân đội?
- Sau trận Austerlix ấy à? - Công tước Andrey nói, vẻ mặt sa sầm. -
Không ạ, xin đa tạ, tôi đã tự hứa với mình là không gia nhập quân đội
chiến đấu của nước Nga nữa. Và tôi nhất định sẽ không gia nhập, dù cho
Buônapartơ có đến đây, gần Smolensk, uy hiếp Lưxye Gôrư, tôi cũng sẽ
không nhập ngũ. Này tôi nói thật với cậu - công tước Andrey nói tiếp,
dần dần trấn tĩnh lại - Bây giờ người ta đang tuyển dân quân, cha tôi
là tổng tư lệnh khu ba, và biện pháp duy nhất đối với tôi để tránh quân
địch và làm việc dưới quyền cha tôi.
- Như thế tức là anh làm việc quân rồi chứ còn gì?
- Phải, - chàng im lặng một lát.
- Thế thì tại sao anh lại làm việc quân?
- Là vì thế này. Ông cụ tôi là một trong những người ưu tú nhất của
thời đại trước. Ông cụ tôi đã già và tuy không phải là người tàn ác
tính tình ông cụ quá hiếu động. Ông cụ đáng sợ vì đã quen nắm quyền lực
vô hạn, và bây giờ thì hoàng đế lại giao cho những người tổng tư lệnh
dân quân một quyền lực như thế. Cách đây hai tuần, nếu tôi đến chậm hai
giờ thì ông cụ đã sai treo cổ một lên thư lại ở Yukhnov - Công tước
Andrey mỉm cười nói
- Cho nên tôi ra làm việc bởi vì ngoài tôi ra không có ai có uy tín đối
với cha tôi, và thỉnh thoảng tôi có thể ngăn cản không để cha tôi làm
những việc mà sau này ông cụ sẽ hối hận.
- Đấy anh đã thấy chưa.
- Phải, nhưng không phải như cậu quan niệm đâu! - công tước Andrey nói
tiếp - Trước đây cũng như bây giờ tôi không hề có chút thiện cam nào
với cái thằng thư lại khốn nạn ấy, một thằng đã ăn cắp giày của dân
quân. Thậm chí nếu được trông thấy nó lủng lẳng trên giá treo cổ thì
tôi sẽ rất lấy làm hài lòng là đằng khác, nhưng tôi thương hại cho ông
cụ - tức cũng vẫn là thương hại cho tôi.
Công tước Andrey càng nói càng hăng. Mắt chàng sáng long lanh như đang
lên cơn sốt trong khi chàng cố gắng chứng minh cho Piotr thấy rằng
trong hoạt động, chàng không hề có ý muốn làm điều thiện cho đồng loại.
- Còn cậu thì cậu muốn giải phóng nông dân - chàng nói tiếp - hay lắm.
Nhưng đối với cậu thì chẳng hay đâu (tôi chắc cậu chưa bao gìờ đánh đập
ai hay đày ai đi Xibir cả). Còn đối với nông dân lại càng không hay hớm
gì. Nếu người ta đánh đập họ, nếu người ta đày họ đi Xibiri thì tôi cho
rằng tình cảnh của họ không phải vì thế mà khổ hơn chút nào. Ở Xibir họ
cũng sẽ sống cái cuộc sống súc vật như vậy, những vết roi vọt trên
người sẽ thành sẹo và họ cũng sẽ sung sướng như cũ. Việc đó có cần là
cần cho những kẻ nào đang sa đoạ về đạo đức, sống trong hối hận tìm
cách bóp nghẹt lòng hối hận ấy và trở nên bạo ngược vì họ có quyển
trừng phạt người khác, thích đáng cũng được mà oan uổng cũng xong. Tôi
thương hại là thương hại cho những con người như vậy, và sở dĩ tôi mong
muốn giải phóng nông dân cũng là vì những người đó. Có lẽ cậu chưa
thấy, nhưng tôi thì tôi đã thấy những người tốt được giáo dục theo cái
truyền thống quyền lực vô hạn ấy, rồi dần dần trở thành bẳn tính, tàn
nhẫn, bạo ngược. Họ biết như vậy nhưng không thể nào tự kiềm chế được,
và càng ngày càng khổ sở.
Công tước Andrey nói những điều đó một cách say sưa đến nỗi Piotr bất
giác nghĩ rằng chàng có những tư tưởng này là vì nghĩ đến cha chàng.
Piotr không đáp.
- Đấy tôi thương hại những người như thế đấy. Tôi thương cho phẩm giá
của con người, cho sự yên tĩnh của lương tâm, cho sự trong sạch, chứ
không phải là thương hại cái đầu hay cái lưng của nông dân mà dù người
ta có cạo trọc, có quất roi bao nhiêu đi nữa cũng vẫn sẽ là những cái
đầu và những cái lưng ấy.
- Không, không: ngàn lần không! Tôi sẽ không bao giờ đồng ý với anh - Piotr nói.
Chú thích:
(1)Kẻ đồng loại
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 EmptySat Dec 25, 2010 11:44 am

Phần V

Chương - 11 -




Đến chiều, công tước Andrey và Piotr lên xe song mã cùng về Lưxye
Gôrư. Công tước Andrey chốc chốc lại đưa mắt nhìn Piotr thỉnh thoảng
thốt ra những lởi chứng tỏ lòng chàng đang vui. Chàng chỉ cho Piotr xem
những cánh đồng, nói cho Piotr nghe về những cuộc cải thiện của mình
trong điền trang.
Piotr lầm lỳ yên lặng chỉ trả lời nhát gừng và có vẻ đang mải suy nghĩ đăm chiêu.
Piotr nghĩ rằng công tước Andrey đang đau khổ, rằng chàng đang lầm lạc
không biết đến ánh sáng chân chính, và mình cần phải giúp chàng, soi
sáng cho chàng và đỡ chàng dậy. Nhưng khi Piotr vừa thử nghĩ xem mình
sẽ bắt đầu nói như thế nào và nói những gì thì chàng cảm thấy trước
rằng công tước Andrey chỉ cần đưa ra một câu nói, một luận cứ thôi,
cũng đủ bẻ gãy tất cả những lời thuyết giáo của mình. Chàng không dám
nói, chàng sợ những điều thiêng liêng quý báu nhất của mình có thể bị
đem ra làm trò cười.
- Này anh, tại sao anh lại nghĩ như vậy? - Piotr đột nhiên lên tiếng
hỏi bạn và cúi đầu xuống như một con bò mộng đang chực húc người ta. -
Tại sao anh lại nghĩ như vậy? Anh không nên nghĩ như vậy.
- Tôi nghĩ cái gì nhỉ? - công tước Andrey ngạc nhiên hỏi lại.
- Nghĩ đến cuộc đời, đến sứ mệnh của con người. Nghĩ như anh không thể
được. Tôi cũng đã từng nghĩ như vậy và tôi đã được cứu thoát, anh có
biết cái gì cứu tôi không? Hội Tam điểm. Không, anh đừng cười. Hội Tam
điểm không phải là một giáo phái chỉ có những nghi thức suông như trước
đây tôi vẫn tưởng, hội Tam điểm là biểu hiện đẹp nhất, là biểu hiện duy
nhất của những khía cạnh tốt đẹp nhất, những khía cạnh vĩnh viễn của
nhân loại.
Và chàng bắt đầu trình bày cho công tước Andrey nghe về hội Tam điểm
theo như chàng quan niệm. Chàng nói rằng hội Tam điểm là một học thuyết
Cơ đốc thoát khỏi những ràng buộc của nhà nước và tôn giáo; học thuyết
của bình đẳng, hữu ái và tình thương.
- Chỉ có đoàn thể thiêng liêng của chúng tôi là hiểu được ý nghĩa chân
chính của cuộc sống, tất cả những cái khác đều chỉ là giấc mộng. -
Piotr nói. - Anh ạ, anh nên biết rằng ngoài hội này ra thì tất cả chỉ
là giả dối, lừa đảo, và tôi cũng đồng ý với anh rằng đối với một con
người thông minh và nhân hậu thì chỉ còn một cách là sống cho trọn cuộc
đời của mình, cố sao đừng làm phiền đến kẻ khác. Nhưng anh hãy tiếp thu
những tín điều chủ yếu của chúng tôi, hãy vào hội cuả chúng tôi, hãy
phó thác mình cho chúng tôi, hãy để cho chúng tôi chỉ dẫn anh, rồi anh
sẽ thấy ngay như tôi đã thấy, rằng mình là một mắt xích của sợi dây
chuyền to lớn và vô hình mà đầu dây mất hút trên trời cao - Piotr nói.
Công tước Andrey im lặng, mắt nhìn thẳng về phía trước, lắng nghe Piotr
nói. Đã mấy lần chàng không nghe ra vì tiếng bánh xe lăn ầm ầm, phải
hỏi lại những lời chàng chưa nghe rõ. Nhìn cái ánh sáng khác thường lấp
lánh trong đôi mắt của công tước Andrey và thấy chàng im lặng, Piotr
biết rằng những lời của mình không phải là vô ích, rằng công tước
Andrey sẽ không ngắt lời chàng và sẽ không chế nhạo những điều chàng
nói.
Họ đến một con sông ngập nước, phải dùng phà mới qua được. Trong khi
người nhà xếp chỗ cho xe ngựa, họ cũng bước lên phà. Công tước Andrey
chống khuỷu tay vào mạn phà im lặng nhìn mặt nước lấp lánh dưới ánh mặt
trời sắp tắt.
- Thế nào, anh nghĩ thế nào về những điều tôi vừa nói. Tất cả những
điều cậu nói đều đúng. Nhưng cậu bảo: anh hãy vào hội của chúng tôi rồi
tôi sẽ chỉ cho anh thấy mục đích của cuộc sống và sứ mạng của con
người, cũng như quy luật chi phối vũ trụ. Nhưng chúng ta là ai? Là
người. Tại sao các anh lại biết hết được. Tại sao một mình tôi không
thấy được những điều các anh thấy. Các anh cho rằng trái đất là vương
quốc của cái thiện, của chân lý, nhưng tôi không thấy thế.
Piotr ngắt lời chàng:
- Anh có tin vào cuộc sống sau này không?
- Cuộc sống sau này ư?
Công tước Andrey hỏi lại, nhưng Piotr không để cho chàng có thì giờ trả
lời, chàng cho rằng công tước Andrey hỏi lại như thế tức là có ý phủ
nhận, hơn nữa chàng đã từng biết những tư tưởng vô thần trước đây của
công tước Andrey.
- Anh nói rằng anh không thể thấy vương quốc của cái thiện và chân lý
trên trái đất. Tôi cũng vậy, trước kia tôi cũng không thấy vì không thể
nào thấy nó được nếu cho rằng cuộc sống của ta là sự kết thúc của tất
cả. Ở trên trái đất, chính ở trên trái đất này (Piotr đưa tay lên chỉ
những cánh đồng xung quanh) không có chân lý - tất cả đều xấu xa và giả
dối; nhưng trong vũ trụ, trong toàn thể vũ trụ thì chân lý ngự trị;
chúng ta bây giờ là con của trái đất, nhưng trong vĩnh viễn thì chúng
ta lại là con của toàn thể vũ trụ. Chẳng lẽ trong tâm hồn tôi không cảm
thấy rằng tôi là một bộ phận của cái toàn thể lớn lao và hài hoà kia
hay sao? Chẳng lẽ tôi không cảm thấy rằng tôi là một bộ phận trong con
số to lớn không sao đếm xuể của những sinh vật trong đó Thượng đế - Hay
là cái sức mạnh tối cao, anh muốn gọi là gì cũng được - Tự biểu hiện,
rằng tôi là một mắt xích, một bậc trên cái thang đi từ những vật thấp
nhất đến những vật cao nhất? Nếu tôi thấy và tôi thấy rõ ràng cái thang
ấy đi từ cây cỏ đến con người thì tại sao tôi có thể giả thiết rằng cái
thang ấy đến tôi là hết mà không đưa đi xa hơn nữa, xa hơn nữa? Tôi cảm
thấy rằng không những tôi không thể mất đi cũng như không có cái gì ở
trong vũ trụ có thể mất đi cả, mà tôi sẽ vĩnh viễn tồn tại, và đã vĩnh
viễn tồn tại. Tôi cảm thấy rằng ngoài tôi ra và ở trên tôi có những
linh hồn đang sống, và trong cái thế giới ấy chân lý đang tồn tại.
- Phải, đó là học thuyết của Herder (1) - công tước Andrey nói - Nhưng,
cậu ạ, cái đó không thuyết phục được tôi đâu, mà chỉ có cuộc sống và
cái chết mới thuyết phục được tôi thôi. Cái thuyết phục được tôi là
thấy rằng một con người thân mến, gắn bó với mình mà đối với người ấy
mình đã có lỗi và vẫn từng hy vọng chuộc lỗi (công tước Andrey nói
giọng run run và quay mặt đi). Thế rồi đột nhiên con người ấy đau đớn
khổ sở, và thôi tồn tại... Tại sao? Không lẽ nào lại không có câu trả
lời! Và tôi tin rằng có câu trả lời. Chính cái đó mới có sức thuyết
phục, và chính cái đó đã thuyết phục được tôi - công tước Andrey nói.
- Phải đấy, phải đấy - Piotr nói - Thì chính tôi cũng nói đến điều đó đấy thôi!
K hông phải. Tôi chỉ nói rằng không phải những lý luận thuyết phục được
tôi về sự tất yếu của cuộc sống sau này, mà chính là việc ta đang đi
trong cuộc đời, tay cầm con người ấy, thế mà đột nhiên con người ấy
biến mất ở đâu đây trong cõi hư vô, thế rồi ta dừng lại trước cái vực
thẳm ấy và nhìn vào đấy. Tôi đã nhìn vào cái vực thẳm ấy...
- Thế rồi thế nào! Anh biết rằng có nơi ấy, ở đấy có một cái gì đấy.
Nơi ấy chính là cuộc sống sau này và cái ấy chính là Thượng đế.
Công tước Andrey không đáp. Chiếc xe và mấy con ngựa đã lên bờ từ lâu,
xe đã thắng, mặt trời đã lặn một nửa và sương giá buổi chiều dã gieo
lên những vũng nước ở bến sông những vì sao lấp lánh, nhưng Piotr và
Andrey vẫn đứng trên phà nói chuyện, khiến cho những người đầy tớ những
người đánh xe và người chở phà phải ngạc nhiên.
- Nếu có Thượng đế và có cuộc sống sau này, thì phải có chân lý và có
đạo đức, và hạnh phúc cao nhất của con người chính là cố gắng đạt đến
nó - Piotr nói, - Cần phải sống, cần phải yêu thương, cần phải tin rằng
chúng ta không phải chỉ sống hôm nay trên mảnh đất này mà đã sống và sẽ
sống vĩnh viễn ở nơi kia: trong vũ trụ (chàng chỉ tay lên bầu trời).
Công tước Andrey chống tay lên mạn phà, và lắng tai nghe, mắt nhìn đăm
đăm vào cái vệt sáng đỏ ngầu mà mặt trời trải lên trên mặt nước xanh
lam. Piotr im bặt. Chung quanh hoàn toàn yên tĩnh.
Phà đã cập bến từ lâu. Trong buổi chiều êm ả chỉ nghe tiếng sóng yếu ớt
vỗ vào đáy phà. Công tước Andrey mường tượng như tiếng nước vỗ róc rách
kia cùng hòa lời với tiếng nói của Piotr mà khuyên chàng: "Thật đấy,
anh hãy im đi".
Công tước Andrey thở dài và đưa đôi mắt sáng long lanh và dịu dàng như
mắt trẻ thơ nhìn vào mặt Piotr đang đỏ bừng, say sưa nhưng vẫn e ngại
rụt rè vì thấy mình vẫn không bằng bạn.
- Phải, chỉ mong được như vậy! - chàng nói - Nhưng kia, thôi chúng ta
lên xe đi - công tước Andrey nói thêm và sau khi rời phà bước lên bờ,
chàng nhìn lên bầu trời mà Piotr đã chỉ cho chàng, và kể từ trận
Austerlix cho đến nay lần đầu tiên chàng lại nhìn thấy cái bầu trời cao
***g lộng, bầu trời vĩnh viễn mà chàng đã từng thấy khi chàng nằm trên
chiến trường, và một cái gì lâu nay đã thiếp đi, một cái gì tốt đẹp
nhất trong tâm hồn chàng chợt bừng tỉnh, vui sướng và trẻ trung. Cái
cảm giác ấy biến mất khi chàng lại bước vào những hoàn cảnh hàng ngày
của cuộc sống, nhưng chàng biết rằng cái cảm giác ấy vẫn sống trong
chàng mặc dầu chàng không phát huy nó được. Buổi gặp mặt Piotr hôm ấy
đối với công tước Andrey là bước đầu của một cuộc sống mới mẻ trong nội
tâm của chàng, tuy bên ngoài chẳng có gì thay đổi.

Chú thích:
(1) Johann Godfned Herder (1744-1803), văn sĩ lãng mạn, triết gia và sử gia Đức.
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 EmptySat Dec 25, 2010 7:40 pm

Phần V

Chương - 12 -




Khi cỗ xe chở công tước Andrey và Piotr dừng lại trước thềm chính của
ngôi nhà ở Lưxye Gôrư thì trời đã xấm tối. Trong khi xe tiến vào cổng,
công tước Andrey mỉm cười nhắc Piotr lưu ý đến cái cảnh hốt hoảng cuống
quýt bấy giờ đang diễn ra ở thềm sau. Một người đàn bà lưng còng, vai
mang bị, và một người đàn ông thấp, bé để tóc dài, mặc áo đen, nhìn
thấy chiếc xe ngựa đi vào liền chạy vội ra cửa sau. Hai người đàn bà
chạy theo họ và cả bốn người ngoái cổ nhớn nhác nhìn cái xe ngựa rồi
hốt hoảng chạy lên bậc thềm cửa sau.
- Đấy là những "con người nhà Trời" của Masa đấy - công tước Andrey
nói. - Thấy xe chúng mình đến họ tưởng là ông cụ. Đây là việc duy nhất
mà Masa không nghe lời ông cụ; ông cụ ra lệnh đuổi những người hành
hương, còn Masa thì lại tiếp họ.
- Nhưng "người nhà Trời" là thế nào? - Piotr hỏi.
Công tước Andrey chưa kịp trả lời, thì mấy người đầy tớ đã chạy ra đón
tiếp. Chàng hỏi họ xem lão công tước đi đâu và đã sắp về chưa.
- Lão công tước hiện ở trên tỉnh, và có lẽ chỉ lát nữa là về đến nhà.
Công tước Andrey đưa Piotr vào căn phòng riêng của chàng trong nhà lão
công tước, một căn phòng bao giờ cũng được dọn đẹp tươm tất sẵn sàng
đón tiếp chàng, rồi bước sang phòng trẻ.
- Đến thăm em gái tôi - công tước Andrey nói với Piotr - Tôi chưa gặp
cô ta; bây giờ cô ta đang lén lút ngồi với những "người nhà Trời" của
cô ta. Thế nào cô ta cũng sẽ luống cuống, nhưng kệ cô ấy cậu sẽ được
thấy những con người nhà Trời. Ngộ nghĩnh lắm kia, thật đấy!
- Những con người nhà Trời là thế nào? - Piotr hỏi.
- Rồi cậu sẽ thấy.
Quả nhiên công tước tiểu thư Maria rất luống cuống khi hai người bước
vào. Mặt tiểu thư ửng lên từng đám đỏ. Trong gian phòng ấm cúng của
nàng với những ngọn đèn chong leo lét trước cái tủ thờ đựng tượng
thánh, một cậu thiếu niên còn ít tuổi, mũi dài, tóc dài, ăn mặc theo
lối tu sĩ, đang ngồi bên cạnh nàng trên đi-văng trước chiếc xamovar.
Một bà già gầy gò, nhăn nheo, vẻ mặt hiền lành như mặt trẻ con, đang ngồi trên ghế bành, cạnh hai người.
- Anh Andrey ư? Sao không báo trước cho em biết? - Tiểu thư Maria nói
với giọng trách móc dịu dàng. Nàng đứng ra trước những người hành hương
như một con gà mái mẹ che chở cho đàn gà con.
- Rất hân hạnh được gặp anh. Tôi rất sung sướng được gặp anh!
Nàng nói với Piotr khi chàng hôn tay nàng. Nàng biết chàng từ khi còn
nhỏ và đến nay tình bạn của chàng với Andrey, nỗi bất hạnh của chàng
trong hôn nhân và nhất là cái khuôn mặt hiền hậu và chất phác của chàng
làm cho nàng có thiện cảm. Nàng nhìn chàng với cặp mắt trong sáng và
đẹp đẽ của nàng, dường như muốn nói: "Tôi rất quý mến anh nhưng xin anh
đừng chế nhạo những người bạn của tôi". Sau khi trao đổi những lời chào
hỏi đầu tiên, họ ngồi xuống.
- À cả Ivanuska cũng ở đây à, - công tước Andrey nói, mỉm cười hất hàm về phía người hành hương trẻ tuổi.
- Andrey! - Công tước tiểu thư Maria nói, giọng van lơn.
- Cậu phải biết rằng đó là một người đàn bà - Công tước Andrey nói với Piotr.
- Anh Andrey, em van anh! - tiểu thư Maria nhắc lại.
Có thể thấy rõ rằng công tước Andrey chế nhạo những người hành hương và
tiểu thư Maria bênh vực họ một cách vô hiệu như thế nào đã thành một
thói quen giữa hai người.
- Nhưng em ạ - công tước Andrey nói - Lẽ ra, em phải biết ơn anh mới
phải, vì anh đã cắt nghĩa cho anh Piotr hiểu rõ tình thân của em với
người trẻ tuổi kia là như thế nào?
- Thật à? Piotr nói đoạn đưa mắt nhìn vào mặt Ivanuska qua đôi kính
trắng, vẻ tò mò và nghiêm trang, khiến tiểu thư Maria rất cảm ơn chàng.
Trong khi đó Ivanuska cũng hiểu rằng người ta đang nói về mình, đôi mắt
linh khôn nhìn hết người này đến người khác.
Công tước tiểu thư Maria lo sợ cho các bạn của mình như vậy cũng vô
ích, vì họ chẳng hề mảy may sợ sệt. Bà già cúi mặt xuống nhưng vẫn liếc
mắt nhìn hai người mới vào, bà ta úp chén trà đã uống cạn lên đĩa tách,
đặt miếng đường cắn dở bên cạnh và điềm tĩnh ngồi yên không nhúc nhích
trên ghế bành, chờ đợi người ta rót trà mời mình uống nữa, Ivanuska
trong khi đưa đĩa tách lên miệng nhấp trà vẫn liếc nhìn hai người thanh
niên với cặp mắt tinh ranh của đàn bà.
- Bà ở đâu, ở Kiev(1) phải không? - Công tước Andrey hỏi bà già.
- Thưa cậu tôi có ở đấy - bà già nhanh nhẩu đáp, - Ngày lễ Giáng sinh
tôi đã may mắn được các vị Phúc lộc truyền cho những điều bí ẩn thiêng
liêng của thiên đường và bây giờ thưa cậu tôi ở Kolyazin(2), ở đấy vừa
có một thánh ân rất lớn.
- Thế Ivanuska đi với bà phải không?
- Không, thưa ngài, tôi đi một mình - Ivanuska cố lấy giọng trầm đáp. - Mãi đến Yukhov tôi và bà Pelagheyuska mới gặp nhau.
Bà Pelagheyuska ngắt lời người bạn hành hương hẳn là bà ta muốn kể lại những điều bà đã được thấy.
- Thưa ngài ở Kolyazin vừa có một thánh ân lớn hiển hiện.
- Thế nào? Lại những thánh cốt mới chứ gì? - Công tước Andrey hỏi.
- Kìa anh Andrey, em van anh - tiểu thư Maria nói - Bà Pelagheyuska, bà đừng kê nữa.
- Ồ kìa tiểu thư, tại sao lại không kể. Tôi mến cậu nhà lắm, cậu tốt
lắm. Cậu nhà được Chúa chọn lựa: cậu đã cho tôi mười rúp, tôi còn nhớ.
Lúc tôi ở Kiev, ông Kolyazin là một người ngây dại(3) có nói với tôi
(ông ta thực là người nhà trời, ông ta đi chân không mùa đông cũng như
mùa hạ) ông ta nói với tôi thế này, bà đến đây làm gì đây không phải
chỗ của bà, bà hãy đi Kolyazin đi, ở đấy có một pho tượng thánh đã hiển
hiện. Nghe nói thế tôi liền từ biệt mộ các vị phúc lộc rồi ra đi…
Tất cả mọi người im lặng, chỉ có bà hành hương nói một mình giọng đều đều, chốc chốc lại xuýt xoa.
- Thưa ngài, tôi đến Kolyazin, dân ở đây nói với tôi: một thánh ân lớn
đã hiển hiện, đầu thánh chảy trên má của Đức mẹ Chúa trời.
- Thôi được rồi, được rồi, sau hãy kể - tiểu thư Maria đỏ mặt nói.
- Cho phép tôi hỏi bà ta một câu - Piotr nói - chính mắt bà trông thấy à?
- Chứ sao nữa, thưa ngài, chính tôi đã được cái hân hạnh ấy, mặt Đức mẹ
sáng rực lên như ánh sáng thiên đường và dấu thánh trên má của Đức mẹ
cứ nhỏ giọt, nhỏ giọt xuống…
Piotr nãy giờ vẫn chăm chú lắng nghe bà hành hương, nói một cách ngây thơ:
- Ô thế thì đúng là lừa bịp rồi!
- Ồ thưa ngài, ngài nói gì lạ vậy! - Bà Pelagheyuska hoảng hốt kêu lên, đưa mắt nhìn tiểu thư Maria như muốn cầu cứu.
- Đấy là họ lừa dối nhân dân đấy - Piotr nhắc lại.
- Lạy Chúa tôi - bà hành hương vừa làm dấu thánh vừa nói - Ồ, ngài đừng
nói thế. Đấy, có ông đại tướng không tin, ông ta nói là bọn tu sĩ lừa
bịp, ông ta vừa dứt lời là mù mắt ngay. Thế rồi ông ta nằm mơ thấy Đức
mẹ Peserxkaya đến gàp ông ta và nói: "Ngươi hãy tin ta, ta sẽ chữa cho
ngươi khỏi". Thế rồi ông ta cầu khẩn: "Đưa tôi đến Đức mẹ, đưa tôi đến
Đức mẹ". Tôi nói thực với ngài, chính mắt tôi trông thấy… họ đưa ông ta
ra - cái ông bị mù ấy đến Đức mẹ. Ông ta đến trước tượng Đức mẹ quỳ
xuống và nói: "Đức mẹ cứu con với, con xin dâng Đức mẹ tất cả những gì
mà Sa hoàng đã ban tứ cho con". Chính mắt tôi trông thấy có một ngôi
sao dính vào tượng Đức mẹ. Thế rồi mắt ông ta sáng lại! Nói như vậy là
có tội đây. Đức chúa sẽ trừng phạt cho mà xem - bà ta lên giọng răn dạy
nói với Piotr.
- Nhưng làm thế nào ngôi sao lại có thể ở trên tượng thánh được? -
Piotr hỏi. - Đức mẹ mà người ta cũng đề bạt lên chức tướng à? - công
tước Andrey mỉm cười nói.
Pelagheyuska bỗng tái mặt đi và chắp hai tay lại:
- Ông ơi, sao ông lại ăn nói như vậy, xin Chúa tha tội cho ông, - bà ta
làm dấu thánh, - Xin Chúa tha tội cho ông. Thưa tiểu thư, như vậy thế
nghĩa là thế nào? - bà ta nói với công tước tiểu thư Maria, đoạn đứng
dậy mếu máo nhặt cái bị, rõ ràng bà ta sợ hãi và xấu hổ vì đã nhận ơn
huệ của một nhà trong đó người ta có thể nói những lời báng bổ như vậy,
nhưng vẫn tiếc khi phải từ bỏ những ơn huệ đó.
- Ô hay, sao các anh lại thế? - Tiểu thư Maria nói - Các anh đừng đến chỗ tôi có hơn không?
- Nào có gì đâu, tôi chỉ nói đùa đấy thôi bà Pelagheyuska ạ - Piotr
nói. - Thưa công tước tiểu thư, thực tình tôi không muốn làm phật ý bà
ấy, tôi chỉ nói thế thôi. Bà dừng nghĩ gì, tôi chỉ nói đùa thế thôi -
chàng vừa nói vừa mỉm cười bẽn lẽn như muốn chuộc lỗi.
Bà Pelagheyuska dừng lại có vẻ nghi ngờ, nhưng thấy gương mặt Piotr
biểu lộ một lòng hối hận hết sức thành thật, và thấy công tước Andrey
hết nhìn Piotr lại nhìn bà ta một cách dịu dàng nên cũng dần dần yên
tâm.

Chú thích:
(1) Kiev là nơi đi hành hương trọng yếu nhất của Nga. Ở đấy có tu viện
Petse và các ngôi mộ của 118 vị "phúc lộc" tức những người đã được tôn
lên làm thánh sau khi chết (thường là tuẫn dạo).
(2) Kolyazin: một thành phố nhỏ ở tỉnh Tver ở đấy cũng có một tu viện
nổi tiếng: khách hàng hương đến đấy đặc biệt vào ngày thứ sáu.
(3) Ngày trước có những người ngây dại hoặc giả cách ngây dại được tín
đồ chính giáo xem là những "người nhà Trời" hay "người của thượng để"
biết được những điều bí ẩn của thiên đường.
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 EmptySat Dec 25, 2010 7:40 pm

Phần V

Chương - 13 -




Bà hành hương yên tâm, và sau khi được gợi chuyện, lại thao thao
bất tuyệt một hồi lâu về cha Amfilok, con người sống một cuộc đời thánh
đức đến nỗi hai bàn tay sực nức mùi hương trầm.
Rồi bà lại kể rằng trong cuộc hành hương gần đây của bà đến Kiev, các
tu sĩ mà bà quen biết đã cho bà mượn chìa khoá đi vào động thánh và bà
đã đem lương khô đến đấy sống hai ngày hai đêm bên mộ các vị phúc lộc.
"Tôi cầu nguyện trước một thánh cốt, tôi đọc kinh một lát rồi tôi lại
đến một thánh cốt khác. Tôi ngủ thiếp đi một lát rồi lại đến hôn các
thánh cốt; tiểu thư ạ, bấy giờ thật là tịch mịch, tôi cảm thấy sung
sướng đến nỗi không còn muốn bước ra ngoài trời nữa".
Piotr chăm chú và nghiêm trang lắng nghe bà ta nói. Công tước Andrey đã
ra khỏi phòng. Một lát sau, tiểu thư Maria cũng ra theo, đưa Piotr đến
phòng khách, để những người nhà trời ngồi lại uống nốt chén trà.
- Anh tốt quá - nàng nói với chàng.
- Thật tôi không có ý muốn là bà ta phật lòng đâu, tôi rất hiểu và rất quý những tình cảm ấy.
Công tước tiểu thư Maria im lặng nhìn chàng và mỉm cười dịu dàng:
- Tôi đã biết anh từ lâu và yêu quý anh như một người anh ruột. Anh
thấy anh Andrey thế nào? - Nàng hỏi vội vàng, không để cho chàng có thì
giờ nói một câu gì đáp lại những lời lẽ trìu mến của mình
- Tôi lo cho anh ấy lắm. Sức khoẻ của anh ấy mùa đông năm ngoái đã khá
hơn, nhưng sang mùa xuân năm nay vết thương lại tấy lên, và bác sĩ bảo
là anh ấy cần phải đi dưỡng bệnh. Về mặt tinh thần anh ấy cũng làm cho
tôi rất lo ngại. Anh ấy không phải như đàn bà chúng tôi có thể than
khóc để chịu đựng nỗi khổ của mình. Anh ấy giữ kín nỗi đau khổ trong
lòng. Hôm nay anh ấy vui vẻ và phấn chấn, nhưng đó là vì có anh đến
thăm, chứ ngày thường ít khi anh ấy như thế lắm. Nếu anh có thể khuyên
anh ấy đi du lịch nước ngoài thì tốt quá! Anh ấy cần hoạt động: cuộc
sống yên tĩnh và đều đều ở đây rất có hại cho anh ấy. Người khác thì
không để ý nhưng tôi thì tôi thấy rất rõ.
Vào khoảng hơn chín giờ, gia nhân chạy ùa ra ngoài thềm khi nghe tiếng
chuông xe ngựa của lão công tước. Andrey và Piotr cũng ra thềm đón.
- Đây là ai? - Lão công tước hỏi khi bước xuống xe và trông thấy Piotr. Khi đã biết chàng thanh niên lạ mặt kia là ai, ông nói:
- A! Rất vui mừng! Anh hôn tôi đi.
Lúc bấy giờ lão công tước đang vui, nên tiếp Piotr rất niềm nở thân ái.
Trước bữa ăn tối, công tước Andrey quay lại phòng làm việc của cha thì
thấy lão công tước đang tranh luận rất hay với Piotr, lúc bấy giờ Piotr
đang chứng minh rằng sẽ có lúc không còn chiến tranh nữa. Lão công tước
bác lại, chế nhạo chàng nhưng vẫn không giận dữ.
- Lấy hết máu trong huyết mạch của họ ra, và đổ nước lã vào, lúc bấy
giờ mới không có chuyện nhảm! - Lão công tước nói, nhưng vẫn thân mật
vỗ vai Piotr rồi đến cạnh bàn công tước Andrey. Công tước Andrey, hẳn
là không muốn dự vào câu chuyện, đang ngồi giở xem những giấy tờ mà cha
chàng mới đem từ trên tỉnh về. Lão công tước đến cạnh chàng và bắt đầu
nói chuyện công việc.
- Bá tước Roxtov, đô thống quý tộc, không cung cấp được một nửa số
người ấn định. Ông ta lên tỉnh, bày chuyện mời ta đến dự tiệc ta mới
cho lão ta một trận: cái lão này chỉ ăn với uống… này anh - lão công
tước Nikolai Andreyevich nói với con trai trong khi vỗ vai Piotr, - Anh
bạn của anh cừ đấy, ta rất mến. Nói chuyện với anh rất thú. Những người
khác ăn nói thông minh nhưng người ta không buồn nghe, còn cái anh này
thì chỉ nói nhảm nhưng lại làm cho già này hăng hái hẳn lên. Thôi đi ăn
đi, đi ăn đi, có lẽ ta sẽ đến ngồi tiếp anh trong bữa ăn tối. Rồi chúng
ta còn tranh luận nữa. - Lão công tước đã đến cửa phòng, còn ngoái cổ
lại quát to với Piotr - Anh hãy thương yêu lấy nữ công tước Maria, con
bé ngốc nghếch của tôi.
Mãi đến nay, khi đến Lưxye Gorư, Piotr mới thấy hết cái sức mạnh và sức
thu hút trong tình bạn của chàng với công tước Andrey. Sức thu hút này
không phải chỉ biểu hiện trong mối quan hệ đối với cả gia đình và tất
cả những người ở trong nhà nữa. Với lão công tước khắc nghiệt, với công
tước tiểu thư Maria dịu dàng và nhút nhát, tuy chàng hầu như chưa quen
biết họ, Piotr cũng vẫn cảm thấy ngay rằng đối với họ mình là một người
bạn cũ. Và tuy mới gặp, mọi người cũng đều đã yêu quý chàng hơn. Không
phải chỉ có công tước tiểu thư Maria mến chàng vì cái thái độ hiền hoà
của chàng đối với mấy người hành hương và mỗi khi nhìn chàng, đôi mắt
trong sáng của nàng lại càng thêm trong sáng, mà ngay cả tiểu công tước
Nikolai (như ông nội của cậu vẫn gọi) bấy giờ đã được một tuổi, cũng
mỉm cười với Piotr và để cho chàng bế, Mikhail Ivanyts, cô Burien nhìn
chàng với những nụ cười vui vẻ khi chàng nói chuyện với lão công tước.
Lão công tước ra dự bữa ăn tối gia đình: cái đó rõ là vì Piotr. Lão
công tước tỏ ra đặc biệt thân mật với chàng trong hai ngày chàng ở lại
Lưxye Gorư và bảo chàng thỉnh thoảng đến chơi.
Khi Piotr đã ra đi và tất cả những người trong gia đình hội họp lại bắt
đầu bình phẩm về chàng, cũng như thói thường mỗi khi một người mới quen
biết vừa ra về, và có một điều ít có là mọi người đều chỉ nói tốt cho
chàng.
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 EmptySat Dec 25, 2010 7:40 pm

Phần V

Chương - 14 -




Lần này đi nghỉ phép về, Roxtov lần đầu tiên cảm thấy và hiểu lo
mối liên hệ giữa chàng với Denixov và tất cả trung đoàn là mãnh liệt
như thế nào.
Khi gần về đến trung đoàn, Roxtov có một cảm xúc giống như cái cảm xúc
chàng đã từng thể nghiệm khi gần về đến ngôi nhà của mình ở phố
Povarxkaya. Khi chàng trông thấy người lính phiêu kỵ đầu tiên mặc quân
phục phanh ngực, khi chàng nhận ra anh chàng Dementyev tóc hoe, nhìn
thấy những cái cọc buộc mấy con ngựa hồng, khi chàng nghe Lavruska mừng
rỡ reo lên với chủ: "Bá tước đã về!" và anh chàng Denixov tóc bờm xờm
đang ngủ trên giường bỗng vùng dậy chạy ra khỏi lều đất(1) ôm lấy chàng
mà hôn và các sĩ quan chạy đến xúm xít xung quanh con người mới đến,
Roxtov có một cảm xúc giống như khi mẹ chàng, hay các em gái của chàng
ôm hôn chàng, và những giọt nước mắt vui sướng trào lên cổ làm cho
chàng nghẹn ngào không sao nói được nữa. Trung đoàn đối với chàng cũng
là nhà của chàng, một cái nhà thứ hai, cũng thân mật và quý báu như
ngôi nhà của cha mẹ chàng.
Sau khi đã lên trình diện với trung đoàn trưởng, và lại được bổ dụng
vào tiểu đoàn cũ, sau khi đã làm xong công việc trực nhật và đi lấy cỏ
ngựa, dự phần vào tất cả những điều lo lắng nhỏ nhặt của trung đoàn và
cảm thấy mình đã mất tự do và bị gắn chặt vào cái khuôn khổ chật hẹp và
không thay đổi, Roxtov cũng thấy mình yên tĩnh, có chỗ nương tựa vững
vàng, và có ý thức rằng mình ở đây là ở nhà, ở nơi dành liêng cho mình,
đúng như khi ở dưới mái nhà của cha mẹ. Ở đây không có những cảnh rối
ren của cuộc sống bên ngoài quân đội, trong đó chàng không tìm thấy vị
trí của mình và cứ phải lầm lẫn trong lúc lựa chọn; ở đây không có
Sonya để chàng cứ phải băn khoăn không biết có nên thổ lộ tình yêu hay
không. Ở đây không thể có khả năng đến "đàng ấy" hay không đến "đàng
ấy", không có những ngày hai mươi bốn tiếng đồng hồ mà người ta có thể
giải trí theo bao nhiêu cách khác nhau cũng được; không có cái đám
người đông vô số trong đó chẳng có ai thân thiết hơn ai mà cũng chẳng
có ai xa lạ hơn ai; không có những quan hệ tiền tài không rõ ràng và
không xác định với cha chàng, không còn phải hồi tương lai canh bạc
khủng khiếp chàng đã thua Dolokhov, ở đây, trong trung đoàn, mọi việc
đều rõ ràng và đơn giản. Thế giới chia ra hai phần không đều nhau, một
phần là "trung đoàn Pavlograd của chúng ta", còn cái phần kia là tất cả
những gì còn lại. Và cái phần còn lại kia thì tuyệt nhiên chẳng cần đếm
x** gì đến. Trong trung đoàn cái gì cũng rõ; ai là trung uý, ai là đại
uý, ai tốt, ai xấu, và nhất là ai là bạn mình. Người bán hàng rong cho
anh mua chịu, tiền lương thì lĩnh từng quý một; chẳng cần gì phải suy
tính hay lựa chọn lôi thôi, chỉ cần đừng làm những việc mà trong trung
đoàn Pavlograd người ta vẫn coi là xấu xa, và khi được giao nhiệm vụ
thì chỉ có việc thi hành cho đúng những điều đã được chỉ thị một cách
rõ ràng, minh xác, thế là mọi việc sẽ ổn thoả.
Quay trở về với hoàn cảnh sinh hoạt rõ ràng minh bạch của trung đoàn,
Roxtov cảm thấy vui sướng và thư thái như một người mệt mỏi khi ngả
lưng xuống nằm nghỉ. Cuộc sống ở trung đoàn trong chiến dịch này đối
với chàng lại càng thú vị hơn nữa là vì từ khi chàng thua bạc (một việc
chàng không thể nào tha thứ cho mình, mặc dầu cha mẹ chàng đã hết lời
an ủi), chàng đã quyết định làm nghĩa vụ quân nhân không phải như trước
kia nữa, mà lại để chuộc lại lỗi lầm của mình, chàng quyết tâm phục vụ
tốt và trở thành một người bạn và một sĩ quan gương mẫu, nghĩa là một
con người hoàn toàn, điều mà chàng cảm thấy thật khó lòng thực hiện nổi
khi còn sống ở ngoài đời, nhưng ở trong trung đoàn thì lại rất dễ.
Từ dạo chàng thua bạc, Roxtov đã quyết định trong năm năm sẽ trả xong
món nợ chàng đã mắc cha mẹ chàng. Trước kia gia đình gửi cho chàng một
số tiền trợ cấp mỗi năm một vạn rúp, nhưng bây giờ chàng nhất quyết chỉ
nhận hai nghìn thôi, còn bao nhiêu để lại cho cha mẹ mong trả dần số
nợ. Sau nhiều lần thoái quân rồi lại tiến quân, và sau các trận
Pultuxk, Proixich Ailau, quân ta kéo về tập trung ở gần Bartenstain.
Quân sĩ đang chờ đợi hoàng đế đến và chờ một chiến dịch mới sắp mở đầu.
Trung đoàn Pavlograd là một bộ phận của đạo quân đã dự chiến dịch 1805.
Vì còn phải bổ sung quân số ở Nga nên nó đã đến quá chậm không được dự
những trận đầu tiên của chiến dịch và không có mặt ở Pultuxk cũng như ở
Proixich Ailau. Đến cuối chiến dịch, nó được sáp nhập vào quân đội đã
chiến và trở thành một đơn vị của chi đoàn Platov.
Chi đoàn Platov hoạt động độc lập đối với quân đội. Đã mấy lần lính
phiêu kỵ Pavlograd đã tham dự vào những trận đánh nhỏ với quân địch,
bắt được tù binh và có một lần đã cướp được đoàn xe vận tải của thống
chế Udino. Vào tháng tư trung đoàn phiêu kỵ Pavlograd đã mấy tuần đóng
quân cạnh một làng Đức bị đốt phá tan hoang và không còn ai ở nữa; họ
cứ ở lì một chỗ, không đi đâu cả.
Tuyết đã bắt đầu tan và đâu đâu cũng ngập đầy những bùn. Trời lạnh,
sông ngòi ngập nước đường sá không đi lại được; người và ngựa đã mấy
ngày không có lương ăn. Vì việc vận tải không thể thực hiện được, binh
sĩ tràn vào các làng hoang vắng tìm khoai tây, nhưng ngay cả thứ này
bây giờ cũng rất hiếm.
Lương thực đã cạn và bao nhiêu dân cư đều đã chạy chốn hết; những người
nào ở lại thì còn đói khổ hơn ăn mày và không còn gì để mà lấy của họ
nữa, đến nỗi quân lính xưa nay vốn ít biết thương xót ai, đến nay không
những không lấy gì của họ mà lại còn chia sẻ với họ những mẩu bánh cuối
cùng.
Trung đoàn Pavlograd chỉ có hai người bị thương trong chiến đấu; nhưng
nạn đói và bệnh tật đã cướp mất gần nửa quân số. Trong các bệnh xá
người ta chết một cách chắc chắn đến nỗi mặc dầu phát sốt và bị phù
thũng vì ăn uống tồi tàn, binh sĩ vẫn cứ một mực xin ở lại đơn vị thà
cố sức lê chân trong hàng ngũ còn hơn là đến bệnh xá.
Đầu mùa xuân binh sĩ tìm thấy một thứ cây giống như cây măng tây ở dưới
đất mọc lên và không hiểu tại sao họ đặt tên cho nó là rễ ngọt Maska.
Họ phân tán ra các bãi cỏ và cánh đồng để tìm cái thứ rễ ngọt này (thực
ra thì nó rất đắng) lấy gươm đào lên ăn, mặc dầu đã có lệnh cấm không
được động đến thứ cây độc này. Vào mùa xuân, trong đám binh sĩ phát
sinh một thứ bệnh mới; đó là bệnh phù thũng ở tay, chân và mặt; các bác
sĩ cho rằng sở dĩ sinh bệnh phù thũng như vậy là vì ăn thứ rễ độc kia.
Nhưng tuy đã có lệnh cấm, lính phiêu kỵ Pavlograd trong tiểu đoàn
Denixov vẫn dùng cái rễ Maska là món ăn chính, bởi vì suất lương khô
cuối cùng mỗi người nhận được là nửa bảng đã kéo dài hai tuần nay, còn
chỗ khoai tây đưa đến lần cuối cùng thì đã đóng giá và mọc mầm hết.
Ngựa cũng vậy, đã mười lăm ngày nay chỉ ăn mái tranh thay cỏ gầy gò như
những bộ xương, và vẫn còn giữ bộ lông mùa đông rối bết lại thành cục.
Mặc dầu tình cảnh bi đát như vậy, nếp sinh hoạt của binh lính và sĩ
quan vẫn đúng như mọi khi. Bấy giờ, tuy mặt mày xanh xao và sưng phù
lên quân phục rách rưới, lính phiêu kỵ vẫn cứ tập hợp điểm danh, đi tìm
thức ăn, tắm rửa cho ngựa, lau chùi khí giới, lấy tranh trên mái cho
ngựa ăn thay cỏ, đi lĩnh phần cháo ăn trở về đói lả nhưng vẫn bông đùa
về cảnh ăn uống cơ cực và đói khổ của mình. Cũng như mọi ngày, mỗi khi
rỗi rãi họ lại đốt lửa lên, đánh trần ra ngồi sưởi, hút thuốc, nướng
những củ khoai tây đã mọc mầm hoặc đã thối và kể lại hay nghe kể lại
các chiến dịch của Potyomkin và Xuvorov, những câu chuyện phiêu lưu của
chàng Ayosa tinh ranh và của Mikolka, người cố nông của ông Pop.
Các sĩ quan cũng như thường ngày vẫn sống hai hay ba người một trong những ngôi nhà dột nát, tứ phía gió lùa vào thông thống.
Các sĩ quan cấp trên thì lo việc kiếm rơm và khoai tây và nói chung lo
vấn đề lương thực của binh sĩ. Các sĩ quan cấp dưới thì vẫn như mọi
ngày, người thì đánh bài (tiền thì họ vẫn có nhiều mặc dầu không có
lương thực), người thì chơi những trò vô hại như chơi "gorodki" và chơi
"xvaika". Người ta ít nói đến tình hình chung của chiến sự, một phần vì
không biết gì đích xác, một phần vì cảm thấy mơ hồ rằng tình hình chiến
sự điền biến không lấy gì làm tốt đẹp.
Roxtov vẫn ở chung với Denixov như trước, và từ ngày họ được nghỉ phép, tình bạn của hai người lại càng thêm khăng khít.
Denixov không bao giờ nhắc đến gia đình Roxtov nhưng mối tình bằng hữu
đằm thắm của viên chỉ huy đối với sĩ quan dưới quyền mình khiến Roxtov
cảm thấy rằng tình yêu tuyệt vọng của người lính phiêu kỵ dạn dày đối
với Natasa đã góp phần xiết chặt tình bạn của họ. Hình như Denixov tìm
mọi cách để cho Roxtov ít phải xông pha nơi nguy hiểm, nương nhẹ nhàng
và sau mỗi lấn giao chiến, Denixov lại hết sức vui sướng khi thấy
Roxtov trở về lành lặn.
Trong một chuyến đi công tác lương thực, Roxtov đã tìm thấy trong một
cái làng vắng vẻ bị phá phách tan hoang một cụ già người Ba Lan với
người con gái của cụ đang có con dại. Họ rách rưới đói khổ không đi
được nữa và không có tiền để thuê một chiếc xe. Roxtov đem họ về nơi
đóng quân, cho họ ở trong lều mình và suốt mấy tuần săn sóc họ cho đến
khi cụ già bình phục. Một người bạn của chàng, một hôm nhân nói đến đàn
bà, đã chế giễu Roxtov, nói rằng chàng tinh ranh nhất đời, và lẽ ra
cũng nên giới thiệu với bạn bè cái cô Ba Lan xinh đẹp mà chàng đã cứu
sống. Roxtov cho rằng bông đùa như thế là lăng nhục mình và nổi xung
lên mắng nhiếc viên sĩ quan nặng lời đến nỗi Denixov phải khó nhọc lắm
mới ngắn cản được một cuộc đấu súng. Chính bản thân Denixov cũng không
hiểu rõ mối quan hệ giữa Roxtov với người đàn bà Ba Lan này; khi viên
sĩ quan đã ra về, chàng trách Roxtov quá nóng nảy, thì Roxtov đáp:
- Anh nói thế nào cũng được… Tôi xem người ấy như chị ruột và tôi không
thể nào nói cho anh rõ tôi tức giận đến chừng nào… Bởi vì… vì…
Denixov vỗ mạnh lên vai Roxtov và bắt đầu đi đi lại lại rất nhanh trong
phòng, không nhìn Roxtov, như chàng vẫn thường làm những khi xúc động.
- Dòng họ Roxtov nhà cậu thật là gàn - chàng nói, và Roxtov nhận thấy mắt Denixov rưng rưng.

Chú thích:
(1) Một thứ hào có lợp mái
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 EmptySat Dec 25, 2010 7:41 pm

Phần V

Chương - 15 -




Sang tháng Tư, quân sĩ phấn khới nghe tin hoàng đế đến thăm.
Roxtov không được dự lễ hoàng đế duyệt binh ở Bartenstain vì lính phiêu
kỵ Pavlograd bây giờ đang ở tiền tiêu, cách Barlenstain rất xa.
Họ đang đóng doanh trại tạm trú. Denixov và Roxtov sống trong một túp lều đất do binh sĩ đào lên, phủ bằng cành cây và cỏ.
Lều đất dựng lên theo một cách thức rất thịnh hành thời bấy giờ. Người
ta đào một cái hào rộng một thước, sâu một thước rười và dài hai thước
rưỡi. Ở một đầu người ta đào những bậc thềm làm chỗ ra vào lên xuống.
Cái hào là phòng, và trong phòng những người may mắn nhất như phóng
viên đại đội trưởng thì có một tấm ván đặt trên mấy cái cọc ở phía
trong cùng, dùng làm bàn. Ở hai bên hầm moi đất sâu vào độ một ác-xin,
và những chỗ lõm ấy được dùng làm giường và làm đi văng. Cái mái cho
phép người ta đứng ở giữa nhà và có thể ngồi trên giường ở chỗ gần bàn.
Denixov sống rất sang trọng bởi vì binh sĩ trong tiểu đoàn yêu quý
chàng; trên mui nhà hầm của chàng có đặt một tấm ván và trên tấm ván
này lại có một miếng kính vỡ nhưng đã được dán lại. Khi nào trời lạnh
quá thì người ta đặt lên các bậc thềm (Denixov gọi phần này của gian
hầm và khoảng cách) một miếng tôn uốn cong dầy những cục than hồng lấy
ở những nơi binh sĩ đốt lửa, và lúc bấy giờ gian hầm ấm đến nỗi các sĩ
quan (bao giờ cũng có nhiều sĩ quan ở nhà của Denixov và Roxtov) chỉ
mặc sơ mi.
Vào tháng Tư, Roxtov phải trực nhật. Một hôm nào vào khoảng tám giờ
sáng chàng trở về lều sau một đêm không ngủ, sai đem than đỏ đến, thay
bộ quân phục đã ướt sũng nước mưa.
Chàng cầu nguyện, uống nước chè, sưởi cho ấm, xếp dọn đồ đạc trong góc
của mình và ở trên bàn, rồi mặt nóng bừng vì vừa đi giữa gió, chàng mặc
áo sơ mi nằm ngửa trên giường, đầu gối lên hai tay. Chàng sung sướng
nghĩ rằng mình sẽ được thăng chức nhân chuyến đi trinh sát vừa rồi, và
đang sốt ruột chờ đợi Denixov về. Vì lúc bấy giờ Denixov đi đâu vắng.
Roxtov muốn nói chuyện với anh ta một lát.
Chợt phía sau lều nghe có tiếng Denixov quát tháo ầm ầm, giọng rất giữ.
Roxtov nhỏm dậy ghé mắt ra cửa sổ xem Denixov đang to tiếng với ai thì
trông thấy viên tào trưởng Topseyenko.
- Tôi đã ra lệnh cho anh là không được để cho họ ngốn cái rễ Mask ấy
kia mà, - Denixov quát - Thế mà chính mắt tôi vừa thấy Lazartsuk lôi
thứ của nợ ấy ở ngoài đồng về?
- Thưa ngài, tôi đã ra lệnh nhưng họ không chịu nghe, - viên tào trưởng nói.
Roxtov lại nằm xuống giường và đắc chí nghĩ thầm: "Bây giờ cứ mặc kệ
anh ấy lo, mình đã làm xong công việc của mình rồi, mình cứ việc nằm,
khoái thật".
Bên kia tường, ngoài tiếng nói của viên tào trưởng nghe thêm tiếng nói
của Lavrutska anh cần vụ láu lỉnh, tinh ma của Denixov. Anh ta đang nói
gì về những đoàn vận tải, những lương khô và những con bò mà anh ta vừa
trông thấy trong nhà khi đi tìm lương thực.
Từ phía sau lều lại nghe tiếng quát xa dần của Denixov: "Trung đội hai! Đóng yên cương!".
Roxtov tự hỏi: "Họ chuẩn bị đi đâu thế nhỉ?"
Năm phút sau Denixov bước vào nhà hầm, để cả đôi ủng lấm bùn leo lên
giường rít tẩu thuốc một cách giận dữ, xáo tung đồ đạc lên, với lấy roi
ngựa, xách kiếm và chực ra khỏi lều. Khi Roxtov hỏi: "Anh đi đâu đấy"
thì chàng càu nhàu trả lời bâng quơ là đi có việc Thượng đế và hoàng đế
cứ xét xử tội!
Denixov nói đoạn bước ra ngoài. Rồi Roxtov nghe phía sau nhà có tiếng
chân mấy con ngựa dẫm trên bùn. Roxtov chẳng hề tự hỏi xem Denixov đi
đâu.
Nằm ấm áp ở trong góc của mình, chàng ngủ một mạch, và đến chiều mới ra
khỏi lều. Denixov vẫn chưa thấy về. Chiều hôm ấy rất đẹp trời, gần cái
lều đất bên cạnh, hai sĩ quan và một chuẩn uý đang chơi Xvaika vừa reo
cười vừa cắm những cái cọc xuống lớp bùn mềm. Roxtov nhập bọn. Đang
chơi dở chừng họ bỗng trông thấy mấy chiếc xe vận tải đang tiến lại gần.
Khoảng chừng mười lăm người lính phiêu kỵ cưỡi những con ngựa gầy gò đi
theo. Đoàn xe bị đội phiêu kỵ áp giải đến gần các cọc gỗ buộc ngựa, và
một đám đông lính phiêu kỵ xúm xít vây quanh họ.
- Xem kìa - Roxtov nói. - Denixov cứ phải lo lắng mãi. Lương thực đã đến đây kia.
- Đúng rồi! - Các sĩ quan nói - chuyến này thì binh sĩ khoái lắm đấy!
Denixov cưỡi ngựa đi sau toán lính phiêu kỵ một quãng cùng với hai sĩ
quan bộ binh, và đang nói chuyện gì với họ. Roxtov ra đón bạn.
- Tôi báo trước cho ông biết, ông đại uý ạ… - Một viên sĩ quan người nhỏ nhắn và gầy gò nói, vẻ căm giận.
- Đã bảo là không trả. - Denixov đáp.
- Ông phải chịu trách nhiệm đấy ông đại đội trưởng kỵ binh ạ! Như thế
là manh động! Ai lại đi cướp xe vận tải của quân đội bao giờ! Quân lính
chúng tôi không ăn gì đã hai ngày nay.
- Còn quân chúng tôi thì đã hai tuần nay - Denixov nói.
- Như thế là ăn cướp! Thưa ngài, rồi ngài sẽ phải chịu trách nhiệm về việc này! - Viên sĩ quan bộ binh to tiếng nhắc lại.
- Này, sao cứ quấy rầy người ta mãi thế? - Denixov đột nhiên nổi giận
quát lên. - Kẻ chịu trách nhiệm là tôi, chứ không phải anh, muốn tốt
đừng có lải nhải mãi nữa. Đi đi! - Chàng thét vào mặt mấy viên sĩ quan.
- Được lắm! - Viên sĩ quan nhỏ nhắn đáp: hắn vẫn đứng nguyên, không có vẻ gì sợ hãi, - làm như thế là ăn cướp, rồi tôi cho anh…
- Xéo đi xéo nhanh đi, trong khi hãy còn lành lặn! - Rồi Denixov quay ngựa về phía viên sĩ quan.
- Được lắm được lắm - vièn sĩ quan hăm doạ rồi quay ngựa phóng nước kiệu đi, người lắc lư trên yên.
- Chó ngồi bờ rào, hệt chó ngồi bờ rào! - Denixov nói với theo; đó là
lời chế nhạo khinh bỉ nhất của một kỵ binh đối với một bộ binh cưỡi
ngựa. Đoạn chàng đến cạnh Roxtov và cười phá lên.
- Mình đã tước của bộ binh, mình đã dùng võ lực cướp của đoàn vận tải - Chàng nói - chả nhẽ để cho quân mình chết đói sao?
Đoàn xe vận tải vừa rồi là giành cho một trung đoàn bộ binh, nhưng được
Lavrutska báo tin rằng đoàn này đi một mình không được yểm hộ. Denixov
và lính phiêu kỵ liền dùng võ lực cướp lấy.
Người ta phát lương khô cho lính ăn tha hồ, thậm chí còn chia bớt cho các đại biểu đoàn binh khác nữa.
Hôm sau viên trung đoàn trưởng gọi Denixov lên gặp. Ông ta xòe bàn tay
ra che mắt(1) và nói với chàng: "Tôi nhìn việc vừa rồi như thế đấy; tôi
không biết gì và không can thiệp, nhưng tôi khuyên anh đến bộ tư lệnh
giải quyết việc này với phòng quân lương và nếu có thể thì ký một tờ
giấy nói rằng anh đã nhận bao nhiêu lương thực (chỗ lương thực này có
ghi vào sổ yêu cầu của trung đoàn bộ binh); Nếu không việc này sẽ thành
to chuyện và có thể đưa đến những hậu quả rất tai hại".
Denixov từ giã trung đoàn trưởng và đi thẳng đến bộ tư lệnh, thực tâm
muốn làm theo lời khuyên của ông ta. Đến chiều chàng trở về lều.
Chưa bao giờ Roxtov thấy chàng như vậy: Denixov thở hổn hển nói không
nên lời. Khi Roxtov hỏi chàng có việc gì thì chàng cất cái giọng khản
đặc phều phào tuôn ra một tràng toàn những lời chửi bới và hăm doạ
không tài nào hiểu nổi.
Sợ hãi trước tình trạng của Denixov, Roxtov bảo chàng cởi áo quần, cho chàng uống nước và sai người đi mời thầy thuốc.
- Họ khép mình vào tội ăn cướp. Ô! Cho mình tý nước nữa!… Muốn xét xử
gì thì xét xử, tao cũng nện cho cái bọn chó má ấy!… Rồi tao sẽ nói với
cả hoàng thượng nữa, cho mình tý nước đã? - chàng nói.
Viên y sĩ của trung đoàn đến, ông ta bảo cần phải trích máu cho chàng.
Người ta lấy ở cánh tay lông lá của Denixov ra một đĩa máu đen ngòm và
bấy giờ Denixov mới kể lại được tất cả những điều đã xảy ra.
- Tôi đến, - Denixov - "Xem nào, ở đây ai là thủ trưởng của các anh?"
Người ta chỉ cho tôi. "Ông làm ơn đợi một lát" - "Tôi có việc cần. Tôi
đi ba mươi dặm đến đây, tôi không có thì giờ đợi, vào báo cáo ngay cho
tôi". Thế rồi cái thằng ăn cướp thượng hạng ấy cũng muốn lên mặt dạy
tôi. "Như thế là ăn cướp!" - Tôi nói: "Người ăn cướp không phải là
người lấy lương thực để nuôi binh sĩ của mình mà là người lấy lương
thực để nhét vào túi!" - "Hay lắm" - hắn nói. "Ông hãy đến ký giấy biên
lại ở phòng ông phụ trách quân lương và việc của ông sẽ được đưa lên
cấp trên". Tôi đến gặp thằng cha phụ trách quân lương. Tôi bước vào. Có
biết ai ngồi ở phòng không? Cậu thử đoán xem, có đứa nào bắt chúng ta
nhịn đói không - Denixov thét lên, giơ bàn tay bị thương đấm lên mặt
bàn đến nỗi cái bàn xuýt lăn kềnh ra và cốc chén cứ nhảy lổng chổng, -
thằng Telyanin "A, ra cái thằng bắt chúng tao chết đói chính là mày
phải không?" Thế là tôi tống luôn mấy quả vào giữa mồm hắn, khoái thật!
Tôi trút lên đầu hắn một tràng câu chửi và bắt đầu nện cho hắn một trận
nên thân. Thật hả quá - Denixov quát lên, vẻ hả hê và hung ác, nhe hàm
răng trắng dưới bộ râu mép đen nhánh. - Người ta không giằng nó ra khỏi
tay tôi thì tôi đã đánh cho nó chết tươi rồi!
- Nhưng anh đừng có thét lên như thế chứ! Bình tĩnh lại tý nào! - Roxtov nói. Đấy, máu lại chảy ra rồi! Yên nào, phải băng lại.
Người ta băng bó lại cho Denixov và đặt chàng nằm ngủ. Sáng hôm sau chàng thức dậy, vui vẻ và bình tĩnh.
Nhưng đến giữa trưa thì viên sĩ quan phụ tá của trung đoàn vẻ mặt buồn
rầu và nghiêm nghị, bước vào căn nhà hầm chung của Denixov và Roxtov và
tỏ ý rất tiếc phải đưa cho thiếu tá Denixov một công văn của viên trung
đoàn trướng chất vấn chàng việc đã xảy ra hôm qua. Viên sĩ quan phụ tá
bảo cho chàng biết rằng việc này có thể có những hậu quả tai hại, một
tiểu ban quân pháp đã được cử ra để xét việc này, và trong tình hình
hiện nay người ta rất nghiêm khắc đối với những hành động ăn cướp và vô
kỷ luật trong quân đội, cho nên ít nhất Denixov cũng bì giáng chức.
Theo như lời khiếu nại của bên nguyên thì sau khi đã cướp đoàn xe vận
tải, thiếu tá Denixov say rượu đến gặp viên phụ trách quân lương, và
mặc dầu không hề bị khiêu khích, đã gọi ông ta là đồ ăn cắp doạ đánh
ông ta và khi bị lôi ra ngoài thì lại xông vào cơ quan đánh hai viên
chức làm một trong hai người sái cả xương tay.
Khi Roxtov hỏi thêm thì Denixov cười phá lên, nói rằng quả thật hình
như có một thằng cha nào khác ngẫu nhiên ăn đòn của chàng, nhưng việc
đó chẳng có gì quan trọng, toàn là những chuyện vớ vẩn, rằng chàng
chẳng sợ toà án nào hết và nếu cái bọn khốn kiếp còn dám gây sự với
chàng thì chàng sẽ trị cho chúng một mẻ nhớ suốt đời.
Denixov nói đến tất cả những sự việc này với một giọng khinh thường,
nhưng Roxtov biết chàng quá rõ nên không thể không nhận thấy rằng tuy
chàng cố giấu, trong thâm tâm chàng vẫn sợ toà án và rất khổ tâm về
việc này, mà chắc thế nào cũng có những hậu quả tai hại. Ngày nào cũng
có những tờ trát gửi đến chất vấn Denixov hoặc đòi chàng đến toà án xét
hỏi, và ngày mồng một tháng năm có lệnh bắt Denixov phải giao kỵ đội
của mình lại cho người sĩ quan cao cấp nhất còn lại trong đơn vị chỉ
huy, và phải đến trình diện ở bộ tư lệnh sư đoàn để trình bày về việc
đã đến hành hung ở ban quân lương. Trước đấy một hôm, Platov đem hai
trung đoàn cô-dắc và hai tiểu đoàn kỵ binh đi trinh sát địch tình. Cũng
như mọi ngày, Denixov hiên ngang xông lên trước. Một viên đạn của lính
xạ kích Pháp bắn trúng vào bắp đùi chàng. Vào những lúc khác chắc
Denixov không đời nào chịu rời khỏi trng đoàn vì một vết thương nhẹ như
vậy, nhưng bây giờ chàng nhân dịp này không chịu lên trình diện và đi
luôn vào bệnh viện.

Chú thích:
(1) Trong tiếng Nga: "nhìn qua mấy ngón tay" nghĩa là làm ngơ.
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 EmptySat Dec 25, 2010 7:41 pm

Phần V

Chương - 16 -



Đến tháng sáu diễn ra trận Frilland, nhưng lính phiêu kỵ Pavlograd không dự trận này, và sau đó có lệnh đình chiến.
Roxtov rất buồn vì vắng bạn, và từ ngày Denixov ra đi, chàng chẳng có
tin tức gì về anh ta, nên lại thêm lo lắng về vụ án và vết thương của
bạn, vì vậy nhân dịp đình chiến Roxtov liền xin vào bệnh viện thăm
Denixov.
Bệnh viện ở trong một thị trấn nhỏ của Phổ đã hai lần bị quân đội Nga
và quân đội Pháp tàn phá. Bấy giờ là vào mùa hè trong khi ở thôn quê
trời đẹp như vậy, thì cái thị trấn nhỏ này với những mái nhà đổ nát,
những hàng rào xiêu vẹo, những con đường đầy rác rưởi, những người dân
áo quần rách rưới, những người lính say rượu và đau ốm đi lang thang
trên đường càng làm thành một cảnh tượng đặc biệt ảm đạm.
Một ngôi nhà bằng đá, cửa sổ và kính một phần đã bị phá vỡ với một cái
sân chung quanh chỉ còn lại những mảnh hàng rào đổ nát, được dùng làm
nhà thương. Một vài binh sĩ xanh xao, bủng beo, người quấn đầy băng
đang đi dạo hay ngồi sưởi nắng ngoài sân.
Roxtov vừa bước qua ngưỡng cửa thì mùi thịt thối và mùi nhà thương đã
bao trùm lấy chàng. Ở cầu thang gác, chàng gặp một bác sĩ quân y Nga
miệng ngậm xì gà. Một người y tá theo sau ông ta.
- Thì tôi cũng không thể xẻ mình thành làm đôi được kia mà - bác sĩ nói
- Chiều nay anh đến nhà ông Alekxeyevich tôi sẽ ở đấy, - Người y tá còn
hỏi ông ta một câu gì nữa. - Thôi! Anh cứ liệu mà làm. Chung quy cũng
thế cả thôi.
Bác sĩ chợt trông thấy Roxtov đang bước lên cầu thang, liền hỏi chàng:
- Thưa đại nhân, ngài muốn gì ạ? Ngài đến đây có việc gì ạ? Hay là
không có viên đạn nào đoái hoài đến ngài, cho nên ngài muốn kiếm tý
bệnh thương hài? Thưa ngài đấy quả là một nhà hủi.
- Tại sao thế? - Roxtov hỏi.
- Có bệnh thương hàn ông bạn ạ. Ai bước vào đây thì chỉ có chết. Ở đây
chỉ còn sót lại hai người, tôi và Makeyev (ông ta chỉ người y tá).
Trong số bạn đồng nghiệp chúng tôi đã có năm người chết rồi. Có người
nào mới đến thì chỉ sau một tuần lễ là đi đứt - bác sĩ nói, vẻ đắc ý rõ
rệt. Người ta có yêu cầu cho y sĩ Phổ đến, nhưng mấy ông bạn đồng minh
quý hoá của chúng ta không thích cái trò này.
Roxtov nói cho ông ta biết rằng chàng muốn gặp thiếu tá phiêu kỵ Denixov hiện nằm điều trị ở đây.
- Tôi không biết, ông bạn ạ. Ông thử nghĩ xem một mình tôi quản đốc ba
bệnh viện, hơn bốn trăm bệnh nhân. Cũng may phúc là các phu nhân người
Phổ có lòng từ thiện gửi cho chúng tôi cà phê và vải băng mỗi tháng hai
bảng, nếu không thì chúng tôi đã bỏ mẹ cả rồi - Ông ta cười khà khà. -
Bốn trăm bệnh nhân ông ạ, thế mà hôm nào họ cũng gửi thêm mấy người
nữa, - rồi ông ta hỏi người y tá: Bốn trăm người phải không nào? Hả?
Người y tá có vẻ mệt lử, hình như anh đang bực bội chờ mong bác sĩ đi nhanh cho, nhưng bác sĩ thì lại nói dai.
- Thiếu tá Denixov - Roxtov nhắc lại - Ông ta bị thương ở Moliten.
- Hình như ông ta chết rồi thì phải, Makeyev nhỉ? - Bác sĩ hỏi người y
tá, giọng lơ đãng. Nhưng người y tá không xác nhận điều bác sĩ vừa nói.
- Ông ta người thế nào, có phải người cao tóc hoe không? - bác sĩ hỏi.
Roxtov miêu tả diện mạo của Denixov.
- Có có trước đây có một người như thế. - Bác sĩ nói, giọng nghe như vẻ
mừng rỡ - Nhưng hình như anh ta chết thật rồi; nhưng để tôi xem, tôi có
danh sách. Anh có cầm danh sách đây không, anh Mekeyev?
- Danh sách ở nơi anh Makar Alekxeyevich - người y tá đáp. - Nhưng ông
cứ vào phòng các sĩ quan thì sẽ gặp thôi - anh ta nói thêm với Roxtov.
- Thôi ông đừng vào là hơn! Ông bạn ạ - Bác sĩ nói - Ông mà vào thì tôi e ông sẽ nằm lại đây mất.
Nhưng Roxtov từ giã viên bác sĩ và yêu cầu người y tá đưa chàng đi.
- Nhưng đừng có trách tôi đấy nhé. - Bác sĩ đứng dưới chân cầu thang nói vọng lên.
Roxtov và người y tá bước vào hành lang. Mùi nhà thương ở trong dãy
hành lang tối om này nồng nặc lên đến nỗi Roxtov phải bịt mũi và phải
dừng lại lấy sức trước khi tiếp tục đi. Một cánh cửa mở ra ở bên tay
phải và một người gầy gò vàng võ đi chân không, chỉ mặc đồ lót, chống
nạng đi ra. Anh ta tựa vào khung cửa nhìn hai người mới đến với cặp mắt
sáng long lanh và dầy vẻ ganh tị.
Roxtov nhìn vào phòng: thương binh và bệnh binh nằm ta liệt trên những ổ rơm và trên những chiếc áo khoác trải giữa nền nhà.
- Vào xem có được không? - Roxtov hỏi.
- Có gì đây mà xem - Người y tá nói.
Nhưng chính vì người y tá không muốn cho chàng vào nên Roxtov cứ bước
vào phòng bệnh của binh sĩ. Cái mùi trong dãy hành lang mà chàng đã bắt
đầu quen, ở đây còn nồng nặc hơn nữa. Ở đây nó có khác một chút gay gắt
hơn, và có thể thấy rõ rằng nó xuất phát chính từ chỗ này.
Trong gian phòng dài được ánh mặt trời chiếu sáng rực qua những khung
cửa sổ lớn, bệnh binh và thương binh nằm xếp thành hai dãy, đầu quay
vào tường để một lối đi giữa. Phần lớn nằm mê man không để ý gì đến hai
người mới vào. Những người còn tỉnh đều nhỏm dậy hay ngẩng khuôn mặt
gầy gò và vàng võ lên, và mới một vẻ hy vọng được cứu giúp pha lẫn với
vẻ trách móc và ghen tị khi thấy người khác khoẻ mạnh, họ nhìn đăm đăm
vào Roxtov, Roxtov tiến vào giữa phòng, liếc mắt nhìn sang phòng bên
qua những khung cửa mở và cả hai bên chàng đều thấy một cành tượng như
nhau. Chàng dừng lại, im lặng đưa mắt nhìn quanh. Chàng không ngờ có
thể trông thấy một cảnh tượng như vậy: trước mắt chàng là một người
bệnh, chắc là một người cô-dắc (vì tóc anh ta cắt thành vòng quanh đầu)
đang nằm trên nền nhà gần như chắn ngang lối đi. Anh ta nằm ngửa, tay
chân to tướng giang rộng ra. Mặt anh ta đỏ bầm, mắt trợn ngược chỉ thấy
có lòng trắng, trên tay và trên cặp chân để trần, cũng đỏ bầm như khuôn
mặt, mạch máu nổi lên như những sợi dây chão. Anh ta nện gáy xuống đất
và cất giọng khàn khàn nhắc đi nhắc lại. Tiếng ấy là: "nước", "cho tôi
xin tí nước!". Roxtov đưa mắt nhìn quanh mong tìm một người nào có thể
vực người bệnh về chỗ cũ nằm và cho anh ta uống nước.
- Ai săn sóc bệnh nhân ở đây? - chàng hỏi người y tá.
Vừa lúc ấy một người lính quân nhu làm nhiệm vụ hộ lý từ phòng bên nện gót chân bước vào và đứng nghiêm chào Roxtov.
Hắn mở to mắt nhìn Roxtov nói:
- Kính chào đại nhân. - Chắc hẳn hắn ta tưởng chàng là một sĩ quan trong ban Giám đốc bệnh viện.
- Anh đỡ người này về chỗ cũ, cho người ta uống nước, - Roxtov chỉ người cô-dắc nói.
- Xin tuân lệnh! - Người lính vui vẻ đáp, mắt còn mở to hơn và người còn rướn thẳng hơn trước nhưng vẫn không rời khỏi chỗ.
"Quả thật ở đây chẳng còn biết làm thế nào nữa" - Roxtov nghĩ thầm.
Chàng cúi mặt xuống và đã toan bước ra, thì đột nhiên chàng cảm thấy ở
bên tay phải có ai đang chăm chú nhìn mình.
Chàng quay về phía ấy. Ở gần góc phòng, một người lính già, nước da
vàng võ, gầy gò như bộ xương, vẻ mặt khắc khổ, bộ râu lốm đốm bạc đã
lâu ngày không cạo, đang ngồi trên chiếc áo khoác, chăm chú nhìn
Roxtov. Một người nằm cạnh ông ta vừa nói một câu gì với ông ta vừa chỉ
vào Roxtov. Chàng hiểu ý rằng ông già kia muốn xin chàng điều gì. Chàng
lại gần và thấy ông già chỉ có một chân co lại còn cái chân kia thì đã
bị cưa cụt đến quá đầu gối. Một người khác ở bên cạnh cách ông ta khác
xa đang nằm dài im lìm đầu hất ra phía sau, mắt trợn ngược. Đó là một
người lính trẻ tuổi, mũi hếch, mặt tái nhạt màu sáp ong lốm đốm tàn
hương: Roxtov nhìn người lính có cái mũi hếch và thấy lạnh buốt cả sống
lưng:
- Nhưng mà… hình như người này… - chàng nói với người y tá.
- Thưa ngài chúng tôi đã yêu cầu mãi - người lính già nói, hàm dưới run
run. - Anh ta chết từ hồi sáng. Dẫu sao chúng tôi cũng là người, chứ có
phải là chó đâu…
- Tôi sẽ cho người đến ngay, sẽ đem đi, sẽ đem đi ngay - người y tá vội vã - Thưa ngài, xin ngài đi cho.
- Ta đi đi, ta đi đi - Roxtov nói vội vã, rồi mắt nhìn xuống đất, cố
thu mình lại cho nhỏ bớt, chàng ra khỏi phòng, cố lẻn qua những luồng
mắt đầy trách móc và ghen tị đang x** xói vào chàng.









Phần V

Chương - 17 -




Đi qua hành lang, người y tá đưa Roxtov vào khu vực sĩ quan, gồm
ba gian phòng, các cửa đều mở rộng. Trong các phòng này có đặt giường;
các sĩ quan bị thương và bị bệnh nằm hay ngồi trên những cái giường ấy.
Một vài người mặc áo thụng của bệnh nhân đi đi lại lại trong phòng.
Người thứ nhất Roxtov gặp trong khu sĩ quan là một người thấp bé gầy
gò, cụt tay, đội mũ chụp và mặc áo thụng của bệnh viện, miệng ngậm tẩu
thuốc, anh đi đi lại lại trong gian phòng thứ nhất. Roxtov chăm chú
nhìn anh ta, cố sức nhớ lại xem mình đã gặp anh ta ở đâu.
- Trời ơi, chúng mình lại gặp nhau ở đây à? - người sĩ quan thấp bé
nói. - Tôi là Tusin, Tusin đây mà, anh có nhớ không! Tôi đã chở anh
trên giá súng ở Songraben đây mà. Còn tôi thì đã bị người ta chặt mất
một khúc… anh xem đây… - anh ta mỉm cười chỉ ống tay áo thụng lép kẹp.
Khi đã biết Roxtov muốn tìm ai, Tusin nói - Anh tìm Vaxili Dmitrievich
Denixov phải không? Chúng tôi là bạn cùng phòng đấy! Anh ấy ở đây, ở
đây. - Rồi Tusin đưa chàng sang phòng bên, từ trong phòng vang ra tiếng
ha hả của mấy người cùng cười một lúc.
"Ở đây sống còn chẳng được, thế mà họ lại cười được nữa thì lạ thật" -
Roxtov nghĩ thầm: mũi vẫn còn ngửi thấy cái mùi xác chết trong phòng
của binh sĩ và vẫn còn mường tượng thấy quanh mình hai dãy mắt ganh tị
từ bốn phía x** xói vào mình và khuôn mặt của người lính trẻ tuổi kia
với cặp mắt trợn ngược.
Denixov đang ngủ trên giường, đầu chùm kín trong chăn, mặc dầu bấy giờ đã hơn mười giờ trưa.
- A, Roxtov đấy à, chào cậu, chào cậu! - Denixov reo lên, cũng vẫn cái
giọng thường ngày của chàng khi còn ở trung đoàn. Nhưng Roxtov buồn bã
nhận thấy rằng trong cái vẻ xuề xoà và phấn chấn thường ngày kia có một
cái gì mới, một cái gì chua chát, âm thầm, lộ ra trên vẻ mặt, trong
giọng nói và trong những lời lẽ cuả Denixov.
Vết thương của chàng tuy rất nhẹ nhưng đến nay vẫn chưa khỏi, mặc dầu
chàng bị thương đã được sáu tuần lễ. Mặt chàng cũng xanh xao và bủng
beo như mặt tất cả những người ở trong bệnh viện, nhưng điều đó không
làm cho Roxtov ngạc nhiên. Điều làm cho chàng ngạc nhiên là Denixov
không có vẻ vui mừng khi thấy chàng vào và mỉm cười với chàng một cách
gượng gạo. Denixov không hỏi thăm chàng về trung đoàn, cũng không hỏi
về tình hình chung của chiến sự. Khi Roxtov nói về những chuyện đó thì
Denixov không nghe. Thậm chí Roxtov còn nhận thấy Denixov lộ vẻ khó
chịu khi chàng nhắc đến trung đoàn, và nói chung nhắc đến cuộc sống
khác, cuộc sống tự do ở bên ngoài bệnh viện. Hình như Denixov cố gắng
quên cuộc sống trước kia và chỉ để tâm đến việc đã xảy ra giữa mình và
bọn nhân viên quân lương. Khi Roxtov hỏi xem việc ấy nay đã đến đâu
rồi, thì Denixov lập tức lấy ở dưới gối ra một tờ công văn do tiểu ban
đưa đến và bức thư trả lời của chàng vừa viết nháp. Chàng hăng lên, bắt
đầu đọc bức thư trả lời và đặc biệt nhắc Roxtov lưu ý đến những chỗ
chàng châm chọc kẻ thù ở trong thư.
Những người bạn cùng bệnh viện của Denixov lúc đầu xúm xít quanh Roxtov
vì chàng là một người ở thế giới tự do bên ngoài mới đến, nhưng rồi lại
dần dần lảng ra khi Denixov bắt đầu đọc bức thư của mình. Nhìn mặt họ.
Roxtov hiểu rằng ai nấy đều đã nghe câu chuyện này nhiều lần đến nỗi
bây giờ họ đã phát ngấy ra rồi. Chỉ còn lại người ở trên giường bên
cạnh, một chàng U-lan(1) mập mạp ngồi trên giường vẻ mặt lầm lì cau có,
hút tẩu thuốc, và anh chàng Tusin nhỏ nhắn cụt tay đang tiếp tục nghe
và lăc đầu tỏ ý không tán thành. Denixov đang đọc thì người U-lan ngắt
lời:
- Theo ý tôi, - anh ta nói với Roxtov - Chỉ cần trực tiếp xin hoàng
thượng ân xá. Nghe nói bây giờ sắp có nhiều cuộc khen thưởng, nếu xin
chắc sẽ được ân xá…
- Tôi mà lại đi xin hoàng đế ân xá à - Denixov nói, có thể thấy rõ rằng
chàng muốn làm cho cái giọng nói của mình rắn rỏi và hăng hái như ngày
trước, nhưng lúc này giọng nói của chàng chỉ để lộ một tâm trạng cáu
kỉnh vô ích. - Để làm gì kia chứ? Nếu tôi là một thằng kẻ cướp thì tôi
sẽ xin ân xá, nhưng đằng này người ta lại xử án tôi chính vì tôi đã
vạch mặt bọn kẻ cướp. Họ muốn xử thế nào thì ử tôi **** sợ thằng nào.
Tôi đã trung thành phục vụ Sa hoàng và tổ quốc tôi không sợ ăn cắp!… Cứ
giáng chức tôi đi, cứ… Này cậu, cậu thử nghe nhé… Tôi nói thẳng ra với
họ… tôi viết thư như thế này đây: "Nếu tôi là một thằng ăn cắp của
công…".
- Viết thế hay đấy, chả phải nói nữa - Tusin nói. Nhưng vấn đề không
phải ở đấy anh Vaxili Dmitrievich - anh ta đồng thời nói với Roxtov -
Bây giờ phải khuất phục thôi, mà Vaxili Dmitrievich thì lại không muốn.
Viên phán quan đã nói với anh rằng việc này rất gay go.
- Tớ **** cần! - Denixov nói.
- Viên phán quan đã viết hộ anh một lá đơn thỉnh cầu - Tusin nói tiếp - Bây giờ anh nên ký vào đấy, rồi nhờ anh này đưa lên.
Anh này (Tusin chỉ Roxtov) thế nào chả có người quen ở Bộ tư lệnh. Anh không có dịp nào tốt hơn nữa đâu!
- Tôi đã bào là tôi không luồn cúi xin xỏ được! - Denixov ngắt lời Tusin và lại tiếp tục đọc tờ giấy.
Roxtov không dám tìm cách thuyết phục Denixov, mặc dầu tự bản năng
chàng cảm thấy rằng con đường mà Tusin và các sĩ quan khác vạch ra là
đúng đắn nhất và mặc dầu chàng sẽ rất sung sướng nếu được giúp đỡ
Denixov. Chàng vốn biết tính gan lỳ và cương trực cuả bạn.
Sau khi Denixov đã đọc xong những bức thư đầy những lời lẽ châm chọc
kéo dài hơn một giờ, Roxtov không nói gì, và với một tâm trạng hết sức
buồn bực, chiều hôm ấy còn lại bao nhiêu thì giờ chàng ngồi nói chuyện
với những người bạn cùng bệnh viện của Denixov. Những người này tụ họp
xung quanh chàng, chàng kể lại những điều mình biết, và nghe những
người khác kể chuyện. Suốt buổi chiều hôm ấy Denixov vẫn cứ ngồi yên
lặng lầm lỳ.
Đến tối, Roxtov sửa soạn ra đi và hỏi Denixov xem có uỷ thác cho mình việc gì không.
- Có cậu đợi tôi một lát - Denixov nói, đưa mắt nhìn các sĩ quan rồi
lấy tập giấy của mình ở dưới gối, đến ngồi bên cửa sổ, nơi chàng đặt
bình mực, và bắt đầu viết.
- Thôi, chả lấy trứng mà chọi với đá được - Denixov nói đoạn rời khỏi
cửa sổ và trao cho Roxtov một phong bì lớn. Đây là đơn thỉnh cầu hoàng
đế do viên phán quan viết hộ, trong lá đơn này Denixov không nhắc gì
đến tội lỗi của bọn nhân viên quân lương mà chỉ xin ân xá thôi.
- Cậu đệ trình cái này, hẳn là… - Chàng không nói hết, chỉ mỉm cười đau đớn và gượng gạo.

Chú thích:
(1) U-lan: quân chủng kỵ binh, vũ trang bằng giáo gươm hay súng ngắn.
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 EmptySat Dec 25, 2010 7:42 pm

Phần V

Chương - 18 -



Sau khi trở về trung đoàn báo cáo lại cho trung đoàn trưởng biết
tình hình vụ Denixov hiện ra sao, Roxtov mang bức thư thỉnh cầu hoàng
đế đến Tilzit.
Ngày mười ba tháng sáu, hoàng đế Pháp và hoàng đế Nga gặp nhau ở
Tilzit. Boris Drubeskoy xin nhân vật trọng yếu mà chàng làm thuộc hạ
cho chàng gia nhập đoàn hộ giá được cử đến họp ở đấy.
- Tôi muốn được gặp bậc sĩ nhân, - chàng dùng danh từ này để chỉ
Napoléon, người mà từ trước đến nay, cũng như mọi người, bao giờ chàng
cũng gọi là Buônapáctê.
- Anh muốn nói đến Buônapáctê phải không? - viên tướng mỉm cười nói với chàng.
Boris nhìn viên tướng của mình có ý dò hỏi, và hiểu ngay rằng đó chỉ là một lời bông đùa để thử mình mà thôi. Chàng đáp:
- Thưa công tước, tôi muốn nói đến hoàng đế Napoléon, viên tướng mỉm cười vỗ vai chàng:
- Anh sẽ tiến xa đấy, - và ông ta đem chàng đi theo.
Thế là Boris được thu nạp vào cái số ít người có mặt ở trên sông Neman
trong ngày hai vị hoàng đế hội kiến. Chàng được trông thấy những chiếc
bè mang phù hiệu của hai vị hoàng đế, thấy Napoléon ở bên kia sông đang
duyệt quân cận vệ Pháp, thấy bộ mặt tư lự của hoàng đế Alekxandr khi
ngồi im lặng trong một quán trọ bên bờ sông Neman đợi Napoléon đến.
Chàng trông thấy hai vị hoàng đế bước xuống hai chiếc thuyền riêng,
thấy thuyền của Napoléon đến chỗ bè đậu trước tiên. Napoléon nhanh nhẹn
bước ra đón Alekxandr và giơ tay ra bắt, rồi hai người cùng nhau đi
khuất vào trong trướng. Từ khi lọt được vào các giới cao cấp, Boris đã
có thói quen quan sát cẩn thận và ghi nhớ tất cả những điều gì xảy ra
quanh mình. Trong cuộc hội kiến ở Tilzit, chàng tìm cách biết tên những
người đi theo Napoléon hỏi han về những y phục họ mặc, và chú ý lắng
nghe xem các nhân vật quan trọng nói gì. Ngay khi hai vị hoàng đế bước
vào trong trường, chàng lấy đồng hồ ra xem và không quên xem lại lần
nữa khi Alekxandr từ trong trướng bước ra. Cuộc hội kiến kéo dài một
giờ năm mươi ba phút. Ngay chiều hôm ấy, chàng đã ghi chép sự kiện vừa
rồi cùng với những sự kiện khác mà chàng cho là có ý nghĩa lịch sử. Vì
đoàn hộ giá rất ít người cho nên việc có mặt ở Tilzit có một tầm quan
trọng rất lớn đối với một kẻ muốn thành công trên bước đường công danh.
Một khi đã được dự vào đoàn hộ giá này, Boris cảm thấy từ nay địa vị
của mình đã hoàn toàn vững chắc. Bây giờ không những người ta biết
chàng, mà vì cứ trông thấy chàng luôn cho nên người ta còn đâm ra quen
chàng nữa. Đã hai lần chàng được giao nhiệm vụ đến gặp hoàng đế, nên
hoàng đế bây giờ đã biết mặt chàng, và các chiêu thần không những không
tránh mặt chàng như trước kia khi họ còn cho chàng là một người mới
đến, mà nếu không thấy chàng họ sẽ còn ngạc nhiên nữa là khác.
Boris ở chung nhà với một sĩ quan phụ tá khác: bá tước Zilinxki.
Zilinxki là một người Ba Lan giàu có được ăn học ở Paris, rất mê người
Pháp, và trong thời gian họp ở Tilzt hầu như ngày nào bọn sĩ quan Pháp
ở trong đội cận vệ và trong bộ tổng tham mưu cũng đến ăn trưa hay ăn
sáng ở nhà Zilinxki và Boris.
Chiều ngày hai mươi bốn tháng Sáu, bá tước Zilinxki, người cùng ở một
nhà với Boris, tổ chức một bữa ăn tối để thiết đãi những người Pháp
quen biết ông ta. Thượng khách bữa tiệc này là một viên quan phụ tá của
Napoléon, ngoài ra có mấy viên sĩ quan cận vệ Pháp và một cậu thiếu
niên thuộc cựu quý tộc Pháp làm thị đồng cho Napoléon. Chính chiều hôm
ấy Roxtov lợi dụng bóng tối để không ai nhận ra mình, mặc thường phục
đến Tilzit tìm chỗ của Zilinxki và Boris.
Sự biến chuyển trong thái độ đối với Napoléon và đối với người Pháp -
những kẻ địch hôm qua nay đã thành bạn, sự biến chuyển đã diễn ra trong
Tổng hành dinh và trong lòng Boris hãy còn xa lắm mới được thực hiện
trong tư tưởng của Roxtov cũng như của toàn thể quân đội mà chàng vừa
rời khỏi để đến đây. Trong quân đội người ta vẫn còn cái cảm giác lẫn
lộn trước đây gồm cả sự căm giận, khinh bỉ đối với Buônapáctê và quân
Pháp. Ngay vừa mới đây thôi, trong khi tranh luận với một sĩ quan
cô-dắc trong quân đoàn Platov, Roxtov có nói rằng nếu Napoléon bị bắt
làm tù binh thì sẽ bị đối xử như một lên tội phạm chứ không phải như
một vị hoàng đế. Cũng vừa mới đây, khi gặp một đại tá Pháp bị thương,
chàng đã hăng hái chứng minh với ông ta rằng không thể nói đến chuyện
hoà ước giữa một vị hoàng đế hợp pháp với một tên tội phạm như
Buônapáctê được. Cho nên Roxtov rất đỗi ngạc nhiên khi thấy ở nhà Boris
có những sĩ quan Pháp trong những bộ quân phục mà chàng đã quen nhìn ở
tiền tiêu trong những hoàn cảnh khác hẳn. Vừa mới thấy một viên sĩ quan
Pháp ló mặt ra cửa là cái cảm giác chiến tranh, thù địch mà chàng bao
giờ cũng cảm thấy khi đứng trước quân địch, bỗng tràn ngập tâm hồn
chàng. Chàng dừng lại ở ngưỡng của và hỏi bằng tiếng Nga xem đây có
phải là nơi của Boris Drubeskoy không. Boris nghe ở phòng áo có giọng
nói là lạ, liền ra gặp chàng. Khi nhận ra Roxtov, nét mặt của Boris
thoạt tiên lộ vẻ khó chịu. Tuy vậy chẳng vẫn tiến về phía Roxtov, mỉm
cười nói:
- À cậu đấy à! Rất mừng, rất mừng được gặp cậu.
Nhưng Roxtov đã nhận thấy cái thái độ ban đầu của Boris.
- Hình như tôi đến không đúng lúc thì phải. Đáng lẽ tôi không đến đây nhưng vì tôi có việc cần. - Chàng nói, giọng lạnh lùng.
- Không, mình chỉ ngạc nhiên tại sao cậu lại rời trung đoàn đến đây?
Lúc bấy giờ trong nhà có tiếng ai gọi Boris. Chàng đáp bằng tiếng Pháp:
- Chỉ một lát nữa thôi tôi sẽ quay lại với các anh ngay!
- Tôi thấy rõ là tôi đến không phải lúc - Roxtov nhắc lại.
Vẻ chịu khó đã biến mất trên gương mặt Boris. Chắc là chàng đã kỉp nghĩ
lại và đã quyết định phải làm gì; Boris nắm hai tay Roxtov một cách rất
điềm nhiên và kéo chàng vào một gian phòng bên cạnh. Boris nhìn thẳng
vào Roxtov một cách bình tĩnh và quả quyết, đôi mắt chàng như bị che
lấp sau một tấm bình phong: tấm bình phong đó chính là cặp kính xanh
của xã giao, - Roxtov cảm thấy như vậy.
- Thôi đi có gì đâu mà không phải lúc?
Boris nói đoạn đưa chàng vào phòng ăn giới thiệu chàng với tân khách,
nói rõ tên họ của chàng và giảng giải rằng chàng không phải là một
người dân sự mà là một sĩ quan phiêu kỵ, vốn là một bạn cũ của mình.
Đoạn Boris giới thiệu các tên khách: bá tước Zilinxki, bá tước N.N.,
đại uý S.S… Roxtov cau mày nhìn các tân khách người Pháp, miễn cưỡng
cúi chào và lặng thinh không nói.
Zilinxki hình như chẳng lấy gì làm vui vẻ khi phải đón tiếp cái anh
chàng người Nga mới đến kia trong nhóm bạn bè của mình, không nên nói
gì với Roxtov cả. Boris có vẻ như không để ý đến tình trạng lúng túng
do người mới đến gây nên trong bữa tiệc và tìm cách làm cho câu chuyện
rôm rả lên, với thái độ bình tĩnh nhã nhặn của mình, và cái nhìn che
kín sau tấm bình phong như khi chàng gặp Roxtov. Một người Pháp, với
thái độ lịch thiệp mà những người đồng bang của hắn vốn có, quay về
phía Roxtov bấy giờ vẫn một mực làm thinh và nói rằng chắc chàng đến
Tilzit là để xem một hoàng đế.
- Không tôi đến có việc - Roxtov đáp gọn.
Roxtov đã thấy bực mình ngay từ khi chàng nhận thấy vẻ khó chịu của
Boris và cũng như thói thường khi người ta đang bực mình, chàng có cảm
giác làm mọi người nhìn mình một cách khó chịu và mình đang làm mọi
người lúng túng. Quả nhiên chàng làm cho mọi người khó chịu, và chỉ có
một mình chàng tách ra ngoài câu chuyện chung mới bắt đầu. Các tân
khách chốc chốc lại đưa mắt về phía chàng như muốn nói: "Hắn ngồi đây
làm cái gì nhỉ?" - Chàng đứng dậy và đến bên cạnh Boris.
- Mình nhìn thấy rõ rằng mình làm phiền cậu - chàng khẽ nói với Boris. Ta đi chỗ khác bàn công việc một chút, rồi mình đi ngay.
- Nào có gì đâu… - Boris nói nhưng nếu cậu mệt thì vào phòng riêng của tôi nằm nghỉ một lát.
- Phải đấy…
Hai người bước vào gian phòng ngủ nhỏ của Boris. Roxtov không ngồi
xuống. Chàng lập tức kể lại cho Boris nghe vụ Denixov một cách bực tức
tưởng chừng như Boris có lỗi gì với chàng, và hỏi Boris có muốn hay có
thể nhờ vị tướng của chàng can thiệp giúp với hoàng đế và nhờ ông ta
đưa hộ bức thư không. Khi chỉ còn hai người với nhau, Roxtov lần đầu
tiên mới nhận thấy rằng mình ngượng nghịu khi phải nhìn thẳng vào mặt
Boris, Boris ngồi vắt chéo chân, lấy bàn tay trái vuốt ve mấy ngón tay
thon thon của bàn tay phải và nghe chàng nói như một viên tướng nghe
thuộc hạ của mình báo cáo, khi thì liếc nhìn sang một bên, khi thì lại
nhìn thẳng vào mặt Roxtov, vẫn với cái nhìn bị che lấp sau một tấm bình
phong như lúc nãy. Cứ mỗi lần như vậy Roxtov lại cảm thấy lúng túng và
cụp mắt xuống.
- Tôi đã nghe nói đến những việc đại loại như vậy và tôi biết rằng
hoàng đế rất nghiêm khắc trong những trường hợp đó. Tôi nghĩ rằng không
nên đệ trình việc này lên hoàng thượng. Theo ý tôi, tốt hơn là xin
thẳng tư lệnh quân đoàn…, nhưng nói chung tôi nghĩ rằng…
- Nếu cậu không muốn giúp thì cậu cứ nói thẳng - Roxtov nói to gần như quát lên, không nhìn vào mắt Boris.
Boris mỉm cười:
- Trái lại, tôi sẽ cố hết sức làm những việc tôi có thể làm, có điều tôi nghĩ rằng…
Vừa lúc đó có tiếng Zilinxki gọi Boris.
- Thôi cậu đi đi, ra đi… - Roxtov nói, và không dự bữa ăn tối.
Roxtov ở lại một mình trong căn phòng nhỏ đi đi lại lại hồi lâu trong
phòng lắng nghe tiếng nói chuyện vui vẻ bằng tiếng Pháp từ gian phòng
bên vọng lại.

Phần V

Chương - 19 -



Roxtov đến Tilzit đúng vào một ngày ít thuận tiện nhất để can
thiệp giúp Denixov. Chàng không thể thân hành đến tìm viên tướng trực
nhật bởi vì chàng mặc thường phục và đến Tilzit không có phép của thủ
trưởng, còn Boris thì dù có muốn đi nữa cũng không thể làm việc ấy ngay
hôm sau khi gặp Roxtov. Hôm ấy ngày hai mươi bẩy tháng sáu, những điều
khoản đầu tiên của bản hoà ước đã được ký kết. Hai vị hoàng đế tặng
huân chương cho nhau: Alekxandr nhận huân chương "Đoàn danh dự",
Napoléon nhận huân chương "Andrey đệ nhất cấp", và cũng trong ngày hôm
ấy sẽ có một bữa tiệc do một tiểu đoàn Pháp tổ chức để thiết đãi một
tiểu đoàn của trung đoàn Preobrazenxki. Hai vị hoàng đế sẽ dự bữa tiệc
này. Sau bữa ăn tối hôm ấy, Roxtov cảm thấy lúng túng trước mặt Boris,
nên khi Boris ăn xong ghé vào phòng chàng thì chàng giả vờ ngủ, và hôm
sau, từ sáng sớm, chàng đã ra đi, cố ý tránh mặt Boris. Nikolai mặc
thường phục, đội chiếc mũ dạ tròn đi thơ thẩn ngoài phố nhìn bọn lính
Pháp và quân phục của họ, nhìn những đường phố và những toà nhà dành
cho hoàng đế Nga và hoàng đế Pháp ở trên quảng trường chàng thấy người
ta kê bàn chuẩn bị dọn tiệc, ở ngoài phố chăng những lá cờ Nga và cờ
Pháp có chữ A hoa và N hoa to tướng, ở cửa sổ cũng có treo cờ và dính
những chữ hoa như vậy.
"Boris không muốn giúp ta, vả lại ta cũng không muốn nhờ hắn nữa. Đó là
một vấn đề đã giải quyết xong xuôi. - Roxtov nghĩ thầm - Giữa hắn và ta
thế là hết, nhưng ta sẽ không ra khỏi nơi này nếu chưa làm được tất cả
những việc có thể làm để giúp Denixov và nhất là nếu ta chưa trao được
bức thư cho hoàng đế. Trao cho hoàng đế? Người hiện ở đây?" - và bất
giác chàng lại quay gót trở lại toà nhà dành cho vua Alekxandr ở.
- Con ngựa cưỡi đang đứng đợi, trước thềm của toà nhà có mấy sĩ quan hộ
giá lục tục kéo đến, chắc là để chuẩn bị đón hoàng đế từ trong nhà ra.
"Chốc nữa mình có thể gặp người, - Roxtov tự nhủ. - ước gì mình trao
được bức thư này tận tay Người và nói hết… Không khéo người ta bắt giam
mình vì mình mặc thường phục. Không thể như thế được. Người sẽ biết rõ
ai phải ai trái. Người hiểu hết, việc gì người cũng biết. Còn ai có thể
công bằng hơn và đại lượng hơn Người nữa…? Vả chăng dù họ có bắt ta vì
ta ở đây thì cũng có sao đâu" - Chàng nghĩ thầm khi thấy một sĩ quan
bước vào nhà hoàng đế ở… - Đấy, người ta vẫn vào đấy! Chà! Toàn là
những ý nghĩ vớ vẩn! Mình phải thân hành mang bức thư đến trình hoàng
đế! Thây kệ cái anh chàng Drubeskoy đã buộc mình đi đến nước này". Và
đột nhiên, với một sự quyết tâm mà chàng tưởng mình không thể nào có
được, Roxtov thò tay nắn lại bức thư ở trong túi áo rồi tiến thẳng về
phía toà nhà.
"Lần này mình sẽ không bỏ lỡ cơ hội như lần sau trận Austerlix!" -
Chàng tự nhủ, lòng khấp khởi hy vọng sẽ gặp hoàng đế ngay bây giờ, và
khi nghĩ như vậy chàng lại thấy máu dồn mạnh lên tim "Ta sẽ phục xuống
chân Người và cầu khẩn Người. Người sẽ đỡ ta dậy, nghe ta nói và thậm
chí còn cảm ơn ta nữa". "Ta rất sung sướng khi có dịp làm việc tốt,
nhưng trừ bỏ một điều bất công mới thật là hạnh phúc lơn lao nhất". -
Roxtov tưởng tượng hoàng đế sẽ nói với mình như vậy. Và chàng bước lên
thềm, dưới những cặp mắt tò mò của những người đứng cạnh đấy.
Từ bậc thềm, một cầu thang gác rộng rãi đưa thẳng lên tầng trên; ở bên
phải có một cái cửa đóng kín. Ở dưới cầu thang có một cánh cửa khác dẫn
xuống tầng dưới.
- Ngài cần tìm ai? - Có người hỏi.
- Tôi cần đưa một bức thư, một bức thư thỉnh cầu hoàng thượng - Nikolai nói, giọng run run.
- Đơn thỉnh cầu à? Phải đưa cho sĩ quan trực nhật, ngài làm ơn đi về
phía này (người ta chỉ cho chàng cái cửa dưới). Nhưng họ không tiếp
ngài đâu.
Nghe giọng nói thờ ơ ấy, Roxtov thấy hoảng sợ về việc mình vừa làm: ý
nghĩ sẽ được gặp hoàng đế dù hấp dẫn đến đâu cũng làm chàng hoảng sợ
đến nỗi chàng suýt bỏ chạy, nhưng người hầu phòng vừa tiếp chàng đã mở
cửa phòng viên sĩ quan trực nhật, và chàng bước vào.
Một người thấp và béo chạc ba mươi tuổi và đi ủng cao quá gối phía trên
chỉ mặc một chiếc áo sơ mi bằng vải mịn, chắc là vừa mới mặc vào xong,
đang đứng trong phòng; người hầu phòng ông ta đang cài những chiếc dải
đeo quần mới tinh bằng lụa rất đẹp ở sau lưng, không hiểu sao cứ thu
hút sự chú ý của Roxtov. Lúc bấy giờ ông ta đang nói chuyện với một
người nào ở phòng bên.
- Người cân đối và đẹp mê hồn! - Ông ta nói, nhưng nhìn thấy Roxtov, ông ta im bặt và cau mày:
- Ông muốn gì? Đơn thỉnh cầu à?
- Cái gì thế - tiếng người ở phòng bên hỏi.
- Lại một anh đến thỉnh cầu. - người đeo dải quần đáp.
- Bảo anh ta là để sau hẵng lại. Ngài ngự sắp ra bây giờ, phải đi ngay. Sau hẵng đến, ngày mai hẵng đến. Bây giờ muộn quá rồi.
Roxtov quay gót toan đi ra nhưng người mang dải quần đã cản lại.
- Thư thỉnh cầu của ai? Anh là ai?
Thư của thiếu tá Denixov - Roxtov đáp.
- Còn anh là ai? Sĩ quan à?
- Trung uý bá tước Roxtov.
- Thật là to gan! Hãy nộp lên cấp trên của anh theo đúng quy chế. Còn
anh thì đi đi đi đi - nói đoạn ông ta xỏ tay vào bộ quần áo quân phục
mà người hầu phòng vừa đưa lại.
Roxtov quay ra phòng áo và thấy nhiều sĩ quan và nhiều vị tướng mặc đại
quân phục ngày lễ đang đứng ở trên thềm, muốn ra ngoài chàng phải đi
qua trước mặt họ.
Lòng thầm nguyền rủa sự to gan của mình, tim như ngừng đập khi nghĩ
rằng ngay bây giờ mình có thể gặp hoàng đế không biết chừng, ngay trước
mặt Người có thể bị mắng một cách nhục nhã, có thể bị bắt nữa là khác
và thấy rõ tất cả sự thất thố trong hành động của mình và hối hận về
hành động đó, Roxtov cúi mặt xuống lẻn ra khỏi toà nhà chật ních những
người hộ giá sang trọng. Bỗng một giọng nói quen quen gọi chàng và một
bàn tay giữ chàng lại.
- Anh làm gì ở đây mà mặc thường phục như thế? - Một giọng trầm trầm hỏi chàng.
Đó là viên tướng kỵ binh trước đây chỉ huy sư đoàn của chàng và nhờ
những thành tích trong chiến dịch vừa qua đã được hoàng đế đặc biệt yêu
quý.
Roxtov hoảng hốt toan thanh minh, nhưng thấy vẻ mặt vui vẻ hiền hậu của
viên tướng, chàng kéo ông ta ra một nơi, và với một giọng xúc động
chàng kể lại tất cả những việc đã xảy ra, yêu cầu ông ta can thiệp giúp
Denixov mà ông ta có biết. Nghe xong viên tướng lắc đầu, vẻ nghiêm nghị.
- Thật ái ngại, thật ái ngại cho chàng trai gan dạ này! Anh đưa thư cho tôi.
Roxtov vừa kịp trao bức thư và kể lại đầu đuôi câu chuyện của Denixov
thì những tiếng chân bước mau kèm theo tiếng cựa giày lách cách vang
lên ở cầu thang. Viên tướng rời Roxtov đến đứng ở sát thềm. Những người
trong đoàn tuỳ tùng của hoàng đế chạy xuống thềm và đến đứng cạnh máy
con ngựa của họ. Viên sĩ quan giám mã Ene, chính viên sĩ quan trước đây
đã có mặt ở Austerlix, dắt ngựa đến cho hoàng đế và trên cầu thang có
tiếng giày nhè nhẹ mà Roxtov nhận ra ngay. Quên cả nỗi lo sợ bị người
ta nhận mặt, Roxtov tiên đến sát thềm với mấy người hiếu kỳ khác và sau
hai năm cách biệt chàng thấy lại cũng những nét mặt tôn quý ấy, cũng
cái nhìn ấy, cũng cái dáng đi ấy, cũng cái phong dộ uy nghi mà hiền hậu
ấy, và lòng sùng mộ say sưa đối với hoàng đế lại sống lại trong lòng
chàng mãnh liệt như xưa. Hoàng đế mặc quân phục của trung đoàn
Preobrazenxki, mặc quần dạ trắng đi đôi ủng cưỡi ngựa cao, ngực đeo một
tấm huân chương mà Roxtov không biết là huân chương gì (đó là huân
chương "Đoàn danh dự") xuất hiện trên thềm, tay cắp mũ và đang đi găng.
Người dừng lại đưa mắt nhìn quanh một lượt khiến mọi vật sáng bừng lên.
Ngài nói mấy lời với một vị tướng. Ngài nhận ngay ra viên cựu sư đoàn
trưởng của Roxtov, mỉm cười với ông ta và gọi ông ta lại.
Tất cả đoàn tuỳ tùng rẽ ra và Roxtov thấy viên tướng này nói chuyện khá lâu với hoàng đế.
Hoàng đế đáp lại mấy tiếng rồi bước một bước về phía có ngựa đang đợi
sẵn. Đoàn tuỳ tùng và đám người hiếu kỳ trong đó có Roxtov lại nhích
tới gần. Hoàng đế dừng lại bên cạnh ngựa và tay đặt lên yên, hoàng đế
quay về phía viên tướng kỵ binh và nói to với ông ta, hẳn là muốn cho
mọi người đều nghe thấy.
- Ta không thể làm như vậy được, tướng quân ạ, và sở dĩ ta không thể làm được là vì luật pháp còn mạnh hơn ta.
Hoàng đế nói đoạn đặt chân lên bàn dạp. Viên tướng cung kính cúi đầu
xuống. Hoàng đế lên yên và thúc ngựa phi nước đại trên đường phố.
Roxtov phấn khởi hân hoan như cuồng dại cùng với đám đông chạy theo nhà
vua.
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 EmptySat Dec 25, 2010 7:42 pm

Phần V

Chương - 20 -




Ở quảng trường, nơi hoàng đế cưỡi ngựa đến, một tiểu đoàn của
trung đoàn Preobrazenxki đứng bên phải và bên trái là một tiểu đoàn cận
vệ Pháp đội mũ lông đang đứng sắp hàng đối diện nhau.
Trong khi hoàng đế đi về phía bên sườn các tiểu đoàn đang bồng súng
chào, thì một nhóm kỵ binh khác đi về phía sườn bên kia là Roxtov nhận
ra người đi đầu. Đó là Napoléon không thể là người nào khác. Ông ta đội
chiếc mũ nhỏ(1), dây thao huân chương Andrey thắt chéo qua ngực, mình
mặc quân phục xanh để lộ chiếc áo gi-lê trắng, phi nước đại trên mình
con ngựa Ả Rập thuần giống màu xám rất quý, lưng phủ tấm chăn ngựa màu
huyết dụ thêu kim tuyến. Đến trước mặt Alekxandr ông ta cất mũ chào.
Nhìn động tác này con mắt kỵ binh sành sỏi của Roxtov không thể không
nhận thấy Napoléon cưỡi ngựa rất kém và ngồi trên yên không vững.
Các tiểu đoàn hô to: "Ua-ra" và "Hoàng đế vạn tuế".
Napoléon nói mấy tiếng với Alekxandr. Hai vị hoàng đế uống ngựa và bắt
tay nhau. Một nụ cười vờ vĩnh khó chịu hiện lên gương mặt Napoléon,
Alekxandr thân mật nói chuyện với ông ta.
Bất chấp vó ngựa của hiến binh Pháp đang đứng giữa đám đông, Roxtov vẫn
theo dõi từng cử chỉ của Alekxandr và Buônapáctê. Roxtov ngạc nhiên,
không ngờ vua Alekxandr lại đối xử ngang hàng với Buônapáctê, và
Buônapáctê có vẻ ung dung thoải mái… Trong khi đối xử ngang hàng với
hoàng đế Nga tựa hồ như sự thân mật này là lẽ tự nhiên và đã từ lâu trở
thành một điều quen thuộc đối với ông ta. Napoléon và Alekxandr cùng
với đoàn tuỳ tùng rất dài của họ đi về phía sườn bên phải của tiểu đoàn
Preobrazenxki, tiến thẳng đến gần đám đông đang đứng ở đấy gần đến nỗi
Roxtov đứng ở hàng đầu chợt có ý sợ rằng họ sẽ nhận ra mình.
- Thưa ngài, tôi xin phép Ngài cho tôi tặng huân chương Đoàn danh dự
cho người dũng cảm nhất trong số các quân nhân của ngài! - Ông ta nói
giọng sắc sảo, rành rọt, phát âm rõ đến từng chữ.
Đó là lời của Buônapáctê thấp bé vừa nói vừa nhìn thẳng vào mặt
Alekxandr từ dưới lên. Alekxandr chăm chú nghe những lời Napoléon nói
với mình, gật đầu tán thành và mỉm cười thân mật.
- Tặng người đã chiến đấu anh dũng nhất trong cuộc chiến tranh vừa qua! - Napoléon nói thêm, nhấn mạnh từng tiếng một.
Với một thái độ tự tin và bình tĩnh khiến Roxtov tức lộn ruột, ông ta
đưa mắt nhìn những hàng quân Nga đang bồng súng chào, mắt dán chặt vào
vị hoàng đế của họ.
- Hoàng thượng cho phép tôi hỏi qua ý kiến của đại tá đã chứ?
Alekxandr nói đoạn bước nhanh đến gần công tước Kozlovxki, người chỉ
huy tiểu đoàn. Trong lúc đó Buônapanê đang tháo găng ra khỏi bàn tay
nhỏ nhắn và trắng trẻo. Tình cờ chiếc găng bị rách, ông ta liền vất nó
đi. Một sĩ quan phụ tá vội vàng chạy đến nhặt chiếc găng lên.
- Chọn ai bây giờ? - Hoàng đế Alekxandr hỏi thầm Kozlovxki bằng tiếng Nga.
- Xin tuỳ ý bệ hạ.
Hoàng đế cau mày có vẻ không bằng lòng và đưa mắt nhìn quanh, rồi nói.
- Nhưng cũng phải trả lời ông ta chứ.
Kozlovxki đưa mắt nhìn hàng quân một cách quả quyết. Cái nhìn của ông ta bao gồm cả Roxtov.
"Biết đâu là mình cũng nên" - Roxtov nghĩ thầm.
- Lazarev! - Viên đại tá cau mày hô to, và người đứng đầu hàng quân hiên ngang bước ra.
- Anh đi đâu. Đứng yên đấy! - Những tiếng nói thì thào bảo Lazarev, lúc
bấy giờ chẳng biết mình phải đi đâu. Lazarev dừng lại liếc nhìn viên
đại tá có vẻ lo sợ, và mặt anh ta run run như các binh sĩ vẫn thường
run khi được gọi ra trước hàng quân.
Napoléon khẽ ngoái đầu lại và giơ bàn tay nhỏ nhắn béo múp míp ra đằng
sau như muốn với lấy một vật gì. Các nhân vật trong đoàn tuỳ tùng hiểu
ý ngay. Họ nhốn nháo lên, nói thì thầm, với nhau và trao tay nhau một
vật gì không rõ, rồi một người thị đồng (chính người thiếu niên mà
Roxtov đã gặp ở nhà Boris tối hôm qua) chạy đến và kính cẩn cúi đầu
trên bàn tay của Napoléon đang giơ ra, và không để cho nó đợi một giây,
đặt ngay vào lòng bàn tay một chiếc huân chương dải đỏ.
Napoléon không nhìn xuống, lấy hai ngón tay cầm gọn lấy chiếc huân
chương rồi lại gần Lazarev trong khi anh ta mở mắt to cứ bướng bỉnh một
mực chỉ nhìn hoàng đế của mình và đưa mắt cho hoàng đế Alekxandr như
muốn nói rằng việc ông ta làm hiện nay chẳng qua cũng vì ngài muốn mà
thôi. Bàn tay trắng trẻo nhỏ nhắn cầm tấm huân chương chỉ khẽ chạm vào
khuy áo của Lazarev. Hình như Napoléon đinh ninh rằng muốn làm cho
người lính kia sung sướng suốt đời, muốn làm cho anh ta được đề cao hẳn
hơn mọi người khác trên thế gian thì chỉ cần bàn tay của ông ta, của
Napoléon, khẽ chạm vào ngực anh ta một cái. Napoléon chỉ ấn cái huân
chương vào ngực Lazarev và bỏ tay ra, đoạn quay về phía hoàng đế
Alekxandr, tựa hồ như tin rằng tấm huân chương phải dính vào ngực. Quả
nhiên tấm huân chương dính vào ngực Lazare thật.
Những bàn tay sốt sắng, Nga có Pháp có, lập tức vồ lấy chiếc huân
chương mà gắn nó vào quân phục Lazarev, Lazarev hầm hầm đưa mắt nhìn
con người thấp bé và có bàn tay trắng trẻo đã chạm vào người anh ta, và
vẫn bồng súng chào không cử động, mắt cứ nhìn thẳng vào mắt Alekxandr
như muốn hỏi xem mình có nên đứng như vậy hay phải đi, hay có lẽ làm
một việc gì khác nữa chăng. Nhưng người ta không ra lệnh gì cho anh ta
cả, nên anh ta đành đứng im như vậy một hồi khá lâu.
Hai vị hoàng đế phi ngựa đi. Binh sĩ trung đoàn Preobrazenxki giải tán
hàng ngũ, xen lẫn vào quân cận vệ Pháp và ngồi cạnh những bàn tiệc đã
dọn sẵn cho họ.
Lazarev ngồi vào ghế danh dự. Các sĩ quan Nga và Pháp ôm hôn anh ta,
ngỏ lời mừng và bắt tay anh ta. Binh sĩ và thường dân kéo đến từng đoàn
để nhìn anh ta. Tiếng cười, tiếng nói bằng tiếng Nga và tiếng Pháp vang
dậy trên quảng trường xung quanh các bàn ăn.
Hai sĩ quan, mặt đỏ bừng, vui vẻ và sung sướng đi qua trước mặt Roxtov.
- Tiệc thật ra tiệc! Bát đĩa toàn bằng bạc hết - Một người nói - Anh có thấy Lazarev không?
- Có
- Nghe nói ngày mai quân Preobrazenxki lại thết họ đấy.
- Chà, thằng cha Lazarev thật là tốt số. Một ngàn hai trăm francs trợ cấp hàng năm, lĩnh cho đến trọn đời!
Một người lính trong trung đoàn Preobrazenxki đội một chiếc mũ lông của lính Pháp lên đầu, reo to:
- Anh em ơi, xem cái mũ bảnh chưa này!
- Đẹp quá! Tuyệt thật đấy!
- Cậu có biết khẩu lệnh mấy hôm nay thế nào không? - Một viên sĩ quan
cận vệ nói với một người bạn. Ngày hôm kia là Napoléon, nước Pháp, dũng
cảm; hôm qua là Alekxandr, nước Nga, vĩ đại, hoàng đế ta ra khẩu lệnh
một hôm, hôm sau lại đến lượt Napoléon. Ngày mai nhà vua sẽ trao huân
chương George cho người lính cận vệ anh dũng nhất của Pháp. Không thể
khác được, phải đáp lễ chứ!
Boris và bạn là Zilinxki cũng đến xem bữa tiệc của binh sĩ trung đoàn
Preobrazenxki. Lúc trở về Boris trông thấy Roxtov đứng ở góc một toà
nhà.
- Roxtov! Chào cậu! Thế là tối hôm kia chúng mình chẳng gặp lại nhau
lần nào - chàng nói với Roxtov, và không thể nén mình không hỏi xem
Roxtov có việc gì, vì bộ mặt của Roxtov thật ủ dột và thiểu não lạ lùng.
- Không, có gì đâu - Roxtov đáp.
- Cậu đến nhà mình chứ?
- Được.
Roxtov đứng một hồi lâu trong góc, từ xa nhìn về phía đám người đang ăn
tiệc. Trong tâm trí chàng diễn ra một cuộc giằng co đau đớn mà chàng
không làm sao kết thúc được. Trong lòng chàng nổi lên những mối ngờ vực
kỳ lạ. Khi thì chàng nhớ đến Denixov với vẻ mặt biến đổi hẳn đi, đến
thái độ phục tùng và tất cả cái nhà thương với những bệnh nhân chân tay
bị cưa cụt, đến cảnh bẩn thỉu và bệnh hoạn của nó, chàng có cảm giác là
ngay bây giờ mình đang ngửi thấy cái mùi thịt thối trong bệnh viện. Cảm
giác ấy mạnh đến nỗi chàng bất giác ngoái nhìn về phía sau để tìm xem
nó có thể từ đâu đưa đến. Khi thì chàng sực nhớ đến cái anh chàng
Bonaparte tự mãn với bàn tay trắng trẻo, con người hiện nay đã được xem
là một vị hoàng đế và được hoàng đế Alekxandr yêu quý và kính trọng.
Những cánh tay, những cái chân bị cưa cụt kia, những con người bị giết
kia, tất cả những thứ đó phỏng có ích gì? Khi thì chàng sực nhớ đến
Lazarev được thưởng, nhớ đến Denixov bị phạt và không được ân xá. Chàng
chợt thấy mình có những ý nghĩ kỳ quặc đến nỗi nó làm chàng phát sợ.
Mùi thức ăn của binh sĩ trong trung đoàn Preobrazenxki và cơn đói kéo
chàng ra khỏi tình trạng ấy: Phải ăn dăm ba miếng trước khi ra đi.
Chàng đến một khách sạn mà chàng đã đi qua hồi sáng.
Trong khách sạn, chàng thấy có nhiều sĩ quan mặc thường phục như chàng.
Khách ăn đông đến nỗi chàng phải khó khăn lắm mới gọi được thức ăn. Hai
sĩ quan cũng thuộc sư đoàn chàng đến ngồi với chàng. Lẽ dĩ nhiên là câu
chuyện xoay quanh việc ký hoà ước. Các sĩ quan bạn của Roxtov cũng như
phần lớn quân sĩ đều bất bình về bản hoà ước được ký kết sau trận
Fritland. Họ nói đáng lý phải cầm cự nữa mới phải. Napoléon sẽ gục, vì
quân đội của y không còn lương khô và ngay cả đạn cũng đã hết. Nikolai
lặng ngồi ăn và nhất là uống rượu rất nhiều. Chàng uống một mình hai
chai rượu vang.
Cuộc giằng co đã nổi dậy trong lòng chàng vẫn không kết thúc được và
vẫn cứ dằn vặt chàng. Chàng sợ buông mình theo những tư tưởng của mình
nhưng vẫn không sao gạt những tư tưởng ấy đi được. Đột nhiên, nghe một
viên sĩ quan nói rằng nhìn vào mặt bọn Pháp thật tức lộn ruột, Roxtov
bỗng giận dữ quát tháo ầm ĩ. Chẳng ai hiểu tại sao chàng lại nổi xung
lên như vậy, cho nên các sĩ quan rất ngạc nhiên.
- Anh làm sao dám xét đoán cái gì hơn, cái gì là kém? - Chàng quát to
máu dồn lên mặt bừng bừng - làm sao chúng ta có thể phê phán về những
hoạt động của nhà vua, chúng ta có quyền gì bàn bạc! Chúng ta không thể
nào hìểu được mục đích và hoạt động của nhà vua.
- Nhưng tôi có nói gì đến nhà vua đâu - viên sĩ quan phân trần.
Ông ta không còn biết cắt nghĩa cơn thịnh nộ của Roxtov bằng cách nào khác hơn là cho rằng Roxtov say.
Nhưng Roxtov không nghe viên sĩ quan, chàng cứ nói tiếp:
- Chúng ta không phải là những nhà ngoại giao, chúng ta chỉ là những
quân nhân mà thôi. Họ ra lệnh cho chúng ta chết thì chúng ta chết. Họ
phạt chúng ta, thế tức là chúng ta có vui lòng công nhận Bonaparte là
hoàng đế và ký liên minh với ông ta thì tức là cần phải làm như thế mới
được. Còn nếu việc gì chúng ta cũng phê phán và bàn luận vào thì sẽ
không còn gì thiêng liêng nữa, cứ theo cái đà ấy chúng ta sẽ nói rằng
không có Thượng đế, không có gì hết!
Nikolai đập bàn quát to lên, một tháỉ độ chẳng hợp cảnh tý nào theo
quan niệm của những người đang nói chuyện với chàng, nhưng lại hết sức
ăn khớp với dòng tư tưởng của chàng.
Việc của chúng ta là làm tròn bổn phận choảng cho mạnh và không suy nghĩ, có thế thôi! - Chàng kết luận.
- Và uống rượu nữa chứ - một sĩ quan chêm vào, chừng không muôn cãi cọ.
- Phải rồi uống rượu nữa! - Nikolai tán thành. - Ê này! một chai nữa đây! - chàng lớn tiếng gọi.
Chú thích:
(1) Vào thời bấy giờ võ quan thường đội "mũ hai sừng" rất to, riêng
Napoléon đội chiếc mũ đặc biệt, kích thước nhỏ hơn bình thường.

Phần VI - Chương - 1 -



Năm 1808 hoàng đế Alekxandr đến Erfurt để hội kiến với hoàng đế
Napoléon một lần nữa, và trong giới thượng lưu tai mắt ở Petersburg
người ta bàn tán rất nhiều về cuộc gặp gỡ long trọng và vĩ đại này.
Năm 1809 hai vị chúa tể của thế giới - như hồi ấy người ta thường gọi
Napoléon và Alekxandr - đã thân thiết với nhau đến nỗi vào năm ấy, khi
Napoléon tuyên chiến với Áo, thì một quân đoàn Nga liền được diễu qua
biên giới để phối hợp tác chiến với kẻ thù cũ là Bonaparte nhằm chống
lại kẻ đồng minh cũ là Áo hoàng; đến nỗi trong giới thượng lưu người ta
bàn tán rằng có lẽ Napoléon sẽ kết hôn với một người em gái của Hoàng
đế Alekxandr. Nhưng ngoài các vấn đề đối ngoại ra thì hồi ấy công chúa
Nga đặc biệt tha thiết quan tâm đến những cuộc cải cách chính trị bấy
giờ đang được tiến hành trong khắp các lĩnh vực của bộ máy cai trị
trong nước.
Trong khi đó cuộc sống, cuộc sống thật của con người với những điều
thiết thân về sức khoẻ, bệnh tật, công việc, nghỉ ngơi, với những vấn
đề tư tưởng, khoa học, thi ca, âm nhạc, tình yêu, bạn bè, tình bạn, thù
hằn, dục vọng, vẫn trôi qua như thường lệ, bất chấp và vượt qua mọi sự
thân thiện hay hiềm khích về chính trị với Napoléon Bonaparte, vượt qua
mọi cuộc cải cách ở trên đời, công tước Andrey đã hai năm nay không rời
khỏi chốn thôn quê.
Tất cả những biện pháp mà Piotr đã nghĩ ra để cái cách điền trang nhưng
không thu được lấy một kết quả gì, vì chàng cứ luôn luôn nhảy từ việc
này sang việc khác, tất cả những biện pháp đó công tước Andrey đều đã
thực hiện, tuy không cho ai biết và cũng không phải hao hơi tốn sức cho
lắm.
Chàng là người có được đến một mức rất cao cái tính kiên trì thực tiễn
mà Piotr vốn thiếu, cho nên tuy chẳng phải ra sức gì mấy chàng vẫn làm
cho công việc tiến hành có kết quả.
Ba trăm nông nô thuộc một điền trang của chàng được chuyển thành nông
dân tự do (đó là một trong những tấm gương đầu tiên ở Nga), còn ở các
điền trang khác thì lực dịch được thay thế bàng địa tô ở Bogutsarovo
công tước Andrey xuất tiền thuê một bà đỡ để trông nom các sản phụ và
trả lương cho một ông linh mục để dạy cho con cái nông dân và gia nô
biết đọc biết viết.
Công tước Andrey dành một nửa thời giờ để về Lưxyê Gorư sống bên cạnh
cha già và đứa con trai nhỏ bây giờ đang giao cho các bà vú em coi sóc,
còn một nửa thời giờ thì chàng ở "tu viện Bogutsarovo" - như cha chàng
vẫn gọi điền trang của chàng. Tuy có nói với Piotr rằng rất hờ hững đối
với các biến cố bên ngoài trên thế giới, chàng vẫn kiên tâm theo dõi
các biến cố đó, chàng gửi mua về rất nhiều sách và khi có những người
mới ở Petersburg về thăm chàng hay cha chàng, chính chàng cũng lấy làm
lạ rằng những con người sống ngay giữa luồng nước xoáy của cuộc đời ấy
về mặt hiểu biết những sự kiện ngoại giao và nội trị đang diễn ra lại
kém xa một người nằm lỳ ở thôn quê như chàng.
Ngoài những công việc điền trang, ngoài việc đọc đủ các loại sách ra,
công tước Andrey bây giờ còn chủ tâm phân tích và phê phán hai chiến
dịch thất bại vừa rồi của quân ta và soạn ra một dự án cải cách quy chế
và luật lệ của quân đội.
Mùa xuân năm 1809 công tước Andrey đi đến các điền trang của con trai ở Ryazan do chàng đảm dương việc trông coi.
Dưới ánh nắng xuân ấm áp, chàng ngồi trên xe ngựa, đưa mắt ngắm những
ngọn cỏ mới mọc, những nhánh lộc bạch dương mới nhú và những làn mây
trắng đầu tiên của mùa xuân lơ lửng trên nền trời xanh trong sáng.
Chàng không nghĩ gì hết, chỉ vui vẻ và vô tư lự ngắm cảnh bên dường.
Cỗ xe kiệu đi qua chỗ bến phà, nơi mà cách đây một năm chàng đã nói
chuyện với Piotr, rồi đi qua một cái làng lầy lội, những khoảng sân đập
lúa, những cánh đồng lúa mì mùa đông đang lên. Xe lăn theo con đường
thoai thoải đi xuống một chiếc cầu còn đọng lại ít tuyết, rồi lại leo
lên một cái dốc đất sét trơn lầy đi qua những dải đất đầy những gốc rạ
và những bụi cây lác đác đâm chồi xanh, rồi tiến vào một khu rừng bạch
dương chạy dài hai bên đường. Trong rừng rất ấm, phần nào, nóng bức nữa
là khác; không có lấy một hơi gió thoảng qua. Những cây bạch dương lốm
đốm những khóm lá xanh mọng đứng im lìm không lay động, và những ngọn
cỏ non, những bông hoa tím nhạt đã nhú lên trên lớp lá vàng rụng từ năm
ngoái. Mấy cây thông nhỏ mọc lác đác trong khóm bạch dương, màu lá ngàn
đời xanh thẳm của nó khiến người ta nhớ lại mùa đông mà bực mình. Chạy
vào đến rừng, mấy con ngựa kéo xe thở phì phò, mình càng toát mồ hôi
nhiều hơn trước.
Anh hành bộc Piotr nói với người xà ích một câu gì đó không rõ và người
xà ích khen phải. Nhưng hình như Piotr chưa thoả mãn với sự đồng tình
của người xà ích: anh ta xoay người trên ghế đánh xe, ngoảnh về phía
chủ mỉm cười lễ phép nói:
- Thưa đại nhân, thật là khoan khoái.
- Cái gì?
- Bẩm thật là khoan khoái ạ.
"Anh ta nói gì thế nhỉ? - Công tước Andrey nghĩ thầm - Phải chắc là nói
về mùa xuân, - chàng nghĩ, mắt nhìn sang hai bên đường. - Ừ cảnh vật
mới đó mà đã xanh rờn, chóng quá! Bạch dương, điêu lê và cả xích dương
nữa, đều đã bắt đầu, còn cây sồi thì vẫn chưa thấy gì. Phải đây, đúng
là một cây sồi rồi".
Bên vệ đường sừng sững một cây sồi. Có lẽ nó già gấp mười lần những cây
bạch dương mọc thành khóm rừng này, nó to gấp mười và cao gấp đôi mấy
cây bạch dương ấy. Đó là một cây sồi rất lớn hai người ôm không xuể, có
những cành có lẽ đã gãy từ lâu, vỏ cây nứt nẻ đấy những vết sứt sẹo.
Với những cánh tay to sù sì không cân đối, với những ngón tay quều quào
xòe rộng, nó như một quái vật già nua cau có và khinh khỉnh đứng giữa
đám bạch dương tươi cười. Chỉ có một cây sồi là không chịu đón lấy mùa
xuân và ánh nắng.
Mùa xuân, tình yêu, hạnh phúc! - Cây sồi già như muốn nói thế - Làm sao
cái điều dối trá khờ khạo và điên rồ như thế mà mãi các người không
chán! Quanh đi quẩn lại chỉ có thế, và vẫn chỉ là một sự dối trá mà
thôi! Làm gì có mùa xuân, có ánh nắng, có hạnh phúc? Kìa, các người
nhìn xem, những cây thông chết cằn chết rụi, bao giờ cũng vẫn thế, và
ta nữa, đang đang những ngón tay rạn gãy, sây sát từ lưng ta, từ sườn
ta mọc lên; xưa kia nó mọc như thế nào thì ta bây giờ cũng như thế, và
ta không tin vào những mềm hi vọng và những sự dối trá của các người.
Công tước Andrey ngoái cổ lại cây sồi mấy, lần trong khi xe đi qua khóm
rừng, dường như chờ đợi ở nó một cái gì. Dưới gốc cây sồi cũng có hoa,
có cỏ, nhưng nó vẫn thế, cau có, lầm lỳ, què quặt và kiên gan đứng im
lìm giữa đám hoa cỏ ấy.
"Phải, cây sồi nó nói phải, một ngàn lần phải, - công tước Andrey nghĩ,
- Để cho người khác, những người còn trẻ, họ lao vào sự dối trá ấy, còn
chúng mình thì đã biết đời rồi, - cuộc đời của chúng mình hết rồi"! Và
một loạt những ý tưởng mới mẻ. Vô hi vọng nhưng buồn buồn dìu dịu do
cây sồi gợn lên nảy sinh trong tâm hồn công tước Andrey. Trong chuyến
hành trình này, chàng như đã suy nghĩ lại cả cuộc đời của mình và một
lần nữa chàng lại đi đến cái kết luận trước kia, một cái kết luận đượm
màu bi quan nhưng cũng làm cho lòng chàng dịu lại, là bây giờ chàng
không nên mưu đồ một cái gì nữa hết, rằng chàng phải sống nốt cho hết
cuộc đời mình, không làm điều xấu, không ưu tư, không ước muốn gì nữa.
Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 EmptySat Dec 25, 2010 7:44 pm

Phần VI

Chương - 2




Vì những công việc trông coi điền trang Ryazan, công tước Andrey
phải tiếp xúc với viên đô thống(1) quý tộc là bá tước Ilya Andreyevich
Roxtov, và vào trung tuần tháng năm công tước Andrey đến nhà ông ta.
Mùa xuân bấy giờ đã chuyển sang tiết oi bức. Rừng đã khoác bộ áo xanh
um tùm, không khí đầy bụi và khí trời nóng nực đến nỗi hễ đi ngang chỗ
có nước là thấy thèm tắm.
Công tước Andrey lòng không vui và tư lự vì nghĩ đến việc phải đến
thỉnh cầu viên đô thống quý tộc về công việc. Xe chàng tiến vào khu
vườn lớn của gia đình Roxtov ở Otradnyi. Về bên phải, sau mấy khóm cây
chàng bông nghe một giọng con gái vui vẻ reo lên, rồi thấy một tốp
thiếu nữ chạy ùa về phía lối xe đi. Người chạy trước đến gần xe nhất là
một cô thiếu nữ mắt đen, tóc đen, vóc người mảnh dẻ lạ lùng, mặc chiếc
áo dài bằng vải hoa vàng, đầu chít một tấm khăn mùi soa trắng để tuột
ra ngoài mấy món tóc rối. Cô thiếu nữ vừa chạy vừa cất tiếng reo to,
nhưng chợt nhận ra người lạ cô nhìn lảng đi nơi khác rồi phì cười bỏ
chạy trở lại.
Công tước Andrey chợt thấy lòng se lại chẳng hiểu vì sao. Ngày hôm nay
trời đẹp quá, ánh nắng rực rỡ quá, chung quanh tươi vui quá; và cô gái
mảnh dẻ, xinh xắn kia không hề biết và không muốn biết rằng có chàng
tồn tại trên đời này, cô bằng lòng và vui sướng với cuộc sống riêng của
mình - Chắc là một cuộc sống vô nghĩa, nhưng vui tươi và hạnh phúc.
"Cô ta có chuyện gì mà vui thế? Cô nghĩ đến cái gì? Hẳn không phải đến
quy chế quân sự hay việc tổ chức nông dân ở điền trang Ryazan. Cô ta
nghĩ gì thế" Cái gì làm cho cô ta sung sướng?" - công tước Andrey bất
giác băn khoăn tự hỏi.
Bá tước Ilya Andrêyevich năm 1809 cũng sống ở Otradnyoe như mọi năm
trước, nghĩa là tiếp đãi hầu hết cả tỉnh, suốt ngày săn bắn, tiệc tùng,
diễn kịch, đàn sáo. Cũng như đối với bất cứ người khách nào mới đến, bá
tước Roxtov mừng rỡ tiếp đãi công tước Andrey và khăng khăng một mực
nài ép chàng nghỉ lại nhà.
Suốt một ngày dài dằng dặc công tước Andrey phải trò chuyện với hai ông
bà Roxtov và các vị thượng khách đến chật cả nhà để dự mấy ngày lễ
thánh sắp đến. Bolkonxki mấy lần nhìn Natasa vui đùa giữa đám thanh
niên, trong lòng cứ băn khoăn tự hỏi: "Không biết cô ta nghĩ gì? Cái gì
làm cô ta sung sướng thế"
Đến tối, nằm một mình trong phòng riêng, chàng lạ nhà không sao ngủ
được. Chàng lấy sách đọc, rồi tắt nến đi, rồi lại thắp lên. Căn phòng
đóng cửa sổ kín mít, rất nóng bức. Chàng thấy bực cái lão già ngốc
nghếch kia (chàng gọi bá tước Roxtov như vậy) đã giữ chàng lại, bảo là
các giấy tờ cần thiết đang ở trên tỉnh, còn phải cho người lên lấy.
Chàng nghĩ bực mình sao mình lại ở lại đây làm gì.
Công tước Andrey đứng dậy, ra mở cửa sổ. Chàng vừa mở cánh cửa chớp ra
thì ánh trăng lùa vào phòng, tựa hồ như nãy giờ đã trực sẵn ngoài cửa
sổ từ lâu. Chàng mở rộng cửa. Đêm hôm ấy mát mẻ, trong sáng và yên
tĩnh. Ngay trước cửa sổ có một hàng cây xén phẳng, một phía thì tối
đen, phía kia thì lóng lánh như bạc. Ở phía dưới hàng cây cao có những
khóm cây gì ướt mọng, cánh lá lăn tăn phản chiếu ánh trăng loang loáng.
Xa hơn, ở phía sau hàng cây đen có một cái nhà sương đọng lấp lánh, về
phía phải có một cây to um tùm, thân đều trắng muốt, và ở phía trên là
vầng trăng gần tròn, trên nền trời xuân trong sáng chỉ lác đác mấy vì
sao. Công tước Andrey chống khuỷu tay lên khung cửa sổ, mắt chàng đăm
đăm nhìn lên bầu trời.
Phòng của công tước Andrey ở tầng giữa; ở các phòng tầng trên cũng có
người, họ cũng chưa ngủ. Chàng nghe có tiếng nói của một người con gái
ở phía trên vẳng xuống.
- Một lần nữa thôi mà, - công tước Andrey nhận ngay ra giọng người con gái vừa nói câu này.
- Thế thì bao giờ cô mới chịu đi ngủ? - Một giọng khác đáp lại.
- Em không ngủ, em không thể ngủ được đâu, biết làm thế nào được!
- Nào, lần cuối cùng thôi mà…
Hai giọng phụ nữ hoà nhau hát một câu, có lẽ là câu cuối của một bài nhạc nào đấy.
- Chà tuyệt quá! Thôi, bây giờ thì ngủ nhé.
- Chị đi ngủ đi, còn em thì chịu, - giọng người ban nãy đáp, nghe như
đang đi ra phía cửa sổ. Có lẽ cô thiếu nữ nhô hẳn người ra ngoài cửa sổ
vì có thể nghe rõ cả tiếng áo sột soạt và tiếng thở. Mọi vật đều im bặt
và lắng lại như vấng trăng, như ánh trăng và những bóng tối trong vườn.
Công tước Andrey cũng không dám cử động, sợ mấy cô gái ở tầng trên biết
mình đang thức. Giọng nói ban đầu lại vẳng xuống:
- Sonya! Sonya! Ngủ làm sao được kia chứ! Xem này, tuyệt quá! Ôi! đẹp
quá đi mất! Kia dậy đi chị Sonya, - giọng nói nghe gần như muốn khóc -
Thật chưa bao giờ có một đêm huyền diệu như thế này.
Sonya cằn nhằn đáp lại một câu gì không rõ.
- Không, chị phải ra đây xem cơ, trăng đẹp quá… Ôi! Tuyệt quá! Chị ra
đây. Sonya ơi, Sonya yêu quý của em, chị ra đây! Đấy chị thấy không?
Đây này, cứ ngồi xổm như thế này nhé, vòng tay xuống dưới hai đầu gối
thế này - Ôm thật chặt, thật chặt vào, phải cố lấy sức, - thì thế nào
cũng bay bổng lên cho mà xem. Đây này!
- Thôi thôi, lại ngã bây giờ.
Có tiếng hai người giằng co nhau, rồi giọng trách móc của Sonya.
- Hơn một giờ sáng rồi còn gì.
- Ồ chị thì chỉ làm hỏng hết cái thú của em thôi.
- Chị đi đi đi đi…
Mọi vật lại im lặng, nhưng công tước Andrey biết rằng nàng vẫn ngồi
đấy. Thỉnh thoảng chàng lại nghe tiếng cử động khe khẽ, thỉnh thoảng
lại có tiếng thở dài.
- Ồ trời ơi! Trời ơi! Làm sao thế này! - Nàng bỗng kêu lên. - Thôi đi ngủ thì đi ngủ vậy! - Rồi nàng đóng cửa lại.
"Vẫn không hay biết gì đến ta!" - Công tước Andrey nghĩ trong khi lắng
tai nghe tiếng nói của nàng và không hiểu tại sao, chàng cứ chờ đợi và
sợ rằng nàng sẽ nói một điều gì về mình, "Lại cô ấy, cứ như là cố tình
vậy" - chàng nghĩ. Trong tâm hồn chàng bỗng trào lên một mớ ý nghĩ rối
ren bất ngờ cùng với bao nhiêu hy vọng trẻ trung không ăn nhập gì với
cuộc đời chàng. Cảm thấy mình không đủ sức hiểu nổi tâm trạng mới mẻ
của mình, công tước Andrey ngủ thiếp đi.

Chú thích:
(1) Một người do các gia đình quý tộc trong một tỉnh hay một huyện bầu
ra để lo các công việc riêng của đẳng cấp và giữ một chức vụ tương ứng
trong các cơ quan tự quản của địa phương





Phần VI

Chương - 3 -



Sáng hôm sau công tước Andrey từ biệt mỗi một mình lão bá tước và ra về trước khi các tiểu thư xuống phòng khách.
Bấy giờ đã là đầu tháng Sáu. Trên đường về nhà, công tước Andrey lại đi
ngang khóm rừng bạch dương có cây sồi già đã từng gợi cho chàng những
ấn tượng kỳ lạ khó quên. Tiếng lục lạc trong rừng nghe còn mơ hồ xa xăm
hơn một tháng rưỡi trước đây; cánh rừng trông non rải rác trong rừng
không còn tương phản với cảnh đẹp xung quanh; bây giờ chúng đã hoà mình
vào khung cảnh chung, đã trổ những ngọn chồi non xanh mịn.
Suốt hôm trời oi bức. Đâu đây một trận giông đang sửa soạn kéo đến,
nhưng chỉ có một đám mây đen nhỏ hắt mấy giọt mưa trên bụi đường và
trên khóm lá xanh mọng. Phía bên trái, cánh rừng tối sẫm với những bóng
cây rợp mát; phía bên phải, thì ẩm ướt, bóng lộn, lá cây óng ánh dưới
nắng, chỉ khẽ đung đưa trong gió nhẹ. Cảnh vật đều nở hoa; có tiếng hoạ
mi thánh thót khi xa khi gần.
"Phải, ở đây, trong khóm rừng này có cây sồi mà dạo nọ ta đã từng đồng
tình, - công tước Andrey nghĩ thầm. - Nó đâu rồi nhỉ?".
Chàng nhìn sang bên trái đường và bất giác đưa mắt ngắm phía một cây
sồi lớn không nhận ra rằng đây chính là cây sồi mà chàng đang tìm kiếm.
Cây sồi già bây giờ đã đổi mới hẳn, toả rộng thành một vòm lá xum xuê
thẫm màu, đang như say sưa ngất ngây, khẽ đung đưa trong ánh nắng
chiều. Không còn thấy những ngón tay co quắp, những vết sứt sẹo, vẻ ngờ
vực và buồn rấu trước kia cũng không còn dấu vết. Xuyên qua lớp vỏ cứng
già hàng thế kỷ, những đám lá non xanh tươi đã đâm thẳng ra ngoài. Thật
khó lòng tin được rằng chính cây sồi cằn cỗi kia đã sinh ra những chòm
lá xanh mơn mởn ấy.
"Phải chính cây sồi dạo trước" - Công tước Andrey nghĩ, và chàng bỗng
vô cớ có một cảm giác vui mừng, sảng khoái, tưởng chừng như mỗi tế bào
trong mình đã đổi mới, sống lại. Và trong cùng một lúc chàng nhớ lại
tất cả những giờ phút tốt đẹp nhất của đời mình. Chiến trường Austerlix
với bầu trời cao *****g lộng, khuôn mặt đầy vẻ trách móc của vợ khi đã
tắt thở, Piotr trên chuyến phà, người con gái bồi hồi rung động trước
cảnh đẹp đêm ấy, và cả cái đêm hôm ấy, vầng trăng - tất cả những cái đó
đều cùng hiện lên trong ký ức của chàng.
"Không, cuộc đời chưa chấm dứt ở tuổi ba mươi mốt, công tước Andrey đột
nhiên nghĩ thầm, và ý nghĩ này có cái sức mạnh của một điều quyết định,
không thể nào thay đổi được nữa". Ta biết rõ những gì ở trong ta ư?
Không đủ. Phải làm thế nào cho mọi người cùng đều biết cơ: cả Piotr, cả
người con gái đêm nào muốn bay lên trời. Phải làm sao cho mọi người đều
biết rõ ta, sao cho cuộc sống của ta trôi qua không phải chỉ vì mình
ta, sao cho họ đừng sống cách biệt với cuộc sống của ta, như vậy, sao
cho cuộc đời của ta phản chiếu lên tất cả mọi người, và mọi người cùng
sống chung với ta!".
Về đến nhà, công tước Andrey định đến mùa thu sẽ đi Petersburg và ngồi
nghĩ ra nhiều lý do này nọ để biện hộ cho ý định này. Cả một loạt lý
luận phải chăng, hợp lý sẵn sàng hiện ra để giúp chàng cắt nghĩa tại
sao chàng lại cần phải đi Petersburg và hơn nữa phải nhận một chức vụ
của Nhà nước.
Ngay đến giờ chàng cũng chưa hiểu vì sao đã có lúc chàng có thể nghĩ về
sự cần thiết phải sống một cuộc sống hăng hái, cũng đúng như một tháng
trước đây ý nghĩ đi ra khỏi làng đối với chàng sẽ là phi lý. Chàng thấy
rất rõ ràng tất cả những kinh nghiệm của chàng về cuộc sống tất sẽ phí
và trở thành một điều vô nghĩa nếu chàng không đem nó ra sử dụng và
không trở lại hoạt động với đời. Thậm chí chàng không hiểu nổi tại sao
trước đây cũng dựa trên những lập luận thảm hại ấy chàng đã yên trí là
sau nhưng bài học đường đời ấy mà còn tin rằng mình có thể hữu ích, còn
tin vào hạnh phúc và tình yêu, thì thật là tủỉ nhục.
Bây giờ lý trí nói với chàng những điều khác hẳn. Sau chuyến đi, công
tước Andrey thấy chán cảnh sống ở thôn quê, chàng không còn thấy thú vị
trong những công việc trước kia nữa, và nhiều khi đang ngồi một, mình
trong phòng làm việc, chàng đứng dậy, đến trước tấm gương và nhìn mặt
mình một hồi lâu.
Rồi chàng quay lại nhìn bức chân dung của nàng Lyza quá cố, tóc uốn
quăn theo kiểu Hi Lạp, đang âu yếm và vui vẻ nhìn chàng trong chiếc
khung thiếp vàng. Nàng không còn nói với chàng những lời lẽ khủng khiếp
trước kia nữa, nàng chỉ vui vẻ nhìn chàng, vẻ giản dị và tò mò. Và công
tước Andrey chắp tay sau lưng đi đi lại lại trong phòng, khi cau mày,
khi mỉm cười ôn lại những ý nghĩ điên rồ, không thể nói ra được bằng
lời, bí ẩn như một tội ác, những ý nghĩ có liên quan đến Piotr, đến
danh vọng, đến cô gái ở cửa sổ, đến cây sồi, đến nhan sắc đàn bà và
tình yêu, những ý nghĩ đã biến đổi cả cuộc đời của chàng. Và trong
những giờ phút như vậy nếu có ai đến gặp chàng, chàng thường lỏ ra đặc
biệt kiên nghị, nghiêm khắc và lạnh lùng, và nhất là chàng lý sự một
cách khó chịu.
Trong những phút như vậy có khi công tước tiểu thư Maria vào phòng
chàng và nói: "Anh ạ, cháu Nikolai hôm nay không cho đi chơi được đâu
lạnh lắm".
Và những lúc ấy, công tước Andrey thường trả lời em rất xẵng:
- Nếu trời ấm thì nó sẽ mặc áo sơ mi mà đi chơi nhưng trời rét thế này
thì phải mặc thêm áo ấm cho nó, sinh ra áo ấm là để dùng vào những việc
như thế. Đấy, nếu trời rét thì phải làm như vậy chứ không phải là lại ở
nhà trong khi trẻ nó cần không khí. - chàng nói với một giọng lý sự đặc
biệt, như muốn trừng phạt một người nào về sự chuyển biến bí ẩn, phi lý
đang diễn ra trong tâm hồn chàng.
Trong những trường hợp như vậy, nữ công tước Maria thường nghĩ rằng công việc trí óc làm cho đàn ông khô cằn đi nhiều quá.









Phần VI

Chương - 4 -




Công tước Andrey đến Petersburg vào tháng Tám năm 1809.
Đó là lúc mà danh vọng của Xperanxki lên đến cực điểm, và cũng là lúc
viên đại thần trẻ tuổi ấy thực hiện những cuộc cải cách của mình một
cách kiên quyết nhất. Cũng vào tháng tám năm ấy, hoàng thượng bị đổ xe,
bị thương ở chân và phải ở lại Petersburg ba tuần, hàng ngày chỉ gặp
một mình Xperanxki. Vào thời ấy, ngoài hai đạo dụ nổi tiếng cho dư luận
xôn xao, bãi bỏ các chức tước trong triều đình và lập các kỳ thi vào
các quan chức chưởng giáp trợ tá(1) và cố vấn quốc gia(2), người ta còn
soạn ra cả một hiến pháp nhà nước nhằm thay đổi chế độ tư pháp, hành
chính và tài chính hiện hành ở Nga, kể từ hội đồng quốc gia cho chí ban
quản trị xã. Bây giờ là lúc những mong ước khoáng đạt mơ hồ của
Alekxandr đang được thực hiện và thành hình, những mong ước mà nhà vua
đã ấp ủ từ hồi mới lên ngôi và hy vọng thực hiện với sự giúp đỡ của
những người giúp việc của ngài Txartorixki, Novoxinsov, Kochubey và
Xtrovanov mà chính ngài thường gọi đùa là "Tiểu ban cứu quốc" của mình.
Bấy giờ Xperanxki đã thế chân cho những người ấy về mọi quan chức bên
nội chính, còn Arakseyev thì thế chân cho họ về quân sự. Công tước
Andrey đến Petersburg được mấy hôm đã phải đến trình diện ở triều đình
với tư cách là thị thần(3) và trong những buổi triều hội, Hoàng đế
Alekxandr đã hai lần gặp chàng mà chẳng nói với chàng lấy một lời. Từ
trước công tước Andrey đã luôn luôn có cảm tưởng là nhà vua không ưa
mình, không ưa cái diện mạo và cả con người mình. Trong cái nhìn lạnh
lùng và cao xa của nhà vua đối với chàng, bấy giờ Andrey càng thấy điều
mình ước đoán là đúng. Mấy vị triều thần cắt nghĩa cho công tước Andrey
hiểu rằng hoàng thượng lạnh nhạt với chàng như vậy là vì chàng đã thoát
ly mọi hoạt động từ năm 1805.
Công tước Andrey nghĩ:
"Bản thân ta vẫn biết rằng con người không làm chủ được lòng yêu ghét
của mình, cho nên tốt hơn là đừng nghĩ đến việc thân hành đem bản bút
ký về quy chế quân đội trình lên nhà vua làm gì, rồi sự thực tự nó sẽ
nói thôi".
Chàng đem chuyện này nói với một vị thống soái già vốn là bạn của cha
chàng. Ông thống soái ấn định cho chàng một buổi hội kiến, tiếp chàng
rất niềm nở và hứa sẽ tâu lại với hoàng thượng. Vài hôm sau công tước
Andrey nhận được một bản thông báo cho hay rằng chàng phải ra mắt quan
tổng trưởng Chiến tranh là bá tước Arakseyev.
Đến ngày đã định, đúng chín giờ sáng công tước Andrey bước vào phòng khách của bá tước Arakseyev.
Công tước Andrey vốn không quen riêng Arakseyev và chưa bao giờ gặp ông
ta, nhưng những điều chàng được biết về Arakseyev ít làm cho chàng kính
nể con người này.
"Ông ta là tổng trưởng Bộ chiến tranh, là một nhân vật thân tín của
hoàng thượng: không ai có quyền động đến những phẩm chất cá nhân của
ông ta cả; họ đã giao cho ông ta xem xét bản bút ký của ta, - như vậy
nghĩa là chỉ có một mình ông có quyền đem nó ra thực hiện." - công tước
Andrey nghĩ trong khi cùng ngồi đợi với nhiều nhân vật quan trọng và
không quan trọng trong phòng tiếp tân của bá tước Arakseyev.
Công tước Andrey hồi còn làm việc nhà nước, phần lớn là làm sĩ quan phụ
tá, đã trông thấy rất nhiều phòng khách của các nhân vật quan trọng và
hiểu rất rõ tính chất của từng loại phòng khách như vậy. Phòng khách
của bá tước Arakseyev có một tính chất hoàn toàn đặc biệt. Trên gương
mặt của những nhân vật không quan trọng ngồi đợi đến lượt mình được
tiếp kiến trong phòng khách của bá tước Arakseyev hiện rõ vẻ e thẹn và
khúm núm. Trong gương mặt của những nhân vật có chức vụ cao hơn đều
thấy rõ một vẻ lúng túng giống nhau, được che đậy dưới một vẻ ung dung
bề ngoài và như có ý tự giễu cợt mình, giễu cợt cái địa vị của mình, và
giễu cợt người mình đang đợi. Người thì đi đi lại lại ra dáng tư lự,
người thì nói chuyện thì thầm và cười với nhau, và công tước Andrey
nghe rõ tên gọi đùa " Sila Andreyevich"(4) và mấy tiếng "ông bác sẽ cho
cậu một chầu" ám chỉ bá tước Arakseyev. Một vị tướng (nhân vật quan
trọng) có lẽ mếch lòng vì phải chờ đợi quá lâu, ngồi chéo chân lên ghế
và cười nụ một mình ra dáng khinh khỉnh.
Nhưng cánh cửa vừa mở ra, thì trong khoảnh khắc tất cả mọi gương mặt đều đồng loạt phản chiếu một cảm xúc duy nhất: sợ hãi.
Công tước Andrey một lần nữa yêu cầu viên trực nhật vào báo tên mình,
nhưng người ta nhìn chàng một cách ngạo nghễ và cho chàng biết là lúc
nào đến lượt chàng hẵng hay. Sau mấy người được viên sĩ quan phụ tá đưa
vào phòng làm việc của tổng trưởng rồi lại đưa ra, đến lượt một sĩ quan
dáng dấp sợ sệt và khúm núm khiến công tước Andrey phải kinh ngạc, được
đưa vào cái cửa khủng khiếp kia.
Cuộc tiếp kiến viên sĩ quan kéo dài một hồi lâu. Chợt từ phía sau cánh
cửa vẳng ra những tiếng nói khó chịu, và viên sĩ quan, mặt tái xanh,
môi run lẩy bẩy, bước ra khỏi phòng và ôm đầu đi qua phòng khách.
Sau đó công tước Andrey bước vào một căn phòng sạch sẽ không có gì sang
trọng và bên chiếc bàn chàng thấy một người trạc bốn mươi tuổi, lưng
dài, tóc húi ngắn, mặt có những nếp nhăn dày, đôi lông mày nhíu lại
phía trên đôi mắt **c màu xanh nhờ nhờ như có pha màu nâu, cái mũi đỏ
khoặm xuống, Arakseyev, quay đầu về phía công tước Andrey, nhưng không
nhìn chàng.
- Ông xin việc gì? - Arktseye hỏi.
- Thưa ngài, tôi không xin gì cả!
- Công tước Bolkonxki phải không?
- Tôi không xin gì cả; hoàng thượng có lòng chuyển cho quan lớn tập bút ký của tôi…
- Ông bạn rất quý ạ, xin ông biết cho rằng bản bút ký của ông tôi đã có
đọc - Arakseyev ngắt lời. Ông ta nói mấy tiếng đầu với một giọng ôn
tồn, rồi không muốn nhìn vào mặt công tước Andrey nữa và giọng nói ngày
càng chuyển thành cáu kỉnh và khinh bỉ. - Ông đề nghị những đạo luật
quân sự mới à? Luật thì nhiều lắm, luật cũ đấy cũng chưa có ai thi hành
cho. Bây giờ thì ai cũng soạn luật cả, viết vốn dễ làm hơn mà?
- Tôi lĩnh ý hoàng thượng đến đây mong ngài cho biết ngài định sử dụng
tập bút ký của tôi như thế nào. - công tước Andrey lễ phép nói.
- Tôi đã có quyết định về bút ký của ông và đã chuyển sang Uỷ ban rồi.
Tôi không tán thành, - Arakseyev vừa nói vừa đứng dậy và lấy ở bàn viết
ra một tờ giấy đưa cho công tước Andrey nói. - Đây!
Trên tờ giấy có viết ngang mấy dòng chữ bằng bút chì, không có chữ hoa,
sai hết chính tả, không có dấu chấm câu: "Soạn không chu đáo, bắt chước
quy chế quân sự Pháp và khác với điều lệ quân đội một cách không cần
thiết".
Công tước Andrey hỏi:
- Bản bút ký của tôi được chuyển cho Uỷ ban nào?
- Uỷ ban quy chế quân sự; và tôi có giới thiệu ngài vào làm uỷ viên trong Uỷ ban đó. Nhưng không có lương.
Công tước Andrey mỉm cười.
- Tôi cũng không mong thế.
- Uỷ viên không lương. - Arakseyev nhắc lại…
- Tôi đã được hân hạnh. Ê! Cho vào! Còn ai nữa? - Ông ta vừa quát vừa cúi đầu chào công tước Andrey.

Chú thích:
(1) Chức quan văn đệ bát phẩm
(2) Chức quan văn đệ ngũ phẩm
(3) Phẩm hàm danh dự trong cung đình; nguyên là chức của các triều thần
lo các công việc nội bộ của cung điện (tiếng Đức Kanmerberr)
(4) Sila có nghĩa là "sức mạnh"



Về Đầu Trang Go down
♪-Peter-♪
SuperMod
SuperMod
♪-Peter-♪

Tổng số bài gửi : 1229
Birthday : 29/12/1994
Cầm Tinh : Tuất
Age : 29
Ngày nhập học : 16/12/2010

Đến từ : THPT Xuân Lộc
Job/hobbies : student
Tài Sản Cá Nhân : Xe Thể Thức 1

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 EmptySat Dec 25, 2010 7:44 pm

Phần VI

Chương - 5 -



Trong khi chờ đợi thông báo về việc bổ nhiệm uỷ viên, công tước
Andrey gặp những người quen cũ, nhất là những người mà chàng biết là có
thế lực và chàng có thể sẽ cần đến. Bấy giờ ở Petersburg chàng có một
cảm giác giống như đệm trước khi ra trận khi chàng cảm thấy tò mò và
bồn chồn lo lắng, và có một cái gì thu hút chàng mãnh liệt đến các giới
quyền cao chức trọng, nơi đang quyết định tương lai, nơi nắm giữ vận
mệnh của hàng triệu người.
Xem cái vẻ hằn học của các quan chức cao tuổi, cái vẻ tò mò của những
kẻ không am hiểu, cái vẻ dè dặt của những người am hiểu, cái vẻ vội
vàng lo lắng của mọi người, cái tình trạng số tiểụ ban này tiểu ban nọ
không sao kể xiết. - mỗi ngày lại càng được biết thêm mấy tiểu ban như
thế - công tước Andrey cảm thấy rằng hiện nay, năm 1809, ở thành phố
Petersburg này đang sắp diễn ra một trận thi đấu lớn trong chính giới,
và người tổng chỉ huy trận này là một nhân vật mà chàng chưa hề biết,
một nhân vật bí ẩn mà chàng đoán chắc phải là một thiên tài: người đó
là Xperanxki. Cái công cuộc cải cách mà chàng chỉ biết lờ mờ. Và
Xperanxki, con người chủ chốt trong công cuộc này, bắt đầu khiến chàng
quan tâm hết sức đến nỗi trong trí óc chàng việc cải cách quy chế quân
đội chẳng bao lâu đã tụt xuống hàng thứ yếu…
Công tước Andrey đang ở một cương vị thuận lợi bậc nhất đế được tiếp
đãi ân cần trong tất cả các giới tai mắt hồi ấy ở Petersburg.
Phái cải cách mềm nở tiếp đón và mời mọc chàng, trước hết vì chàng vốn
được tiếng là thông minh và học vấn sâu rộng, thứ hai việc giải phóng
nông nô đã khiến chàng nổi tiếng là người có tư tưởng tự do. Phái những
người già bất mãn thấy chàng là con trai lão công tước Bolkonxki, nên
chờ mong chàng sẽ đồng tình với họ mà lên án những cuộc cải cách. Giới
phụ nữ, giới giao tế thượng lưu niềm nở tiếp chàng, vì chàng là một đám
giàu có và quyền quý.
Chàng như đã trở thành một nhân vật mới, chung quanh bao bọc một ánh
hào quang đậm màu thơ mộng do câu chuyện chàng tử trận và cái chết bi
thảm của vợ chàng tạo nên. Ngoài ra, tất cả những ai biết chàng từ
trước đều đồng thanh nhận rằng năm năm nay chàng đã khá hơn trước nhiều
và đã nhũn nhặn, chín chắn hơn xưa, rằng chàng không còn cái vẻ vờ
vĩnh, kiêu căng, ngạo mạn như trước nữa, rằng nay chàng đã có cái thái
độ trầm tĩnh của một người đã sống nhiều. Họ bàn tán về chàng, chú ý
đến chàng và mong được gặp chàng.
Sau buổi đến yết kiến bá tước Arakseyev một hôm, công tước Andrey đến
thăm bá tước Kochubey vào buổi tối. Chàng kể cho bá tước nghe chuyện
chàng tiếp xúc với Sila Andreyevich (Kochubey cũng gọi Arakseyev như
vậy với cái vẻ giễu cợt bâng quơ, không biết nhằm vào cái gì, mà công
tước Andrey đã nhận thấy trong phòng khách của quan tổng trưởng Bộ
chiến tranh).
- Anh bạn ạ, ngay cả việc này nữa, cũng không thế không qua tay Mikhail
Mikhailovich. Đó chính là người làm ra mọi chuyện. Tôi sẽ nói với ông
ấy. Ông ấy có hứa tối nay sẽ đến.
- Ông Xperanxki thì liên quan gì đến các quy chế quân sự? - công tước Andrey hỏi.
Kochubey mỉm cười, lắc đầu như có ý ngạc nhiên về sự ngây thơ của Bolkonxki, rồi nói tiếp:
- Cách đây mấy năm hôm tôi với Xperanxki có nói chuyện về anh, về mấy chú nông dân tự do của anh đấy…
Một ông già sống từ thời Ekaterina bấy giờ đang ngồi trong phòng khách
nghe nói liền quay đầu lại nhìn Bolkonxki ra vẻ khinh khỉnh và nói:
- A thế ra công tước chính là cái người đã giải phóng bọn mu-gich của ông đấy phỏng?
- Điền trang nhỏ quá thu nhập chẳng được bao nhiêu cả - Bolkonxki đáp
cố làm cho hành động của mình bớt ý nghĩa để khỏi khiêu khích ông già
một cách vô ích.
- Công tước sợ lạc hậu chắc? - Ông già đưa mắt nhìn Kochubey nói.
- Có một điều làm cho tôi thắc mắc, - Ông già nói tiếp - là nếu cho
chúng nó tự do thì ai sẽ cày bừa cho? Soạn luật thì dễ, cai trị thì
khó. Cũng như bây giờ đây, tôi xin hỏi bá tước nếu mọi người đều phải
thi cả thì ai sẽ đứng đầu các nghị viện?
- Tôi thiết tưởng những người đã thi họ đứng đầu chứ? - Kochubey đáp, vừa tréo chân lại vừa đưa mắt nhìn quanh.
- Đấy như ở chỗ tôi có ông Pryanitsnikov, một người rất tốt, một con
người vàng ngọc chứ không phải, năm nay ông ta sáu mươi tuổi rồi, chả
nhẽ ông ta cũng phải thi sao?
- Phải, cũng khó thật. Vì nay học vẫn ít được truyền bá quá nhưng…
Bá tước Kochubey không nói hết. Ông ta đứng dậy nắm lấy tay công tước
Andrey và ra đón một người vừa mới bước vào, thân hình cao lớn, trán
rộng và hói, tóc vàng, trạc bốn mươi tuổi, khuôn mặt dài dài, nước da
trắng lạ thường. Người mới vào mặc lễ phục màu xanh, cổ đeo huân chương
chữ thập và ngực đính một ngôi sao ở bên trái. Người đó là Xperanxki.
Công tước Andrey nhận ra ông ta ngay và lòng chàng như có cái gì thắt
lại, như ta vẫn thường thấy trong những giờ phút quan trọng của cuộc
đời. Đó là vì kính trọng, vì ganh tị hay là vì chờ đợi, - chàng cũng
không rõ. Cả con người Xperanxki có một cái gì đặc biệt khiến người ta
có thể nhận ra ngay. Trong cái xã hội chàng đã từng sống, công tước
Andrey chưa thấy người nào có những cử chỉ chậm chạp, vụng về mà lại
đầy vẻ trầm tĩnh và tự tin như vậy, chàng chưa thấy người nào có đôi
mắt lim dim và hơi ướt với cái nhìn vừa kiên quyết vừa dịu dàng, một nụ
cười không có ý nghĩa gì nhưng lại rắn rỏi, một giọng nói nhỏ nhẹ, đều
đều và đặc biệt là một nước da trắng mịn lạ lùng trên khuôn mặt và nhất
là trên hai bàn tay hơi to nhưng mềm, múp, và trắng lạ lùng như vậy.
Công tước Andrey chỉ thấy cái nước da trắng và cái vẻ mặt dịu dàng ấy ở
những người lính đã nằm nhà thương rất lâu.
Đó chính là Xperanxki, quốc vụ khanh và báo cáo viên của hoàng đế, đã
từng đi theo nhà vua đến Erfurt và đã gặp gỡ, nói chuyện với Napoléon
mấy lần ở đấy.
Xperanxki không đưa mắt nhìn lướt từ người này sang người khác như
người ta thường làm một cách không tự giác khi bước vào một nơi đông
người, và không nói vội. Ông ta nói khe khẽ, tin chắc rằng người ta sẽ
nghe mình, và nói với ai thì chỉ nhìn vào người ấy.
Công tước Andrey đặc biệt chăm chú theo dõi từng lời, từng cử chỉ của
Xperanxki. Cũng như mọi người, nhất là những ai thường xét đoán đồng
loại một cách nghiêm khắc, khi gặp một nhân vật mới, nhất là một nhân
vật như Xperanxki: một người mà chàng đã biết tiếng, công tước Andrey
bao giờ cũng chắc mẩm sẽ tìm thấy ở người đó những phẩm chất hoàn mỹ
nhất của loài người.
Xperanxki nói với Kochubey ông ta lấy làm tiếc à không đến sớm hơn được
vì có việc phải nán lại ở hoàng cung. Ông ta không nói rõ là chính
hoàng thượng đã giữ ông lại. Công tước Andrey cũng để ý tới sự khiêm
tốn đáng chú ý này. Khi Kochubey giới thiệu công tước Andrey Bolkonxki,
Xperanxki chậm rãi đưa mắt sang phía chàng và vẫn giữ nụ cười như cũ,
bắt đầu im lặng nhìn chàng.
- Tôi rất làm mừng được làm quen với công tước; cũng như mọi người, tôi đã được nghe nói về công tước - Xperanxki nói.
Kochubey nói qua mấy lời về việc Arakseyev tiếp Bolkonxki.
Xperanxki mỉm cười rộng miệng hơn nữa.
- Ông giám đốc ban quy chế quân sự - ông Maritxki là bạn thân của tôi -
Xperanxki nói, phát âm rõ ràng từng chữ từng vần, - và nếu ngài muốn,
tôi có thể giới thiệu ngài với ông ta. (Xperanxki đứng lại) Tôi hy vọng
rằng ngài sẽ thấy ông ta đồng tình với ngài và sẵn lòng ủng hộ tất cả
những gì hợp lý.
Xung quanh Xperanxki các tân khách đã quây lại thành một vòng, và ông
già lúc nãy nói chuyện về người viên chức Pryanitsnikov của mình cũng
đến xin hỏi Xperanxki một câu.
Công tước Andrey không tham gia vào câu chuyện. Chàng để ý quan sát mọi
cử động của Xperanxki, con người mới đây còn là một anh học trò trường
dòng vô danh mà nay đã nắm trong tay - trong đôi tay trắng trẻo và múp
míp ấy - cả vận mệnh của nước Nga, như Bolkonxki tự nhủ. Công tước
Andrey không khỏi kinh ngạc về cái phong thái điềm tĩnh và xem thường
của Xperanxki khi trả lời ông già. Ông ta có vẻ như đứng ở một cao điểm
chót vót mà hạ cố nói với ông già kia. Khi ông già nói hơi to quá thì
Xperanxki mỉm cười và đáp rằng ông ta không có quyền được phán đoán
thiệt hơn về những việc hoàng thượng có ý muốn làm.
Ngồi nói chuyện được một lúc giữa dám tân khách, Xperanxki đứng dậy và
đến gần công tước Andrey mời chàng theo mình đi đến đầu kia phòng. Có
thể thấy rõ rằng ông ta thấy cần phải lưu ý đến Bolkonxki.
- Vừa rồi chuyện trò với cụ già ấy hăng quá nên tôi chưa kịp nói xong
chuyện với công tước, - Xperanxki nói, miệng mỉm cười dịu dàng và khinh
khỉnh, cái nụ cười dường như thừa nhận rằng ông ta cũng như công tước
Andrey đều hiểu rõ cái kém cỏi của những người vừa nói chuyện với ông.
Điều đó làm cho công tước Andrey rất hài lòng. - Tôi biết công tước từ
lâu: trước hết là nhân việc ngài giải phóng nông dân, đó là tấm gương
đầu tiên ở nước ta và mong sao tấm gương ấy ngày càng có nhiều người
theo hơn; sau nữa là vì ngài là một trong những vị thị thần không bực
mình vì cái đạo dụ mới ra về các quan chức trong triều đình, một đạo dụ
đã gây rất nhiều lời bàn ra tán vào.
Công tước Andrey nói:
- Vâng, cha tôi không muốn rằng tôi lợi dụng cái quyền ấy; tôi bắt đầu làm việc nhà nước ở những cấp bậc thấp.
- Cụ thân sinh công tước tuy là một người của thế kỷ trước, nhưng rõ
ràng là cụ hơn những người ở thời đại ta rất nhiều, những người công
kích biện pháp ấy, tuy thật ra nó chỉ phục hồi lại một sự công bằng tự
nhiên mà thôi.
- Nhưng tôi thiết tưởng những lời công kích đó cũng có cơ sở. - Công
tước Andrey muốn cưỡng lại ảnh hưởng của Xperanxki mà chàng đã bắt đầu
thấy tác động đến mình. Chàng cảm thấy khó chịu nếu việc gì cũng đồng ý
với ông ta: chàng muốn nói ngược lại. Thường ngày chàng vẫn nói năng dễ
dàng và lưu loát, nay lại thấy khó diễn đạt khi nói chuyện với
Xperanxki. Tâm trí chàng đang mải dồn vào việc quan sát nhân cách của
con người nổi tiếng này.
- Có lẽ vì dựa trên lòng hiếu danh cá nhân - Xperanxki nói nhẹ.
- Một phần cũng vì quốc gia nữa, - công tước Andrey nói.
- Ý công tước muốn nói thế nào? - Xperanxki hỏi, mắt hơi nhìn xuống.
- Tôi là một người khâm phục Mongtexkiơ - công tước Andrey nói. - và tư
tưởng của Mongtexkiơ cho rằng nguyên lý của các chế dộ quân chủ là danh
dự thì tôi thấy là không thể chối cãi được. Có những quyền hạn và đặc
quyền của giới quý tộc theo tôi là những phương tiện để củng cố danh
dưh.
Nụ cười vụt tắt trên khuôn mặt Xperanxki và điều đó tôn diện mạo của
ông ta lên rất nhiều. Có lẽ ông ta thấy ý nghĩ của công tước Andrey rất
đáng quan tâm.
- Nếu ông nhìn vấn đề theo quan điểm ấy - Xperanxki mở đầu ông ta nói
tiếng Pháp một cách khó khăn rõ rệt và nói còn chậm hơn khi nói tiếng
Nga, nhưng giọng nói vẫn hoàn toàn điềm tĩnh. Xperanxki nói rằng không
thể củng cố danh dự L honnuer, bằng những ưu thế có hại cho quá trình
phục vụ nhà nước, rằng danh dự L honnuer, có thể hoặc là một khái niệm
tiêu cực răn người ta dừng làm những chuyện đáng trách, hoặc là một cội
nguồn nào thúc đẩy người ta đua nhau giành những phần thưởng khích lệ
để biểu hiện danh dự.
Lý luận của ông ta ngắn gọn, đơn giản và rành mạch.
- Cái thể chế dùng để củng cố danh dự ấy, cái cội nguồn của sự ganh
đua, là một thể chế giống Legion d honnuer (Đoàn danh dự) của đại đế
Napoléon, nó không có hại mà còn thuận lợi cho việc nước, chứ không
phải là một đặc quyền của đẳng cấp nào hay của triều đình.
Công tước Andrey nói:
- Tôi không cãi điều đó, nhưng không thể phủ nhận rằng những đặc quyền
của triều đình cũng đạt đến mục đích ấy: mỗi người triều thần đều thấy
mình phải xứng đáng với địa vị của mình.
- Nhưng bản thân công tước cũng đã từng không muốn hưởng đặc quyền đó.
- Xperanxki nói đoạn mỉm cười lỏ ra rằng mình muốn dùng một lời nhã
nhặn để chấm dứt câu chuyện đang làm cho công tước Andrey lúng túng. -
Nếu ông vui lòng cho tôi được cái hân hạnh tiếp ông hôm thứ tư tới thì
sau khi nói chuyện với Marnitxki tôi sẽ báo cho ông rõ về việc ông đang
lưu ý và ngoài ra tôi sẽ được hưởng cái thú được nói chuyện kỹ với ông.
Xperanxki nhắm mắt lại, cúi mình chào và, theo lối Pháp, không từ giã
các tân khách, cố gắng không làm cho ai chú ý đến mình, bước ra khỏi
phòng.
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content




CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 _
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full) - Page 3 Empty

Về Đầu Trang Go down
Xem thêm bài khác:

CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH - Lev Tolstoy (Full)

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang
Trang 3 trong tổng số 10 trangChuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10  Next
+ Viết tiếng việt có dấu để mọi người đọc được, để không bị hiểu sai ý nghĩa mình muốn diễn giải.
+ Lời lẽ phải lịch sự, không đuợc thô tục hay cải vã trong diễn đàn.
+ Nội dung bài trả lởi phải phù hợp với bài của chủ Topic, không được Spam.
+ Chia sẻ bài sưu tâm thì phải ghi rõ nguồn, để tôn trọng người viết.
+ Thực hiện những điều trên truớc khi gửi bài, là tôn trọng chính mình.

- Nếu chèn smilies vào bài viết thì bật a/A trên phải khung viết bài.

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Trường THPT Xuân Lộc :: GIẢI TRÍ :: Đọc truyện :: Truyện dài-
Chuyển đến:
Loading...
Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất
Web THPTXL